Dân số và sự tồn tại, phát triển của xã hội là hai vấn đề luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói đến vấn đề dân số không có nghĩa là chỉ nói tới mặt số lượng mà còn bao gồm mặt chất lượng của dân số. Cùng với việc phát triển kinh tế- xã hội, con người cần phải điều chỉnh các xu hướng dân số cho phù hợp với sự phát triển. Quy mô, cơ cấu dân số, tốc độ gia tăng dân số và sự phân bố dân cư phù hợp sẽ tạo ra những tiền đề và động lực quan trọng cho phát triển bền vững, ngược lại, sự gia tăng dân số không phù hợp sẽ tạo ra những nhân tố cản trở việc thực hiện những mục tiêu kinh tế- xã hội. Có thể nói, dân số là cơ hội, đồng thời là thách thức đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Vì vậy, bất cứ quốc gia nào cũng cần có một chính sách dân số hợp lý để tạo ra một quy mô dân số “tối ưu”. Nghĩa là, vừa có thể đảm bảo việc phát huy mọi nguồn lực cho sản xuất, tạo ra được nhiều nhất của cải vật chất cho xã hội, mặt khác, vừa có thể đảm bảo được sự kết hợp hài hòa giữa sản xuất với tiêu dùng, tăng cường và thúc đẩy việc tích lũy cho tái sản xuất mở rộng.
Nhận thức được vị trí và tầm quan trọng của vấn đề dân số trong sự phát triển xã hội, ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm tới việc thực hiện chính sách dân số. Từ đó đến nay, đặc biệt là từ năm 1993 (Đánh dấu bằng sự ra đời của nghị quyết hội nghị lần thứ tư BCH TW Đảng cộng sản việt nam khóa VII), trong công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng. Có thể nhận thấy, ban đầu chúng ta mới chủ yếu quan tâm tới vấn đề giảm sinh để ổn định quy mô dân số, thì đến nay về cơ bản chúng ta đã bắt đầu quan tâm được nhiều hơn tới chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội.
Việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta những năm vừa qua nhìn chung đang có những chuyển biến theo chiều hướng tích cực với thành tựu rất quan trọng. Tuy nhiên, gần đây việc thực hiện chính sách dân số lại nảy sinh một số vấn đề mới, tỷ lệ các cặp vợ chồng sinh con thứ ba tăng “ đột biến”, xu hướng giảm sinh có những dấu hiệu chững lại Thực tế ấy cho thấy những thành tựu trong việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta trong thời gian qua là chưa thực sự bền vững và một trong những nguyên nhân của thực tế trên đó là sự tác động trở lại “ một cách mạnh mẽ” của những yếu tố tâm lý xã hội cũ, bảo thủ, lỗi thời.
Việc nghiên cứu một cách có hệ thống sự tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số, từ đó đề ra những giải pháp khắc phục tác động tiêu cực của tâm lý xã hội trong việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, vừa cấp bách vừa lâu dài.
94 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1167 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta hiện nay (qua thực tế tỉnh Hải Dương), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân số và sự tồn tại, phát triển của xã hội là hai vấn đề luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói đến vấn đề dân số không có nghĩa là chỉ nói tới mặt số lượng mà còn bao gồm mặt chất lượng của dân số. Cùng với việc phát triển kinh tế- xã hội, con người cần phải điều chỉnh các xu hướng dân số cho phù hợp với sự phát triển. Quy mô, cơ cấu dân số, tốc độ gia tăng dân số và sự phân bố dân cư phù hợp sẽ tạo ra những tiền đề và động lực quan trọng cho phát triển bền vững, ngược lại, sự gia tăng dân số không phù hợp sẽ tạo ra những nhân tố cản trở việc thực hiện những mục tiêu kinh tế- xã hội. Có thể nói, dân số là cơ hội, đồng thời là thách thức đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Vì vậy, bất cứ quốc gia nào cũng cần có một chính sách dân số hợp lý để tạo ra một quy mô dân số “tối ưu”. Nghĩa là, vừa có thể đảm bảo việc phát huy mọi nguồn lực cho sản xuất, tạo ra được nhiều nhất của cải vật chất cho xã hội, mặt khác, vừa có thể đảm bảo được sự kết hợp hài hòa giữa sản xuất với tiêu dùng, tăng cường và thúc đẩy việc tích lũy cho tái sản xuất mở rộng.
Nhận thức được vị trí và tầm quan trọng của vấn đề dân số trong sự phát triển xã hội, ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm tới việc thực hiện chính sách dân số. Từ đó đến nay, đặc biệt là từ năm 1993 (Đánh dấu bằng sự ra đời của nghị quyết hội nghị lần thứ tư BCH TW Đảng cộng sản việt nam khóa VII), trong công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng. Có thể nhận thấy, ban đầu chúng ta mới chủ yếu quan tâm tới vấn đề giảm sinh để ổn định quy mô dân số, thì đến nay về cơ bản chúng ta đã bắt đầu quan tâm được nhiều hơn tới chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội.
Việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta những năm vừa qua nhìn chung đang có những chuyển biến theo chiều hướng tích cực với thành tựu rất quan trọng. Tuy nhiên, gần đây việc thực hiện chính sách dân số lại nảy sinh một số vấn đề mới, tỷ lệ các cặp vợ chồng sinh con thứ ba tăng “ đột biến”, xu hướng giảm sinh có những dấu hiệu chững lại… Thực tế ấy cho thấy những thành tựu trong việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta trong thời gian qua là chưa thực sự bền vững và một trong những nguyên nhân của thực tế trên đó là sự tác động trở lại “ một cách mạnh mẽ” của những yếu tố tâm lý xã hội cũ, bảo thủ, lỗi thời.
Việc nghiên cứu một cách có hệ thống sự tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số, từ đó đề ra những giải pháp khắc phục tác động tiêu cực của tâm lý xã hội trong việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, vừa cấp bách vừa lâu dài.
Là một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc bộ, Hải Dương cũng không phải là ngoại lệ. Có thể nói, sự tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số ở đây còn hết sức nặng nề. Qua thực tế nhiều năm công tác ở cơ sở với đặc thù của công tác nghiên cứu và giảng dạy lý luận chính trị cùng với những kiến thức, kinh nghiệm ban đầu đã tích lũy được là những lý do để người viết chọn đề tài: "Tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta hiện nay" (qua thực tế tỉnh Hải Dương) làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề ý thức xã hội, tâm lý xã hội, vấn đề dân số đã được các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu và những người quan tâm đề cập dưới những góc độ khác nhau. Các công trình nghiên cứu của các tác giả đã được công bố dưới dạng đề tài khoa học, chuyên đề, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các bài đăng tải trên các tạp chí, sách báo... Cụ thể như:
- “Những yếu tố tâm lý xã hội ảnh hưởng tới mức sinh”, UBDS Hà nội 1991; “KAP (Kiến thức- thái độ- thực hành)” UBQGDS (1993); “Tâm lý cộng đồng làng và di sản”, Đỗ Long- Trần Hiệp (1993); “Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay”, Đề tài KX. 07. 02 (1996) Phan Huy Lê- Vũ Minh Giang (Chủ biên); “ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay”, Đề tài KX. 07. 03 (1997) Nguyễn Tài Thư (Chủ biên);
- “Nền sản xuất nhỏ Việt Nam và hậu quả của nó trong tâm lý dân tộc”, Tạp chí Thông tin triết học, số2/ 1971, Tác giả Vũ Khiêu; “ý thức người sản xuất nhỏ và ý thức hàng ngày”, Tạp chí Triết học, số2/ 1986, Tác giả Hồ Sỹ Quý; “Tâm lý “ trọng nam khinh nữ” trong xã hội hiện nay”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 10/ 1995, Tác giả Trần Thị Minh Đức; “ý thức xã hội với sự gia tăng dân số ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3/ 2005, Tác giả Nguyễn Thị Nga;
- “Sự tác động của phong tục tập quán đến mức sinh và giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình ở Hà Nội”, Luận án phó tiến sỹ khoa học Triết học (Chuyên ngành Xã hội học), Tác giả Nguyễn Quốc Triệu (1994); “ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến trong cán bộ lãnh đạo và phương hướng khắc phục nó”, Luận án tiến sỹ khoa học Triết học, Tác giả Nguyễn Bình Yên; “Tâm lý sản xuất nhỏ ở đội ngũ cán bộ cơ sở hiện nay và phương hướng khắc phục (Qua thực tế tỉnh Thái Bình)”, Luận văn thạc sỹ Triết học, Tác giả Trần Sỹ Dương (1997) …
Đã có không ít công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực tâm lý, ý thức con người, nhìn chung do yêu cầu mục đích của mỗi công trình, các tác giả chủ yếu tập trung làm rõ những vấn đề lý luận chung cũng như sự tác động của lĩnh vực ý thức xã hội nói chung đối với tồn tại xã hội. Tuy nhiên, việc nghiên cứu sự tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số, hơn nữa coi sự tác động của tâm lý xã hội như một trong những nguyên nhân của sự gia tăng dân số nhanh ở Hải Dương hiện nay vẫn chưa được quan tâm đầy đủ. Vì vậy, việc thực hiện đề tài này là nhiệm vụ cần thiết.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nội dung của chính sách dân số rất rộng, luận văn chủ yếu đi sâu phân tích một số tâm lý xã hội tác động trực tiếp tới nhận thức, tình cảm, thái độ và hành vi của con người trong việc thực hiện chính sách dân số. Hơn nữa, với quy mô và tốc độ gia tăng dân số ở nước ta hiện nay, luận văn chủ yếu tập trung vào tác động của tâm lý xã hội đến sự gia tăng dân số nhanh, việc sinh con thứ 3 trở lên tăng “ bất thường” và cản trở của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng dân số. Đồng thời, những số liệu khảo sát, đánh giá trong luận văn cũng chủ yếu được thực hiện ở tỉnh Hải Dương.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Phân tích làm rõ tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta hiện nay (qua thực tế tỉnh Hải Dương), từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục tác động tiêu cực của tâm lý xã hội trong việc thực hiện chính sách dân số.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ tập trung làm rõ:
- Vai trò của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số và những yếu tố tâm lý xã hội phổ biến tác động tới việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta hiện nay.
- Nghiên cứu, đánh giá tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số ở Hải Dương hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm khắc phục tác động tiêu cực của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta nói chung và Hải Dương nói riêng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn đã vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về lĩnh vực ý thức xã hội, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện ý thức xã hội mới ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
* Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận triết học mác xít, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích - tổng hợp, lôgíc - lịch sử, hệ thống - cấu trúc, điều tra khảo sát, thống kê - so sánh... trong nghiên cứu và trình bày.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn có những đóng góp khoa học mới sau:
- Phân tích một cách có hệ thống tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện CSDS ở nước ta hiện nay (qua thực tế tỉnh Hải Dương).
- Đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm khắc phục tác động tiêu cực của tâm lý xã hội trong việc thực hiện chính sách dân số ở Hải Dương hiện nay.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định các chương trình, chính sách phát triển kinh tế- xã hội, cũng như các mục tiêu, chương trình dân số ở các địa phương nói chung và tỉnh Hải Dương nói riêng.
- Tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong các Trường chính trị tỉnh, thành phố.
- Giúp cho những người làm công tác quản lý lãnh đạo xã hội có thể nhận thức, đánh giá một cách đầy đủ hơn về tác động của tâm lý xã hội đối với những lĩnh vực khác nhau của địa phương mình.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1
Chính sách dân số và vai trò của Tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số
1.1. Chính sách dân số và quá trình thực hiện chính sách dân số ở nước ta
1.1.1. Chính sách dân số
Trong sự phát triển của lịch sử xã hội, gia tăng dân số là một vấn đề mang tính khách quan, hợp quy luật. Bởi vì, nó xuất phát từ những nhu cầu tự nhiên- sinh học của con người, tuy vậy nó cũng là một quá trình mang tính lịch sử- xã hội, nghĩa là nó cần phải được điều chỉnh. Việc tác động, điều chỉnh các quá trình dân số được thực hiện thông qua hàng loạt các chính sách xã hội, trong đó trước hết và trực tiếp nhất là chính sách dân số. Hiện nay, về chính sách dân số cũng có nhiều quan niệm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất: Chính sách dân số là những chủ trương và biện pháp của đảng và nhà nước nhằm điều tiết quá trình biến đổi dân số theo những mục tiêu nhất định [19, tr.195]. Quan điểm này mặc dù đã chỉ ra được bản chất của chính sách dân số nhưng vẫn còn khá chung chung.
Quan điểm thứ hai: Theo quan niệm của nhóm cố vấn về chính sách dân số thuộc Uỷ ban dân số của Hội đồng kinh tế và xã hội Liên hợp quốc: Chính sách dân số là những biện pháp và những chương trình được thiết kế nhằm đóng góp vào việc đạt được mục tiêu kinh tế xã hội, dân số, chính trị, các mục tiêu công cộng khác thông qua việc tác động đến các biến đổi dân số quan trọng, cụ thể là quy mô, cơ cấu và sự phân bố dân số (trong phạm vi quốc gia và quốc tế) và các đặc trưng dân số của nó [20, tr.208-209]. Với quan điểm này chính sách dân số không chỉ tác động nhằm tái tạo, tăng giảm số lượng dân số mà còn có ý nghĩa tái tạo và hoàn thiện chất lượng dân cư nhằm giải quyết vấn đề dân số và phát triển. Như vậy, chính sách dân số không đồng nhất với việc hạn chế sinh đẻ, mặc dù với hầu hết các nước trên thế giới hiện nay thì hạn chế sinh đẻ là nhiệm vụ trọng tâm của chính sách dân số. ở một số nước phát triển, có tỷ lệ gia tăng dân số thấp, thậm chí đang sụt giảm thì các biện pháp ưu tiên và truyền thông dân số lại thể nhắm đến mục tiêu khuyến khích sinh đẻ.
Quan điểm thứ ba: Theo quan niệm của các nhà khoa học thuộc Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: “ Chính sách dân số là hệ thống các biện pháp do nhà nước tiến hành nhằm đạt được kiểu tái sản xuất dân số trong tương lai” [20, tr.207]. Như chúng ta đã biết, tái sản xuất dân số là sự lặp lại thường xuyên quá trình vận động của dân số. Trên thực tế có hai quan niệm về tái sản xuất dân số: quan niệm về tái sản xuất dân số theo nghĩa hẹp và quan niệm tái sản xuất dân số theo nghĩa rộng. Nếu mục tiêu và đối tượng tác động là tái sản xuất dân số theo nghĩa hẹp thì ta có chính sách dân số theo nghĩa hẹp, theo đó chính sách dân số chỉ tác động tới vận động tự nhiên (sinh sản, tử vong) và vận động cơ học (di dân theo lãnh thổ). Còn khi mục tiêu và đối tượng tác động là tái sản xuất theo nghĩa rộng, ta có chính sách dân số theo nghĩa rộng nghĩa là chính sách dân số phải quan tâm tới cả 3 dạng vận động: vận động tự nhiên, vận động cơ học và vận động xã hội (từ nhóm xã hội này sang nhóm xã hội khác hoặc nâng cao chất lượng của nhóm về mặt xã hội). Quan niệm thứ ba hiện nay đang được dùng phổ biến hơn cả, nó không chỉ phản ánh được nội dung cơ bản của chính sách dân số mà còn cho thấy tính chất phong phú, đa dạng của chính sách dân số.
Trước đây, quan niệm phát triển thường nghiêng về những tiêu chuẩn kinh tế- kỹ thuật thì ngày nay đang chuyển dần sang ý nghĩa phát triển xã hội, phát triển con người và phát triển bền vững. Xem xét quan hệ dân số- phát triển thực chất là nhìn nhận dân số theo quan điểm phát triển bền vững thông qua vai trò của con người. Dù quan niệm thế nào thì con người vẫn luôn đứng ở vị trí trung tâm của sự phát triển. Phát triển con người một mặt phát huy được tiềm năng của chính mỗi con người, mặt khác giúp cho việc khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả nhất các nguồn lực cho phát triển kinh tế- xã hội cũng như đảm bảo cho sự phát triển bền vững của các thế hệ tương lai.
Như vậy, “sinh đẻ có hướng dẫn”, “ sinh đẻ có kế hoạch” hay “kế hoạch hóa gia đình” đều là biện pháp cơ bản để vươn tới mục tiêu cao hơn: mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho từng người, từng gia đình và toàn xã hội. Thực hiện tốt chính sách dân số là một trong những giải pháp cơ bản để đạt tới sự phát triển bền vững.
Chính sách dân số là một bộ phận của chiến lược phát triển toàn diện của mỗi quốc gia, là một trong những công cụ hữu hiệu để điều tiết quá trình vận động của dân số. Trước hết, nó điều tiết sự phát triển dân số hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội. Chính sách dân số điều chỉnh quá trình di cư, nhập cư, đảm bảo phân bố dân cư và lao động hợp lý, phù hợp với điều kiện, đặc điểm, tình hình phân bố của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Việc thực hiện tốt chính sách dân số còn góp phần thúc đẩy quá trình phát triển giáo dục, y tế… đặc biệt là giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân số với tài nguyên, môi trường, hạn chế tệ nạn xã hội từng bước nâng cao chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống… ở nước ta hiện nay, việc thực hiện chính sách dân số suy cho cùng là việc hạn chế tỷ lệ gia tăng dân số nhanh, hạn chế tình trạng sinh con thứ 3 trở lên và thực hiện các mục tiêu nâng cao chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống.
Đối với chính sách dân số, quan trọng nhất vẫn là nhóm chính sách có liên quan đến vấn đề sinh, tử và di dân bởi vì mọi sự biến đổi của dân số suy cho cùng đều chịu ảnh hưởng của 3 nhân tố này. Theo một phép tính đơn giản thì: Tăng dân số tự nhiên = Số sinh- số chết. Vì vậy, việc sinh đẻ và các chính sách tác động tới mức sinh có ý nghĩa quan trọng nhất, nhất là với những nước có tốc độ gia tăng dân số nhanh như Việt Nam. Đương nhiên việc con người không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống, kéo dài tuổi thọ… làm cho mức chết giảm đi và như vậy thì vấn đề kiểm soát sự gia tăng dân số chỉ còn là vấn đề kiểm soát mức sinh. Tất nhiên, mức chết có ảnh hưởng nhất định tới việc “ gây áp lực dân số” song không thể coi việc “ làm gia tăng yếu tố này” như một giải pháp của giảm áp lực dân số đối với quá trình phát triển. Đây cũng chính là lý do vì sao trong phạm vi đề tài này tác giả chủ yếu đề cập tới tác động của tâm lý xã hội tới mức sinh và giải pháp khắc phục tác động của tâm lý xã hội tới mức sinh ở nước ta hiện nay.
1.1.2. Quá trình thực hiện chính sách dân số ở nước ta
Chính sách dân số ở Việt Nam đã được Đảng và nhà nước quan tâm từ rất sớm. Theo thời gian và dựa vào đặc điểm lịch sử của đất nước, chúng ta có thể chia quá trình thực hiện chính sách dân số thành 3 thời kỳ cơ bản:
- Thời kỳ từ năm 1961 đến năm 1975:
Đây là thời kỳ đất nước còn đang bị chia cắt, chính sách dân số mới chỉ được thực hiện ở Miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Có thể nhận thấy ngay từ đầu, Đảng và nhà nước ta đã rất chú ý tới vấn đề dân số, quan tâm tới số lượng cũng như chất lượng dân số “ vì sức khỏe các bà mẹ, vì hạnh phúc và hòa thuận trong gia đình và để nuôi dạy con cái chu đáo”. Mục tiêu của giai đoạn này là hướng tới quy mô gia đình 3 con, đối tượng vận động chủ yếu là phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và đã đông con, trước hết là nữ công nhân viên chức nhà nước, trong các lực lượng vũ trang, phạm vi thực hiện chính sách dân số tập trung ở thành thị, nông thôn đồng bằng Sông Hồng … kinh phí cho hoạt động dựa vào ngân sách nhà nước cấp. Kết quả là tốc độ gia tăng dân số có giảm nhưng rất chậm, hiện tượng gia đình đông con khá phổ biến. Quan niệm về chính sách dân số như thế còn rất hạn chế, nhìn chung mới chú ý đến quy mô dân số mà rất ít quan tâm tới vấn đề chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống. Với điều kiện đặc biệt của lịch sử và ảnh hưởng của cơ chế tập trung bao cấp lúc bấy giờ mà hiệu quả của việc thực hiện chính sách dân số chưa cao.
- Thời kỳ từ năm 1975 đến năm 1984:
Đất nước thống nhất, dân số cả nước lúc này đã xấp xỉ 48 triệu người, gần gấp đôi so với năm 1955. Chính sách dân số bắt đầu được triển khai trên phạm vi cả nước với xu hướng đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch. Sau một thời gian tạm lắng, cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch lại được phát động một cách sôi nổi và được triển khai rộng khắp trên toàn quốc chuẩn bị cho sự phục hưng nền kinh tế. Cũng trong giai đoạn này, công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình được xác định là vị trí quốc sách trong sự nghiệp phát triển đất nước. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IV khẳng định: “ Mọi ngành, mọi cấp phải coi cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch là công tác có tầm quan trọng to lớn, có ý nghĩa chính trị kinh tế và xã hội góp phần tích cực vào việc nâng cao đời sống của nhân dân ta”.
Quan điểm này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng lần thứ V: “ Phải quyết định và thi hành chính sách dân số đúng đắn, trong đó một công việc cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược kinh tế và xã hội, mà tất cả các tổ chức Đảng và chính quyền các cấp phải hết sức quan tâm và trực tiếp chăm lo, là tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch” [6, tr.72]. Những nỗ lực của cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch bước đầu đã góp phần hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số. Số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đã giảm từ 5,25 con năm 1975 xuống còn 3,85 con năm 1984.
- Thời kỳ từ năm 1984 đến nay:
Do những khó khăn về kinh tế- xã hội, từ năm 1975 đến năm 1984 chính sách dân số một lần nữa lại không được quan tâm đầy đủ. Từ năm 1975 đến những năm 1983, 1984 tỷ lệ gia tăng dân số ở các tỉnh phía Nam khá cao, ở các tỉnh phía Bắc việc thực hiện những mục tiêu dân số cũng tiến triển tương đối chậm, sự gia tăng dân số nhanh đã bắt đầu tạo sức ép không nhỏ lên sự phát triển kinh tế xã hội. Những mục tiêu của chính sách dân số nhìn chung đều không thực hiện được. Đứng trước tình hình kinh tế xã hội khủng hoảng một cách nghiêm trọng, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, gia tăng dân số nhanh… đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc hơn nữa về tầm quan trọng của chính sách dân số và đẩy mạnh một bước hiệu quả công tác dân số. Có thể coi đây là thời kỳ việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta đã có những chuyển biến tích cực cả về nội dung, hình thức và cách thức tiến hành. Nhiều văn bản chính sách đã được ban hành, đáng chú ý là:
Quyết định số 58/ HĐBT ngày 11 tháng 4 năm 1984 của Hội đồng bộ trưởng về việc thành lập Uỷ ban dân số và sinh đẻ có kế hoạch.
Nghị quyết Hội nghị lần thư tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình tháng 1 năm 1993.
Quyết định số 270/ TTg ngày 3 tháng 6 năm 1993 của Thủ Tướng Chính phủ về chiến lược dân số và kế hoạch hóa gia đình đến năm 2000.
Quyết định số 147/ QĐ- TTg ngày 22 tháng 12 năm 2000 về chiến lược dân số Việt Nam 2001- 2010.
“Pháp lệnh Dân số” được Uỷ ban Thường vụ quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI thông qua ngày 9 tháng 1 năm 2003.Trong đó chỉ rõ:
Thực hiện gia đình ít con, khỏe mạnh, tiến tới ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nâng cao chất lượng dân số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững đất nước [65, tr.11].
Nghị quyết số 47- NQ/ TW ngày 22 tháng 3 năm 2005 của Bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định: “ Thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Giảm tốc độ tăng dân số. Tiếp tục duy trì kế hoạch giảm sinh và giữ mức sinh thay thế, bảo đảm quy mô và cơ cấu dân số hợp lý, nâng cao chất lượng dân số” [11, tr.103].
Thời kỳ này đã đánh dấu sự thay đổi căn bản nhận thức và hành động của Đảng và nhà nước ta về chính sách dân số. Vị trí quốc sách của chính sách dân số tiếp tục được khẳng định trong văn kiện của hầu hết các đại hội Đảng và trong nhiều chính sách phát triển kinh tế- xã hội khác. Việc thực hiện CSDS những năm gần đây ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn.
1.1.3. Những thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta những năm gần đây
1.1.3.1. Thành tựu
Việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta đã có một quá trình lâu dài với nhiều thành tựu và kinh nghiệm vô cùng quý báu. Đến nay, có thể đánh giá thành tựu trong việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta thời gian qua, nhất là những năm gần đây với các mặt cụ thể như sau:
Thứ nhất, về mức sinh, tốc độ gia tăng dân số cơ bản đã được kiểm soát, điều này được chứng minh thông qua mức sinh liên tục giảm trong nhiều năm gần đây. Kết quả giảm sinh đã đạt được sớm hơn so với dự kiến. Mục tiêu của " Chiến lược DS- KHHGĐ đến năm 2000" là " giảm cho được tổng tỷ suất sinh xuống mức 2,9 con hoặc thấp hơn, quy mô dân số dưới mức 82 triệu người vào năm 2000 để đạt mức sinh thay thế vào năm 2015". Thực tế đã chứng minh rằng, những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX tỷ lệ sinh không giảm, hoặc giảm rất chậm thì từ năm 1993 trở lại đây, tức là từ khi thực hiện Chiến lược dân số đến năm 2000, tổng tỷ suất sinh đã giảm khá nhanh, từ 3,8 con vào năm 1989 xuống 2,67 con vào thời kỳ 1992- 1996 và còn khoảng 2,3 con vào năm 1999. Quy mô dân số ở mức 78 triệu người vào giữa năm 2000. Kết quả này đã tạo cơ sở để chúng ta có thể đạt mức sinh thay thế chậm nhất vào năm 2005, sớm hơn 10 năm so với dự kiến [65, tr.2]. Từ những thành công nổi bật đó, Việt Nam đã vinh dự được Tổ chức Liên hợp quốc trao giải thưởng Dân số vào năm 1999.
Thứ hai, về cơ bản đã thống nhất được nhận thức và hành động của toàn xã hội về tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách dân số. Hầu hết các tổ chức Đảng, chính quyền đã coi công tác dân số là bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội.Với sự tích cực hưởng ứng và tham gia của các tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, các ban ngành và đoàn thể, bước đầu chúng ta đã tạo được những cơ sở cho việc thay đổi hành vi một cách bền vững, hạn chế được tác động tiêu cực của tâm lý xã hội. Trong xã hội, quan niệm về hôn nhân, sinh đẻ đã có những chuyển biến tích cực ngày càng nhiều người có ý thức kết hôn muộn, đẻ ít con, nuôi con khỏe mạnh.
Thứ ba, công tác thông tin- giáo dục- truyền thông từng bước được đẩy mạnh. Nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng đối với công tác dân số đã có sự chuyển biến đáng kể. Các hoạt động truyền thông mang tính đa dạng, nhiều chiều, nội dung phong phú. Đặc biệt đã có sự quan tâm chú ý tới từng nội dung, từng đối tượng cụ thể để có những phương pháp phù hợp, hiệu quả. Truyền thông dân số đã được lồng ghép vào các nội dung tuyên truyền, giáo dục, các chương trình chính sách phát triển
Thứ tư, hệ thống những quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước ta cùng với thời gian đã từng bước được bổ sung, phát triển hoàn thiện và ngày càng thể hiện tính đúng đắn, hiệu quả, sát với tình hình thực tế hơn. Mục tiêu và các giải pháp của chiến lược dân số- kế hoạch hóa gia đình nhìn chung là phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước, cơ chế quản lý dân số theo chương trình mục tiêu được định hình và đang phát huy tác dụng. Có thể khẳng định rằng: Những chính sách được ban hành nếu đáp ứng được sự mong mỏi của nhân dân, xuất phát từ những cơ sở thực tiễn khách quan thì đều tạo ra được sự đồng thuận cao trong xã hội, phát huy được sức mạnh của đông đảo nhân dân và được thực hiện một cách có hiệu quả.
Ngoài những thành tựu cơ bản nêu trên, cũng cần phải kể tới thành công đó là chúng ta đã tạo dựng được một bộ máy tổ chức và mạng lưới những người làm công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình rộng khắp từ trung ương tới cơ sở. Trình độ những người làm công tác dân số được nâng lên rõ rệt, nhất là đối với đội ngũ cán bộ chuyên trách. Trang thiết bị được tăng cường, hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tiễn được quan tâm. Chất lượng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình cơ bản đã đáp ứng được những yêu cầu của người sử dụng hiện nay. Với những thành tựu như vậy, có thể nói Việt Nam đã tạo dựng được những cơ sở mấu chốt nhất cũng như môi trường xã hội thuận lợi cho việc triển khai các chương trình, chính sách dân số những năm tiếp theo.
1.1.3.2. Những hạn chế
Do chúng ta chưa nhận thức được hết tính chất khó
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Noi dung.doc
- mucluc.doc