Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật không có nghĩa là tuyệt đối hoá quyền lực, bót nghẹt tính chủ động, sáng tạo, mà là đổi mới, làm cho hợp lý hơn, từ đó tăng hơn sức mạnh, hiệu lực quản lý của bộ máy, nhân sự, hiệu quả quản lý cao hơn, đúng định hướng và mục tiêu quản lý đã trù định trước.
Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trên lĩnh vực hải quan không nằm ngoài ý nghĩa trên, song trên thực tế vẫn còn tồn tại không ít vấn đề cần phải được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.
Hiện nay, vấn đề tăng cường quản lý nhà nước lĩnh vực hải quan là vấn đề hết sức cấp bách, đặc biệt cần phải được quan tâm, coi trọng, đó là vì:
- Hiện nay, Đảng ta chủ trương chính sách “độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế”; chủ động hội nhập để phát triển kinh tế, nhưng phải bảo vệ được lợi ích dân tộc, độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia và an ninh kinh tế, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường; bảo vệ và phát triển, giữ gìn bản sắc văn hoá Việt Nam, giao lưu, hội nhập với các nền văn hoá thế giới.
- Đời sống kinh tế, văn hoá-xã hội trên toàn cầu, ở từng khu vực “từng ngày, từng giờ” thay đổi phức tạp, đòi hỏi các quốc gia phải có sự hợp tác, thống nhất tiêu chuẩn pháp lý về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát; phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới; phòng, chống các hoạt động vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, “rửa tiền”, buôn bán, vận chuyển ma tuý xuyên quốc gia ; giảm thiểu các biện pháp kiểm soát bằng phi quan thuế, tiến tới thống nhất biểu thuế quan chung.
- Xuyên suốt hơn 15 năm qua, Đảng ta luôn khẳng định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật”[20, tr.131-132]; tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước thông qua các biện pháp “tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, sách nhiễu gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển, ; kiểm tra, kiểm soát, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại”[20, tr.101-102].
- Cải cách nền hành chính nhà nước là xu thế chung của các quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam, trong đó đòi hỏi phải cải cách, đổi mới cả thể chế, bộ máy, các biện pháp đảm bảo thực hiện. Xây dựng một nền hành chính hiện đại, trong sạch, vững mạnh, đơn giản, giảm thiểu phiền hà, tiêu cực, tham nhũng; một nền “hành chính công” phải lấy mục tiêu, mục đích “phục vụ” là chủ yếu.
- Hơn 15 năm qua, hệ thống pháp luật lĩnh vực hải quan mặc dù đã được phát triển, củng cố, đổi mới; nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành, bổ sung, sửa đổi. Song, bên cạnh những ưu điểm, vẫn còn không ít hạn chế, tồn tại, như: hệ thống pháp luật đồ sộ, tính ổn định kém, bất cập, nhiều quy định chưa rõ ràng, ban hành chậm trễ; thiếu tính đồng bộ giữa pháp luật thủ tục và luật nội dung; hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và rà soát, hệ thống hoá pháp luật chưa được chú trọng, quan tâm đúng mức, còn mang nặng tính tạm thời, đối phó tình thế là chủ yếu Việc tổ chức thực hiện và đảm bảo thực hiện pháp luật bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn không ít khiếm khuyết, yếu kém, chưa đạt yêu cầu, mục tiêu, mục đích, hiệu quả quản lý đặt ra.
126 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1232 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật không có nghĩa là tuyệt đối hoá quyền lực, bót nghẹt tính chủ động, sáng tạo, mà là đổi mới, làm cho hợp lý hơn, từ đó tăng hơn sức mạnh, hiệu lực quản lý của bộ máy, nhân sự, hiệu quả quản lý cao hơn, đúng định hướng và mục tiêu quản lý đã trù định trước.
Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trên lĩnh vực hải quan không nằm ngoài ý nghĩa trên, song trên thực tế vẫn còn tồn tại không ít vấn đề cần phải được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.
Hiện nay, vấn đề tăng cường quản lý nhà nước lĩnh vực hải quan là vấn đề hết sức cấp bách, đặc biệt cần phải được quan tâm, coi trọng, đó là vì:
- Hiện nay, Đảng ta chủ trương chính sách “độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế”; chủ động hội nhập để phát triển kinh tế, nhưng phải bảo vệ được lợi ích dân tộc, độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia và an ninh kinh tế, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường; bảo vệ và phát triển, giữ gìn bản sắc văn hoá Việt Nam, giao lưu, hội nhập với các nền văn hoá thế giới.
- Đời sống kinh tế, văn hoá-xã hội…trên toàn cầu, ở từng khu vực “từng ngày, từng giờ” thay đổi phức tạp, đòi hỏi các quốc gia phải có sự hợp tác, thống nhất tiêu chuẩn pháp lý về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát; phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới; phòng, chống các hoạt động vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, “rửa tiền”, buôn bán, vận chuyển ma tuý xuyên quốc gia…; giảm thiểu các biện pháp kiểm soát bằng phi quan thuế, tiến tới thống nhất biểu thuế quan chung.
- Xuyên suốt hơn 15 năm qua, Đảng ta luôn khẳng định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân… Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật”[20, tr.131-132]; tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước thông qua các biện pháp “tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, sách nhiễu gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển,…; kiểm tra, kiểm soát, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại”[20, tr.101-102].
- Cải cách nền hành chính nhà nước là xu thế chung của các quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam, trong đó đòi hỏi phải cải cách, đổi mới cả thể chế, bộ máy, các biện pháp đảm bảo thực hiện. Xây dựng một nền hành chính hiện đại, trong sạch, vững mạnh, đơn giản, giảm thiểu phiền hà, tiêu cực, tham nhũng; một nền “hành chính công” phải lấy mục tiêu, mục đích “phục vụ” là chủ yếu.
- Hơn 15 năm qua, hệ thống pháp luật lĩnh vực hải quan mặc dù đã được phát triển, củng cố, đổi mới; nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành, bổ sung, sửa đổi. Song, bên cạnh những ưu điểm, vẫn còn không ít hạn chế, tồn tại, như: hệ thống pháp luật đồ sộ, tính ổn định kém, bất cập, nhiều quy định chưa rõ ràng, ban hành chậm trễ; thiếu tính đồng bộ giữa pháp luật thủ tục và luật nội dung; hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và rà soát, hệ thống hoá pháp luật chưa được chú trọng, quan tâm đúng mức, còn mang nặng tính tạm thời, đối phó tình thế là chủ yếu… Việc tổ chức thực hiện và đảm bảo thực hiện pháp luật bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn không ít khiếm khuyết, yếu kém, chưa đạt yêu cầu, mục tiêu, mục đích, hiệu quả quản lý đặt ra.
Xuất phát từ những lý do trên đây, việc nghiên cứu đề tài: " Tăng cường quản lý nhà nước bằng phỏp luật trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam hiện nay " là rất cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
ở Việt Nam trước đó, đã có một số công trình có đề cập đến quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan, như : “Hải quan trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Nguyễn Đức Kiên-Tạp chí Lý luận Chính trị số 7-2002; “Đặc thù của công tác hải quan ở nước ta hiện nay”, Ths. Chu Văn Nhân-Tạp chí Lý luận Chính trị số 8-2002; “Một số vấn đề về văn bản QPPL liên quan trực tiếp tới hoạt động quản lý Nhà nước về hải quan”, Nguyễn Hữu Xuân-Tạp chí Nghiên cứu Hải quan số 3-2002… Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu, những công trình này chỉ đề cập đến quản lý Nhà nước bằng pháp luật ở một góc độ, khía cạnh nhất định, chưa có tính khái quát, bao trùm.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Trong phạm vi một luận văn thạc sỹ luật và với khả năng cho phép, tác giả cố gắng nghiên cứu tổng quát hoạt động quản lý nhà nước lĩnh vực hải quan từ khi đổi mới, hội nhập kinh tế đến nay(1986-2003); tập trung nghiên cứu các nội dung cơ bản của quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan trên các mặt về hoạt động xây dựng, thực hiện và bảo đảm thực hiện pháp luật.
4. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.
- Về mục đích, luận văn có mục đích làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của yêu cầu khách quan phải tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam, từ đó đề xuất quan điểm, giải pháp chủ yếu tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan hiện nay.
- Về nhiệm vụ, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau.
+ Phân tích cơ sở lý luận về quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan, như: phân tích một số khái niệm liên quan, đặc điểm và nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan.
+ Phân tích, đánh giá khái quát thực trạng của quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan từ 1986 đến nay, rút ra các thành tựu, tồn tại và nguyên nhân hạn chế.
+ Luận chứng yêu cầu khách quan tiếp tục tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan.
+ Đề xuất, luận chứng quan điểm và giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật và các quan điểm có tính lý luận của Đảng trong các đường lối, chủ trương đổi mới, thực hiện "đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế", xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của triết học Mác-Lênin, như: phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể và một số phương pháp của các bộ môn khoa học khác, như: phương pháp luật học so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp hệ thống, phương pháp của xã hội học...
6. Đóng góp mới của luận văn.
- Là luận văn lần đầu nghiên cứu có hệ thống những khái niệm liên quan đến vấn đề quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan; phân tích đặc điểm, nội dung của quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan.
- Phân đích, đánh giá, tổng kết thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan từ năm 1986 đến nay.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn.
Luận văn gồm: mở đầu, 3 chương 9 tiết, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước
bằng pháp luật lĩnh vực hải quan
1.1. Các khái niệm liên quan đến quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan vừa liên quan đến những vấn đề lý luận cơ bản của khoa học pháp lý, vừa là lĩnh vực QLNN chuyên ngành-khoa học hải quan. Vì thế, nghiên cứu vấn đề tăng cường QLNN bằng pháp luật lĩnh vực hải quan, về lý luận phải làm rõ các khái niệm, phạm trù liên quan. Đó không chỉ là vấn đề nhận thức, mà còn có ý nghĩa phương pháp luận để nghiên cứu những đặc điểm, nội dung QLNN bằng pháp luật lĩnh vực hải quan, và đặc biệt là giúp cho việc đánh giá chính xác thực trạng, đề xuất và luận chứng được với tính thuyết phục của các giải pháp tăng cường lĩnh vực quản lý quan trọng này của Nhà nước.
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật.
Quản lý là một khái niệm được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Theo sách “Gốc và Nghĩa từ Việt thông dụng”, quản lý là “trông nom, sửa sang, sắp đặt công việc”, trong đó “quản” là “coi sóc công việc”, “lý” là “sửa sang, sắp đặt công việc”[67, tr.695].
Theo quan niệm của điều khiển học, quản lý là “điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được những mục đích đã định trước”[82, tr.7].
Các Mác nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học-khi nghiên cứu những vấn đề tổ chức quản lý xã hội, trước hết là quản lý lao động, đã chỉ rõ:
Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một nghệ sỹ vĩ cầm tự điều khiển mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng[47, tr.480].
Trong tiến trình phát triển của lịch sử, cùng với sự phát triển của khoa học quản lý đã xuất hiện những quan niệm khác nhau về quản lý, trong đó quan niệm phổ biến của quản lý, ở đây quản lý xã hội “là sự tác động nhằm điều khiển các quá trình xã hội, các hành vi và hoạt động của con người để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt được mục đích và đúng với ý chí của chủ thể quản lý”.
Quản lý nhà nước là quản lý xã hội, quản lý từng lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, do Nhà nước tiến hành, và quản lý chính việc tổ chức, hoạt động của Nhà nước. Như thế, quản lý nhà nước chỉ xuất hiện khi Nhà nước xuất hiện. Ph.Ăngghen, người bạn chiến đấu vĩ đại của Các Mác đã chỉ rõ bản chất giai cấp, đặc trưng của QLNN. Theo Ông, quản lý nhà nước là quản lý xã hội do giai cấp nắm quyền thống trị xã hội thực hiện thông qua Nhà nước của nó. Nhà nước quản lý xã hội bằng cách phân chia dân cư theo “địa vực”, trên cơ sở thiết lập một “quyền lực công cộng” tách rời khỏi dân cư và bằng việc đặt ra pháp luật, bắt buộc mọi tổ chức, mọi thành viên xã hội phải thi hành[46, tr.178-251-253-254]. Trong nhiều tác phẩm khác, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề ra những điều kiện của quản lý, trong đó, nhấn mạnh để quản lý phải có các chuẩn mực pháp lý, bộ máy quản lý và một quyền uy nhất định đủ để buộc đối tượng quản lý tuân theo ý chí được thể hiện trong các chuẩn mực pháp lý, trong các quyết định quản lý cụ thể.
Từ các quan niệm trên, QLNN bằng pháp luật được hiểu “là quản lý xã hội, do Nhà nước đại diện cho giai cấp thống trị xã hội tiến hành bằng công cụ pháp luật với việc sử dụng kết hợp với các công cụ, phương pháp và bằng hình thức khác nhau để tác động lên các quá trình xã hội, nhằm thiết lập, duy trì trật tự xã hội có lợi cho giai cấp thống trị”.
1.1.2. Khái niệm hải quan.
Hải quan là một cụm từ tiếng Việt được tích hợp bởi hai từ “hải”, có nghĩa là “biển” và từ “quan”, có nghĩa là “cửa ở biên giới”. Hải quan được định nghĩa là “cửa biên giới một nước ở cạnh biển. Nay ta lại hiểu là “thuế quan”, ở nơi cửa khẩu”[67, tr.355].
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, hải quan được hiểu là “công tác kiểm soát, đánh thuế hàng hoá xuất nhập cảng: công tác hải quan”, hoặc là “cơ quan làm công tác kiểm soát, đánh thuế hàng hoá xuất nhập cảng: trình báo đầy đủ giấy tờ cho hải quan”[90, tr.771].
Theo Luật Hải quan ban hành ngày 29-6-2001, thì hải quan được hiểu là một chính sách, chế độ, lĩnh vực hoạt động QLNN, là tên của một cơ quan nhà nước:
- Hải quan, với tính cách là một chính sách được Nhà nước đề ra cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển đất nước. Chính sách hải quan vừa phản ánh đường lối chính trị, kinh tế, an ninh, đối ngoại của Đảng, vừa phục vụ và đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, góp phần tạo ra khuôn khổ pháp lý về hải quan và tổ chức hoạt động hải quan, kế thừa và nhất quán chính sách của Nhà nước ta về hải quan. Chính sách hải quan được thể hiện rõ ở mục đích ban hành Luật Hải quan, được thể hiện trong lời nói đầu của Luật Hải quan, là “để góp phần bảo đảm thực hiện chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học và công nghệ; hợp tác và giao lưu quốc tế; bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Chính sách này gắn với đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đảm bảo các quyền, lợi ích của các chủ thể, đối tượng tham gia hoạt động hải quan trong quan hệ đối ứng, tương tác qua lại lẫn nhau, quyền và lợi ích của các bên đều gắn với trách nhiệm và nghĩa vụ phải thực hiện; khẳng định rõ quan điểm của Nhà nước về hải quan không chỉ vì lợi ích Nhà nước, mà chủ yếu “do dân, vì dân”…
Với nội dung trên, chính sách hải quan được thể chế hoá trong Luật Hải quan, được Nhà nước coi như một “hiến chương” nhất quán, làm nền tảng “kim chỉ nam” để xây dựng các chế độ quản lý về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan, áp dụng PLHQ, áp dụng các nguyên tắc quản lý hải quan hiện đại,… Hiến chương này được ghi nhận rõ tại Điều 1 Luật Hải quan: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh lãnh thổ Việt Nam”.
- Hải quan với tính cách là một cơ quan nhà nước-cơ quan Hải quan Việt Nam, với các nhiệm vụ, quyền hạn: 1, kiểm tra, giám sát hàng hoá, phương tiện vận tải; 2, phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới; 3, tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hoá XNK; 4, kiến nghị chủ trương, biện pháp QLNN về hải quan đối với hoạt động XNK, XNC, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hoá XNK[58].
Những nhiệm vụ, quyền hạn trên của cơ quan Hải quan Việt Nam cũng là những nhiệm vụ, quyền hạn mà hầu hết các Nhà nước, lãnh thổ tự trị trên thế giới đều giao cho cơ quan Hải quan. Có thể nói, đây là những nhiệm vụ cơ bản, chung nhất, thể hiện tính chất, đặc điểm hoạt động hải quan, gắn liền với sự tồn tại, phát triển lực lượng Hải quan.
- Hải quan được hiểu là một chế độ QLNN, trong đó đối tượng quản lý là “hàng hoá được xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài; về tổ chức và hoạt động của Hải quan”[58]. Quản lý nhà nước lĩnh vực hải quan, dù bằng công cụ, phương thức nào đều nhằm đảm bảo cho các công việc: về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan; kiểm tra thu thuế hàng hoá XNK; phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại; thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật, thống kê hải quan được diễn ra đúng pháp luật, với sự tham gia của các cấp, ngành, các cơ quan trong bộ máy nhà nước, các tổ chức và cá nhân công dân.
- Hải quan còn có thể được hiểu là một lĩnh vực quản lý của Nhà nước. Để quản lý lĩnh vực hải quan, Nhà nước ban hành và thực hiện chính sách, pháp luật, chế độ QLNN ở địa bàn hoạt động hải quan, bằng việc sử dụng các công cụ, phương tiện có tính chất quan thuế như thuế XNK, thuế GTGT đối với hàng hoá XNK,…hay phi quan thuế, như kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động XNK, quá cảnh hàng hoá và hoạt động XNC, quá cảnh phương tiện vận tải, hành khách; kiểm tra, thu thuế hàng hoá XNK; phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới và gian lận thương mại…
1.1.3. Khái niệm hoạt động hải quan.
Hoạt động hải quan nhằm thực hiện các chính sách, chế độ, thể lệ QLNN lĩnh vực hải quan. Hoạt động hải quan hiện nay gồm các hoạt động làm thủ tục hải quan, kiểm tra, kiểm soát, giám sát, thu thuế đối với hàng hoá XNK, quá cảnh, phương tiện vận tải XNC, quá cảnh và phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới được tiến hành bởi Hải quan và cơ quan khác của Nhà nước được uỷ quyền, ở cửa khẩu và ngoài cửa khẩu thuộc địa bàn hoạt động hải quan do pháp luật quy định. Như thế, hoạt động hải quan luôn gắn liền với hoạt động XNK, quá cảnh hàng hoá, XNC, quá cảnh phương tiện vận tải, bằng cách sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.
Trong quan niệm trên về hoạt động hải quan có những khái niệm sau cũng cần được làm rõ:
- Hàng hoá và hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh. Theo Luật Hải quan, hàng hoá và hàng hoá XNK, quá cảnh, gồm: “hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh; hành lý, ngoại hối, tiền Việt Nam của người xuất cảnh, nhập cảnh; vật dụng trên phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; kim khí quí, đá quí, cổ vật, văn hoá phẩm, bưu phẩm, các tài sản khác xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hoặc lưu giữ trong địa bàn hoạt động hải quan”. Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh cũng theo Luật này bao gồm “tất cả động sản có mã số và tên gọi theo quy định của pháp luật được xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hoặc lưu giữ trong địa bàn hoạt động hải quan”. Điều này có nghĩa là hàng hoá XNK, quá cảnh phải là loại đã được “mã số”, có tên trong Danh mục hàng hoá XNK Việt Nam, là đối tượng(vật thể) phải làm TTHQ, chịu sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan.
- Hành lý, được hiểu là “đồ dùng mang theo khi đi đường”[90, tr.780]. Tuy vậy, hành lý của người XNC không chỉ là những đồ dùng mang theo khi đi đường, mà còn là những hàng hoá, đồ dùng trong sinh hoạt, học tập, giải trí…mang theo người để sử dụng trong thời gian lưu lại ở nước nhập cảnh hoặc mang theo khi xuất cảnh đến một nước khác để tiếp tục sử dụng. Theo Luật Hải quan, “hành lý của người xuất cảnh, nhập cảnh là vật dụng cần thiết cho nhu cầu sinh hoạt hoặc mục đích chuyến đi của người xuất cảnh, nhập cảnh, bao gồm hành lý mang theo người, hành lý gửi trước hoặc gửi sau chuyến đi”. Hành lý phải là hàng hoá, vật dụng được phép XNK, lưu hành, phải làm TTHQ, chịu sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan.
- Tài sản di chuyển. Theo Luật Hải quan, Tài sản di chuyển là đồ dùng, vật dụng phục vụ sinh hoạt, làm việc của cá nhân, gia đình, tổ chức được mang theo khi thôi cư trú, chấm dứt hoạt động ở Việt Nam hoặc nước ngoài. Tài sản của người Việt Nam ở nước ngoài chuyển về định cư trong nước thì được miễn thuế NK và không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT. Tài sản của tổ chức, cá nhân Việt Nam đưa ra nước ngoài để kinh doanh, làm việc khi hết thời hạn trở về nước được miễn thuế NK đối với những tài sản đưa ra nước ngoài, nay đưa trở về nước. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được phép vào làm việc, công tác tại Việt Nam, khi đưa tài sản trở về nước phải nộp thuế XNK phần vượt định mức miễn thuế. Tài sản di chuyển phải là loại không thuộc Danh mục hàng hoá cấm XK, cấm NK, cấm lưu thông, phải làm TTHQ, chịu sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan.
- Xuất cảnh là “đi qua biên giới, ra khỏi lãnh thổ một nước”[90, tr. 1874]; nhập cảnh là “qua biên giới vào lãnh thổ nước khác của người, hàng hoá theo thủ tục quy định của nước đó”[90, tr.1242]. Khác với “xuất cảnh, nhập cảnh” của lĩnh vực an ninh, ngoại giao, giao thông vận tải, trong hoạt động hải quan “xuất cảnh, nhập cảnh” được hiểu là hoạt động của cá nhân, phương tiện vận tải XNC khi mang theo hoặc chuyên chở đối tượng(vật thể) thuộc diện phải làm TTHQ, chịu sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan[58].
- Quá cảnh được hiểu là việc “vận chuyển hàng hoá, hành khách qua một hay nhiều nước để tới nước khác trên cơ sở hiệp định đã kí giữa các nước hữu quan”[90, tr.1357]. Theo Luật Hải quan, quá cảnh “là việc chuyển hàng hoá, phương tiện vận tải từ một nước qua cửa khẩu vào lãnh thổ Việt Nam đến một nước khác hoặc trở về nước đó”. Hàng hoá, phương tiện vận tải quá cảnh Việt Nam phải được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép; vận chuyển, đi đúng tuyến đường; không phải kiểm tra thực tế(trừ khi vi phạm pháp luật), nhưng phải khai báo hải quan, chịu sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan đến khi ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.
- Phương tiện vận tải, theo Luật Hải quan, bao gồm “phương tiện vận tải đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường biển, đường sông xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh”. Ngoài ra, vận tải hàng hoá XNK, quá cảnh còn sử dụng nhiều phương tiện khác, như: ống dẫn chất lỏng, khí, dây dẫn kim loại, cáp quang,…
- Vật dụng trên phương tiện vận tải, theo Luật Hải quan bao gồm “tài sản sử dụng trên phương tiện vận tải; nguyên liệu, nhiên liệu phục vụ hoạt động của phương tiện vận tải; lương thực, thực phẩm và các đồ dùng khác trực tiếp phục vụ sinh hoạt của người làm việc và hành khách trên phương tiện vận tải”. Vật dụng trên phương tiện vận tải khi nhập cảnh không phải làm TTHQ, nhưng phải chịu sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan khi vào khu vực địa bàn hoạt động hải quan và cho đến khi xuất cảnh khỏi lãnh thổ Việt Nam. Phương tiện vận tải nhập cảnh khi còn lưu lại, đậu, đỗ ở Việt Nam được mua sắm, bổ sung vật dụng, được miễn thuế XNK, và phải làm TTHQ.
- Người khai hải quan; khai ở đây được hiểu là “cho biết hoặc làm cho biết”; khai báo là “khai với nhà chức trách những việc có liên quan tới mình hoặc mình biết được”[90, tr.884]. Không giống với việc khai báo cư trú, khai báo trong ngăn chặn hành chính, hình sự, “khai hải quan” là hoạt động khai báo với cơ quan hải quan về hàng hoá, phương tiện vận tải được dùng để XNK hoặc XNC, quá cảnh. Khai hải quan được tiến hành bởi “người khai hải quan”. “Người khai hải quan bao gồm chủ hàng hoá, chủ phương tiện vận tải hoặc người được chủ hàng hoá, chủ phương tiện vận tải uỷ quyền”[58]. Điều này có nghĩa là khai hải quan được tiến hành bởi chủ sở hữu hợp pháp đối với hàng hoá XNK, chủ phương tiện vận tải có thể là chủ sở hữu hợp pháp, người điều khiển hoặc lái phương tiện vận tải, hoặc người được chủ sở hữu hàng hoá, chủ phương tiện vận tải hàng hoá uỷ quyền hợp pháp để thay mặt họ khai báo, làm TTHQ trong phạm vi được uỷ quyền. Khai hải quan có thể thực hiện bằng tờ khai(chất liệu bằng giấy) hoặc khai bằng phương tiện điện tử(khai qua mạng máy vi tính).
- Người đại lý làm thủ tục hải quan. Đại lý được hiểu là “nơi mua bán giao dịch hoặc xử lý công việc theo uỷ thác của đơn vị sản xuất, thương nghiệp”[90, tr.578]. Theo Luật Hải quan, “người đại lý làm thủ tục hải quan là người khai hải quan theo uỷ quyền của người có quyền và nghĩa vụ trong việc làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu”. Điều này có nghĩa là “đại lý làm thủ tục hải quan” là người được chủ sở hữu hàng hoá XNK(kể cả người được uỷ thác) uỷ quyền làm TTHQ, thực hiện quyền, nghĩa vụ, các công việc khai, ký tờ khai, công việc khác của TTHQ theo hợp đồng uỷ quyền; chịu trách nhiệm trước pháp luật trong phạm vi được uỷ quyền về các nghĩa vụ của người khai hải quan; yêu cầu chủ sở hữu hàng hoá cung cấp đầy đủ, chính xác chứng từ, thông tin cần cho việc làm TTHQ, và đòi bồi thường thiệt hại, các chi phí phát sinh do hành vi vi phạm hợp đồng đại lý của chủ hàng gây ra. Người chủ hàng phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của bộ chứng từ, thông tin về hàng hoá đã cung cấp cho người đại lý, mặt khác, người đại lý phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước, người chủ sở hữu hàng hoá về hành vi vi phạm pháp luật do lạm dụng hợp đồng uỷ quyền.
- Thủ tục hải quan. Trong quản lý nhà nước, “thủ tục” được hiểu là “cách thức tiến hành một công việc với nội dung, trình tự nhất định theo quy định của cơ quan nhà nước”[90, tr.1596]. Theo Luật Hải quan, “thủ tục hải quan là các công việc mà người khai hải quan và công chức hải quan phải thực hiện” trong mối quan hệ đối ứng quyền, nghĩa vụ giữa Nhà nước với pháp nhân, công dân. Người khai hải quan(pháp nhân, công dân) phải khai và nộp tờ khai hải quan; nộp hoặc xuất trình chứng từ thuộc hồ sơ hải quan; đưa hàng hoá, phương tiện vận tải đến địa điểm được quy định cho việc kiểm tra thực tế hàng hoá, phương tiện vận tải; nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật. Công chức hải quan(Nhà nước) phải tiếp nhận và đăng ký hồ sơ hải quan; kiểm tra hồ sơ hải quan và kiểm tra thực tế hàng hoá, phương tiện vận tải; thu thuế và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật; quyết định việc thông quan hàng hoá, phương tiện vận tải. Thủ tục hải quan được tiến hành đơn giản, công khai, nhanh chóng, thuận tiện, theo đúng quy định của pháp luật. Thủ tục hải quan có thể bị tạm dừng khi có yêu cầu tạm dừng XNK, quá cảnh hàng hoá mà bị cho là đã vi phạm quyền sở hữu trí tuệ hợp pháp, nhưng phải theo đúng quy định của pháp luật và người yêu cầu phải chịu trách nhiệm trước pháp luật khi đưa ra yêu cầu này.
- Kiểm tra hải quan. Kiểm tra được hiểu là “xem xét thực chất, thực tế” một sự việc, sự vật nào đó[90, tr.937]. Kiểm tra hải quan không đồng nghĩa với kiểm tra công việc của cấp trên đối với cấp dưới, kiểm tra “chéo” cùng cấp hoặc khám xét-một biện pháp ngăn chặn hành chính, hình sự. “Kiểm tra hải quan”, theo Luật Hải quan là “việc kiểm tra hồ sơ hải quan, các chứng từ liên quan và kiểm tra thực tế hàng hoá, phương tiện vận tải do cơ quan hải quan thực hiện” hoặc do cơ quan được pháp luật uỷ quyền thực hiện để đánh giá sự tuân thủ PLHQ của pháp nhân, công dân thực hiện XNK, XNC, quá cảnh hàng hoá, phương tiện vận tải. Kiểm tra hồ sơ hải quan, chứng từ liên quan