Nhà nước ta là "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân". Tính ưu việt của Nhà nước ta không chỉ được xác định bản chất giai cấp tiền phong, cách mạng và khoa học của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn phụ thuộc vào phương thức quản lý khoa học và hiện đại, được coi là biện pháp đảm bảo vững chắc lâu dài cho Nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Điều 12 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.". Như vậy, khi thực hiện quản lý bất kỳ lĩnh vực xã hội cụ thể nào Nhà nước đều phải dùng pháp luật như một công cụ phổ biến và hữu hiệu nhất. Còn đối với nhân dân "pháp luật luôn luôn là chốn nương thân của mình". Trong quản lý lĩnh vực giao thông nói chung và giao thông đường bộ (GTĐB) nói riêng cũng như việc "thụ hưởng" dịch vụ công cộng thiết yếu này lại càng phải tuân thủ theo nguyên tắc pháp trị do Hiến pháp quy định.
Hoạt động giao thông vận tải là huyết mạch kinh tế của mỗi quốc gia. Nó phản ánh trình độ phát triển xã hội thể hiện ở mức độ đáp ứng những nhu cầu kinh tế, văn hoá, xã hội, đi lại, sinh hoạt của các tầng lớp dân cư. Trong đó, GTĐB luôn là mảng quan trọng nhất, xét trên tất cả mọi phương diện kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Giao thông là mạch máu của mọi việc. Giao thông tắc thì việc gì cũng khó, giao thông tốt thì việc gì cũng dễ dàng”. Hiện nay, GTĐB chiếm tỷ trọng lưu thông hàng hoá, phương tiện, đối tượng tham gia giao thông lớn nhất; chi phí cho GTĐB cũng là chi phí lớn nhất, lâu dài và ổn định nhất; nhu cầu phát triển GTĐB cũng to lớn. GTĐB có ở trên mọi địa hình, khu vực. và liên quan đến mọi tầng lớp nhân dân; chủ thể tham gia giao thông đông đảo nhất.
Sự diễn giải khái quát trên cho thấy vị trí, tầm quan trọng và nhu cầu ngày càng lớn của GTĐB ở nước ta. Đúng như các nhà nghiên cứu về hành chính công đã khẳng định: Quản lý xã hội là một chức năng trong các chức năng cơ bản của Chính phủ (chức năng chính trị, chức năng kinh tế, chức năng xã hội, chức năng văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật) và cần được coi vấn đề tổ chức, quản lý GTĐB như một dịch vụ công của Chính phủ. Đồng thời, mục đích được coi là nghĩa vụ, trách nhiệm quản lý của Chính phủ là đáp ứng nhu cầu giao thông và đảm bảo trật tự an toàn cho người và phương tiện khi tham gia GTĐB.
Có thể nói rằng, chưa bao giờ hệ thống GTĐB ở nước ta phát triển như hiện nay. Đó là nhờ sự nghiệp đổi mới do Đảng ta lãnh đạo, do hoạt động quản lý của Nhà nước ta và do sự đóng góp sức người sức của của nhân dân ta. Vậy, tại sao phải tăng cường quản lý nhà nước (QLNN) bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB ở nước ta hiện nay? Ngoài những lý do mang tính lý luận về những nguyên lý QLNN bằng pháp luật kể trên còn có những lý do đòi hỏi phải tổng kết đánh giá thực tiễn QLNN trong lĩnh vực GTĐB ở nước ta trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH).
111 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1893 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước ta là "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân". Tính ưu việt của Nhà nước ta không chỉ được xác định bản chất giai cấp tiền phong, cách mạng và khoa học của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn phụ thuộc vào phương thức quản lý khoa học và hiện đại, được coi là biện pháp đảm bảo vững chắc lâu dài cho Nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Điều 12 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa...". Như vậy, khi thực hiện quản lý bất kỳ lĩnh vực xã hội cụ thể nào Nhà nước đều phải dùng pháp luật như một công cụ phổ biến và hữu hiệu nhất. Còn đối với nhân dân "pháp luật luôn luôn là chốn nương thân của mình". Trong quản lý lĩnh vực giao thông nói chung và giao thông đường bộ (GTĐB) nói riêng cũng như việc "thụ hưởng" dịch vụ công cộng thiết yếu này lại càng phải tuân thủ theo nguyên tắc pháp trị do Hiến pháp quy định.
Hoạt động giao thông vận tải là huyết mạch kinh tế của mỗi quốc gia. Nó phản ánh trình độ phát triển xã hội thể hiện ở mức độ đáp ứng những nhu cầu kinh tế, văn hoá, xã hội, đi lại, sinh hoạt của các tầng lớp dân cư. Trong đó, GTĐB luôn là mảng quan trọng nhất, xét trên tất cả mọi phương diện kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Giao thông là mạch máu của mọi việc. Giao thông tắc thì việc gì cũng khó, giao thông tốt thì việc gì cũng dễ dàng”. Hiện nay, GTĐB chiếm tỷ trọng lưu thông hàng hoá, phương tiện, đối tượng tham gia giao thông lớn nhất; chi phí cho GTĐB cũng là chi phí lớn nhất, lâu dài và ổn định nhất; nhu cầu phát triển GTĐB cũng to lớn. GTĐB có ở trên mọi địa hình, khu vực... và liên quan đến mọi tầng lớp nhân dân; chủ thể tham gia giao thông đông đảo nhất.
Sự diễn giải khái quát trên cho thấy vị trí, tầm quan trọng và nhu cầu ngày càng lớn của GTĐB ở nước ta. Đúng như các nhà nghiên cứu về hành chính công đã khẳng định: Quản lý xã hội là một chức năng trong các chức năng cơ bản của Chính phủ (chức năng chính trị, chức năng kinh tế, chức năng xã hội, chức năng văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật) và cần được coi vấn đề tổ chức, quản lý GTĐB như một dịch vụ công của Chính phủ. Đồng thời, mục đích được coi là nghĩa vụ, trách nhiệm quản lý của Chính phủ là đáp ứng nhu cầu giao thông và đảm bảo trật tự an toàn cho người và phương tiện khi tham gia GTĐB.
Có thể nói rằng, chưa bao giờ hệ thống GTĐB ở nước ta phát triển như hiện nay. Đó là nhờ sự nghiệp đổi mới do Đảng ta lãnh đạo, do hoạt động quản lý của Nhà nước ta và do sự đóng góp sức người sức của của nhân dân ta. Vậy, tại sao phải tăng cường quản lý nhà nước (QLNN) bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB ở nước ta hiện nay? Ngoài những lý do mang tính lý luận về những nguyên lý QLNN bằng pháp luật kể trên còn có những lý do đòi hỏi phải tổng kết đánh giá thực tiễn QLNN trong lĩnh vực GTĐB ở nước ta trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH).
Thực tế được mọi người thừa nhận rằng: GTĐB luôn chứa đựng “nguồn nguy hiểm cao độ” hay phát sinh những rủi ro bất lợi cho xã hội như ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường, dễ xảy ra tai nạn GTĐB... So với các nước trên thế giới và khu vực, GTĐB ở nước ta luôn xảy ra tình trạng lộn xộn, mất trật tự kết cấu hạ tầng giao thông yếu kém, sự gia tăng các phương tiện GTĐB, ý thức chấp hành pháp luật GTĐB của người tham GTĐB còn hạn chế... Hậu quả là số người chết mỗi ngày trong cả nước lên đến trên 30 người. Ngoài ra, số người bị thương, tổn thất về tài sản là rất lớn. Rõ ràng tình trạng vi phạm pháp luật GTĐB xảy ra khá phổ biến, việc xử lý vi phạm pháp luật GTĐB chưa nghiêm minh, triệt để, chưa kịp thời. Hơn nữa, sự phân cấp QLNN trong lĩnh vực GTĐB chưa rõ ràng; thiếu chiến lược phát triển GTĐB lâu dài, bền vững; bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức đảm nhiệm chức năng QLNN trong lĩnh vực GTĐB còn nhiều hạn chế, bất cập. Đặc biệt pháp luật GTĐB chưa thực sự tỏ rõ là công cụ hữu hiệu để QLNN trong lĩnh vực GTĐB. Pháp luật GTĐB nước ta chắc chắn còn phải tiếp tục hoàn thiện để theo kịp những thay đổi và phát triển của GTĐB.
Với những lý do trên, trên phương diện lý luận chung về Nhà nước và pháp luật tôi chọn đề tài “Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực giao thơng đường bộ ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp cao học Luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giao thông vận tải nói chung và GTĐB nói riêng từ lâu đã được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây có một số công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực GTĐB, có thể kể ra như sau:
- Nguyễn Huy Bằng: Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở nước ta hiện nay, Luật văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2001. Luận văn đã làm rõ những vấn đề như: Lịch sử phát triển tư tưởng pháp chế; khái niệm pháp chế, quan niệm về pháp chế trong lĩnh vực GTĐB; tính tất yếu của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong lĩnh vực GTĐB; thực trạng, phương hướng và giải pháp tăng cường pháp chế trong lĩnh vực GTĐB. Như vậy, luận văn đã không đề ra mục tiêu nghiên cứu về QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB.
- Mai văn Đức, Nghiên cứu tình hình an toàn giao thông đường bộ và các biện pháp khắc phục, Luận văn thạc sĩ Khoa học kỹ thuật - Đại học Giao thông vận tải năm 2000. Luận văn tập trung nghiên cứu về an toàn GTĐB dưới góc độ ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật để quản lý, duy trì trật tự an toàn GTĐB, cũng như khắc phục những hạn chế trong lĩnh vực GTĐB. Cho nên luận văn cũng không đặt vấn đề nghiên cứu về QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB.
- Trần Đào, Tai nạn giao thông đường bộ, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa của lực lượng cảnh sát giao thông - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ - Hà Nội năm 1998. Đề tài này tập trung giải quyết những vấn đề như: khái niệm tai nạn GTĐB, nguyên nhân tai nạn GTĐB đánh giá thực trạng tai nạn GTĐB, từ đó đề ra những giải pháp phòng ngừa tai nạn GTĐB của lực lượng cảnh sát giao thông. Như vậy, đề tài chỉ tập nghiên cứu một vấn đề là tai nạn GTĐB - một sự cố GTĐB.
- Trần Văn Luyện, Trần Sơn, Nguyễn Văn Chính, Trật tự an toàn giao thông đường bộ, thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2003. Quyển sách này trình bày những nhận thức chung về trật tự an toàn GTĐB, tình hình trật tự GTĐB, những giải pháp bảo đảm trật tự an toàn GTĐB mà không có mục đích khai thác sâu về xây dựng, hoàn thiện pháp luật GTĐB, tổ chức thực hiện pháp luật GTĐB, xử lý vi phạm pháp luật GTĐB là những nội dung trọng tâm mà đề tài “ Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay” sẽ đề cập đến.
Ngoài ra, còn có một số bài viết trên các tạp chí như: Hoàng Đình Ban, Luật giao thông đường bộ sau hai năm nhìn lại, Tạp chí Giao thông vận tải, số 3 năm 2004; Lê Ngọc Tiến, Giáo dục pháp luật - biện pháp quan trọng trong giảm thiểu tai nạn giao thông đường bộ, Tạp chí Giao thông vận tải số 7 năm 2004; Nguyễn Thuý Anh, Đổi mới quản lý nhà nước về giao thông công cộng trong đô thị lớn ở nước ta, Tạp chí Quản lý nhà nước số 5 năm 2003; Lý Huy Tuấn, Quản lý nhà nước trong lĩnh vực giao thông đô thị, Tạp chí quản lý nhà nước số 3 năm 2003… Nhìn chung, những bài viết này chỉ đề cập sơ lược đến một khía cạnh trong QLNN trong lĩnh vực GTĐB ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Về mục đích, luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn nữa cở sở lý luận chung về QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB. Trên cở sở nghiên cứu thực trạng QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB ở Việt Nam hiện nay, luận văn đề ra các giải pháp nhằm tăng cường QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB trong thời gian tới.
Về nhiệm vụ, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
+ Phân tích cở sở lý luận của QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB.
+ Phân tích vai trò của QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB.
+ Đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân hạn chế hiệu lực, hiệu quả của QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB Việt Nam từ năm 1995 đến đến nay.
+ Luận chứng sự cần thiết phải tăng cường QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB Việt Nam hiện nay.
+ Xác định các phương hướng và đề xuất các giải pháp tăng cường QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trên phương diện lý luận chung về Nhà nước và pháp luật ở một luận văn thạc sĩ Luật học, đối tượng nghiên cứu ở đề tài này là nghiên cứu tổng quát hoạt động QLNN bằng pháp luật trong lĩnh luật GTĐB trên các mặt về xây dựng, hoàn thiện pháp luật; thực hiện pháp luật; xử lý vi phạm pháp luật GTĐB từ năm 1995 đến nay nhằm góp phần bảo đảm trật tự an toàn GTĐB ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; bám sát chủ trương đường lối của Đảng về tăng cường QLNN bằng pháp luật; phát triển GTĐB trong thời kỳ CNH, HĐN đất nước; về cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Trên cở sở đó, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh để nêu bật tình hình, từ đó có giải pháp phù hợp.
6. Đóng góp mới về khoa hoa của luận văn
Trên bình diện lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, luận văn bước đầu chỉ đạt được một số điểm mới sau:
- Xây dựng khái niệm, đặc điểm QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB ở Việt Nam hiện nay.
- Làm rõ những nội dung QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB.
- Trên cơ sở thống kê một cách có hệ thống tình hình GTĐB và đánh giá một cách tương đối toàn diện tình hình QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB ở Việt Nam từ năm 1995 đến nay. Đề xuất hệ thống giải pháp cơ bản, toàn diện của việc tăng cường QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB hiện nay và trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Thông qua việc làm rõ thực trạng QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB ở Việt Nam hiện nay - những thành tựu và những hạn chế. Luận văn góp phần khẳng định nhu cầu thực tiễn phải tăng cường QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB hiện nay và những năm tiếp theo.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB. Do đó làm phong phú thêm lý luận về Nhà nước và pháp luật. Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan có thẩm quyền QLNN trong lĩnh vực GTĐB, cho các cán bộ có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực GTĐB. Ngoài ra, luận văn còn có thể là nguồn tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, tập huấn, phổ biến tuyên truyền giáo dục pháp luật GTĐB.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1. KHÁI NIỆM VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT NÓI CHUNG VÀ KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1.1 Khái niệm, nguyên tắc quản lý nhà nước bằng pháp luật
Thuật ngữ “quản lý” có nhiều nghĩa khác nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt “quản lý” được hiểu dưới hai khía cạnh: “1. Trông coi và gìn giữ theo những yêu cầu nhất định; 2. Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [43, tr.772]. Còn theo sách Gốc và nghĩa từ Việt thông dụng quản lý được khái niệm là “trông nôm, sửa sang, sắp đặt công việc” [47,tr.695]. Ở phương Tây từ “quản lý (mannagement) có nguồn gốc Italia “managgiare” và từ này lại được rút ra từ chữ La tinh là “manus” nghĩa là bàn tay” [28,tr.597].
Như vậy, thuật ngữ “quản lý” có nhiều cách diễn đạt khác nhau tuỳ theo gốc độ tiếp cận. Quan điểm chung nhất về quản lý do các nhà điều khiển học đưa ra; theo đó, "quản lý là sự tác động định hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát triển phù hợp với những quy luật nhất định” [58,tr.83]. Trong khái niệm này, “sự tác động có định hướng" được hiểu là sự tác động có tính kế hoạch của người quản lý vào bất kỳ một thời điểm nào đó, hướng đến đối tượng là “một hệ thống nào đó”. Hệ thống được xác định là “tập hợp nhiều yếu tố, đơn vị cùng loại hoặc cùng chức năng có quan hệ hoặc liên hệ với nhau chặt chẽ, làm thành một thể thống nhất [43, tr. 418].
Như đã nói ở trên do tính kế hoạch của người quản lý nên sự tác động được xác định mục đích rõ ràng là “nhằm trật tự hóa” một hệ thống bất kỳ nào đó. Do đó, có thể thấy rằng trước khi có tác động quản lý thì “các yếu tố” các đơn vị ” của một hệ thống đang ở trạng thái tự nhiên, tự phát, chưa được sắp đặt thứ bậc. Nhưng dưới tác động của người quản lý thì “các yếu tố” “đơn vị” được đặt vào một vòng trật tự theo ý chí của người quản lý. Vị trí, vai trò của người quản lý thể hiện rất rõ qua việc có “trật tự hoá” được hệ thống đó hay không. Ngoài ra, người quản lý còn phải biết hướng hệ thống đó phát triển theo những quy luật nhất định. Như vậy, người quản lý đóng vai trò thúc đẩy, hoạch định, khơi gợi, phát huy “tính trội” của từng yếu tố, đơn vị tạo thành hệ thống, đồng thời hạn chế, ngăn ngừa, loại trừ những “tác hại” của các yếu tố, đơn vị cản trở tính thống nhất của hệ thống.
Trong quản lý xã hội nói chung và quản lý lao động trong quá trình sản xuất, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -Lênin đã chỉ rõ quản lý là một dạng hoạt động - một hiện tượng tất yếu trong xã hội loài người. Các Mác cho rằng “quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất xã hội của quá trình lao động” [33, tr.29-30] và “Lao động giám sát và quản lý cần thiết ở tất cả những nơi mà hoạt động sản xuất trực tiếp có hình thức của một quá trình phối hợp mang tính xã hội chứ không phải là lao động riêng lẻ của những người sản xuất độc lập” [38, tr.432].
Tuy những luận điểm trên đây nói về lao động sản xuất nhưng có thể áp dụng đối với bất kỳ hoạt động chung nào của con người. Ăngghen khẳng định “quản lý là tất yếu khi nhiều người cần hoạt động chung với nhau, khi có sự hiệp tác của một số người, khi có sự phối hợp của nhiều người” [34, tr.33-34]. Như vậy, ở đâu có sự hiệp tác của nhiều người, ở đó cần có nhu cầu quản lý. Chức năng quản lý là chức năng của một “nhạc trưởng” thể hiện ở sự điều hòa những hoạt động cá nhân. Cho nên, theo một nghĩa nào đó quản lý là một nghệ thuật điều khiển người khác.
Quản lý các quá trình xã hội để "trật tự hóa" xã hội là một quá trình phức tạp, đa dạng và đầy biến động. Các yếu tố "chủ thể quản lý", "đối tượng bị quản lý", "khách thể" của quản lý xã hội luôn đặt ra những vấn đề đòi hỏi từ thực tiễn cần được làm rõ về mặt lý luận.
Chủ thể của quản lý xã hội là con người hay tổ chức của con người. Hoạt động do chủ thể quản lý tiến hành là hoạt động quản lý. Ví dụ trong một cơ quan thủ trưởng cơ quan là chủ thể quản lý,hoạt động điều hành,lãnh đạo cơ quan là hoạt động quản lý.
Đối tượng của quản lý xã hội là các quan hệ xã hội mà chủ thể quản lý tác động tới. Suy cho cùng quản lý xã hội là quản lý con người. Vì vậy, yếu tố con người trong các quan hệ xã hội lại là "đối tượng bị quản lý". Như vậy, đối tượng của quản lý xã hội là con người hay tổ chức của con người bị quản lý. Khách thể của quản lý xã hội, nói một cách ngắn gọn đó là "trật tự xã hội". Bởi mong muốn, mục đích cần đạt được của chủ thể quản lý xã hội là làm sao cho hành vi hoạt động và không hoạt động của đối tượng bị quản lý phải thực hiện theo ý chí của chủ thể quản lý.
Mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý được thể hiện thông qua quan hệ “quyền uy-phục tùng”. Trong mối quan hệ này, chủ thể quản lý mang quyền uy. Theo Ăngghen, quyền uy là sự trói buộc, áp đặt ý chí của kẻ này đối với kẻ khác, buộc họ phải phục tùng. Đối tượng bị quản lý phải phục tùng mệnh lệnh của chủ thể quản lý đưa ra. Đây chính là quan hệ bất bình đẳng giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Quyền uy là phương tiện hữu hiệu để chủ thể quản lý tiến hành hoạt động quản lý. Không có quyền uy thì hoạt động quản lý sẽ không đạt được mục đích đề ra. Quyền uy và phục tùng tạo thành nội dung của quyền lực quản lý. Quyền lực là "sức mạnh" của chủ thể quản lý và cũng chính yếu tố quyền lực làm cho ý chí của chủ thể quản lý trở thành ý chí thống trị buộc đối tượng quản lý phải phục tùng.
Từ khi xuất hiện Nhà Nước “một lực lượng nảy sinh từ xã hội”, một lực lượng “tựa hồ như đứng trên xã hội” có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự [10, tr.260] thì phần quản lý xã hội quan trọng nhất do Nhà Nước đảm nhiệm. Đó là QLNN. Quản lý phần công việc còn lại của xã hội vẫn được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau như các tổ chức xã hội, chính đảng, giai cấp, gia đình, các tổ chức tư nhân trong nhiều lĩnh vực... Như vậy, quản lý xã hội là một khái niệm rất rộng bao hàm QLNN và quản lý phần công việc còn lại của xã hội.
Theo Ăngghen thì QLNN là quản lý xã hội do giai cấp nắm quyền thống trị xã hội thực hiện thông qua Nhà nước của nó. Nhà nước quản lý xã hội bằng cách phân chia dân cư theo “địa vực”, trên cơ sở thiết lập một “quyền lực công cộng” tách rời khỏi dân cư và bằng việc đặt ra pháp luật, bắt buộc mọi tổ chức, mọi thành viên của xã hội phải thi hành [11, tr.251, 253- 254]. Luận điểm trên của Ăngghen cho thấy rằng: để thực hiện quyền lực, để quản lý xã hội, Nhà nước phải có một loại người đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lý. Loại người này được tổ chức thành các cơ quan nhà nước và hình thành một bộ máy đại diện cho quyền lực chính trị có sức mạnh cưỡng chế để duy trì địa vị của giai cấp thống trị, buộc các giai cấp khác phải phục tùng ý chí của giai cấp thống trị.
Hiện nay, vấn đề đã được khẳng định là vai trò quản lý của Nhà nước đối với xã hội. Song khoa học QLNN theo nghĩa rộng và khoa học quản lý hành chính công vẫn đang được giới lý luận bàn đến, đặc biệt là trong điều kiện đổi mới của các nước XHCN khi các nước này vận dụng kinh tế thị trường. Vấn đề được bàn đến ở đây là Nhà nước quản lý xã hội bằng cách nào? phương tiện gì là chủ yếu? Đó là vấn đề tuy không phải là mới nhưng cần được lý giải một cách hệ thống.
Trong lịch sử tư tưởng chính trị pháp lý Trung Quốc cổ đại, Hàn Phi được xem là người tiêu biểu cho trường phái Pháp gia. Ông định nghĩa pháp luật như sau: “pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ ràng nơi cửa công, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là sẽ thi hành, thưởng cho những kẻ cẩn thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ trái lệnh. Đó là những điều bầy tôi tuân theo” [44, tr.329]. Hàn Phi xem pháp luật là công cụ quan trọng nhất, hữu hiệu nhất trong việc bình ổn xã hội. Ông khẳng định: “Không có nước nào luôn luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn luôn yếu. Hễ người thi hành pháp luật mà mạnh thì nước mạnh, còn hễ người thi hành pháp luật yếu thì nước yếu” [44, tr.13]. Do đó muốn nước mạnh thì không thể không dùng pháp luật và pháp luật ấy phải được thực hiện nghiêm chỉnh. Hàn phi ví pháp luật như dây mực, cái quy, cái củ, cái thuỷ chuẩn của người thợ, tức là nhờ nó mà đạt được sự ngay thẳng, chính xác. Ông coi pháp luật là tiêu chuẩn để phân biệt đúng sai, chính tà mà người cầm quyền phải dùng nó để điều khiển đất nước.
Còn Montesquyeu trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật” đã khẳng định: "Sống trong một xã hội, muốn duy trì trật tự phải quy định rõ quan hệ giữa người cai trị và người được cai trị. Đó là luật chính trị. Lại phải quy định quan hệ giữa công dân. Đó là luật dân sự" [41, tr.44]. Lê Qúi Đôn- nhà bác học của Việt Nam cũng chỉ rõ: "chỉ lấy đạo đức mà cai trị thôi thì chưa đủ, còn phải kết hợp chặt chẽ với cai trị bằng pháp luật" [46, tr.12].
Trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã sớm đề ra yêu cầu phải xây dựng một Nhà nước đề cao Hiến Pháp, pháp luật. Trong bức thư tám điểm gửi Hội Nghị Véc-Xây nếu khái quát lại thì có hai nội dung cơ bản: đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân; yêu cầu phải quản lý bằng pháp luật, có Hiến pháp hẳn hoi “trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Đó là tư tưởng cốt lõi của một Nhà nước pháp quyền, một Nhà nước quản lý xã hội, quản lý đất nước bằng pháp luật, mọi hoạt động của Nhà nước và mọi chủ thể khác trong xã hội đều đặt dưới Hiến pháp và pháp luật. Do đó “Ở Người, đi tìm con đường giải phóng dân tộc, cứu nước, cứu dân đồng thời là quá trình nhận thức khẳng định vai trò, giá trị của pháp luật trong giành lại nước, dựng nước và giữ nước” [27, tr.19]. Phải nói rằng: Vấn đề xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, đề cao pháp luật, pháp chế trong hoạt động QLNN là một trong những nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.
Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà và pháp luật, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng định “Quản lý đất nước bằng pháp luật, chứ không phải bằng đạo lý” [17, tr.120]. Như vậy, pháp luật được đặt lên vị trí hàng đầu trong hệ thống các công cụ quản lý đất nước. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tiếp tục khẳng định “Quản lý xã hội bằng pháp luật dưới sự lãnh đạo của Đảng” [18, tr.94]. Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII tiếp tục quán triệt mục tiêu: “Xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật” [19, tr.56]. Để QLNN ba
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van.doc
- mục lục.doc