Luận văn Tác động của phát triển công nghiệp đối với nông nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc

Công nghiệp và nông nghiệp được Chủ tịch Hồ Chí Minh ví như hai chân của nền kinh tế. Phát triển công nghiệp có tác động lớn tới nông nghiệp thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Ngược lại nông nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện tích luỹ vốn ban đầu cho phát triển công nghiệp. Sau hơn 20 năm đổi mới, đặc biệt sau Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX) nền nông nghiệp Việt Nam đã đạt những thành tựu khá toàn diện và to lớn, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt cao, không những đảm bảo an ninh lương thực mà còn có sản phẩm xuất khẩu, một số sản phẩm được thị trường quốc tế ưa chuộng. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp chậm hơn công nghiệp và nền nông nghiệp đang chịu tác động mạnh mẽ làn sóng phát triển công nghiệp. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X chỉ rõ:

Phát triển đồng bộ công nghiệp chế biến, chế tác, công nghiệp công nghệ cao Xây dựng và thực hiện tốt chương trình phát triển công nghiệp phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Tập trung nguồn lực phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo ra sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động, như: chế biến nông, lâm, thuỷ sản [17, tr.196 - 197].

Vĩnh Phúc nằm trong vùng châu thổ Sông Hồng, nhưng có địa hình đa dạng và được nhiều địa phương trong cả nước biết đến với “khoán hộ” vào thập niên 60 của thế kỷ XX. Được tái lập năm 1997, tại thời điểm đó nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế, 85% dân cư sống bằng nghề nông, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, do điều kiện địa lý tự nhiên, Vĩnh Phúc có khả năng phát triển công nghiệp - dịch vụ. Thực tiễn trong hơn 10 tái lập tỉnh, sự phát triển công nghiệp của Vĩnh Phúc đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ (năm 2008 chiếm 82%). Sự chuyển dịch này có ảnh hưởng toàn diện tới sản xuất nông nghiệp của Vĩnh Phúc. Phát triển công nghiệp là nền tảng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, tăng thu ngân sách để có điều kiện tái đầu tư cho nông nghiệp. Quá trình phát triển công nghiệp của Vĩnh Phúc thời gian qua đã tác động lớn tới phát triển nông nghiệp của tỉnh cả tác động tích cực và tác động tiêu cực. Cần phải có sự nghiên cứu về những tác động này để tìm ra các giải pháp phù hợp phát huy hiệu quả tác động phát triển công nghiệp đến phát triển nông nghiệp của tỉnh.

 

doc93 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1167 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Tác động của phát triển công nghiệp đối với nông nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t¸c ®éng cña ph¸t triÓn c«ng nghiÖp ®èi víi n«ng nghiÖp ë tØnh vÜnh phóc HÀ NỘI - 2009 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TỚI NÔNG NGHIỆP 6 1.1. Đặc điểm phát triển nông nghiệp dưới tác động của phát triển công nghiệp 6 1.2. Sự tác động qua lại giữa phát triển công nghiệp và nông nghiệp 14 1.3. Kinh nghiệm ở một số tỉnh trong việc giải quyết vấn đề đất nông nghiệp bị thu hẹp do tác động của việc hình thành các khu công nghiệp 24 Chương 2: THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TỚI NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH VĨNH PHÚC 26 2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh thuận lợi cho phát triển công nghiệp và nông nghiệp 26 2.2. Thực trạng tác động phát triển công nghiệp tới nông nghiệp ở Vĩnh Phúc 34 Chương 3: MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY HIỆU QUẢ TÁC ĐỘNG CỦA PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH VĨNH PHÚC 67 3.1. Mục tiêu phát triển công nghiệp và nông nghiệp của tỉnh Vĩnh Phúc đến 2010 và định hướng đến 2020 67 3.2. Các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hiệu quả tác động của phát triển công nghiệp đối với nông nghiệp Vĩnh Phúc 70 KẾT LUẬN 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 84  DANH MỤC BẢNG TRONG LUẬN VĂN Trang Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh giai đoạn 2004 - 2008 28 Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế theo ngành 29 Bảng 2.3: Tổng thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2004 - 2008 30 Bảng 2.4: Thu nhập bình quân đầu người giai đoạn 2004 - 2008 31 Bảng 2.5: Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp giai đoạn 2004 -2008 34 Bảng 2.6: Tỷ trọng ngành trồng trọt và chăn nuôi giai đoạn 2004 - 2008 35 Bảng 2.7: Số lượng gia súc, gia cầm giai đoạn 2004 - 2008 38 Bảng 2.8: Cơ cấu lao động trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2004 - 2008 40 Bảng 2.9: Năng suất một số cây trồng chủ yếu 43 Bảng 2.10: Sản lượng cây lương thực có hạt giai đoạn 2004 - 2008 44 Bảng 2.11: Biến động diện tích đất các loại giữa các năm 55 Bảng 2.12: Mức độ manh mún đất của Vĩnh Phúc so với một số tỉnh 66 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công nghiệp và nông nghiệp được Chủ tịch Hồ Chí Minh ví như hai chân của nền kinh tế. Phát triển công nghiệp có tác động lớn tới nông nghiệp thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Ngược lại nông nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện tích luỹ vốn ban đầu cho phát triển công nghiệp. Sau hơn 20 năm đổi mới, đặc biệt sau Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX) nền nông nghiệp Việt Nam đã đạt những thành tựu khá toàn diện và to lớn, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt cao, không những đảm bảo an ninh lương thực mà còn có sản phẩm xuất khẩu, một số sản phẩm được thị trường quốc tế ưa chuộng. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp chậm hơn công nghiệp và nền nông nghiệp đang chịu tác động mạnh mẽ làn sóng phát triển công nghiệp. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X chỉ rõ: Phát triển đồng bộ công nghiệp chế biến, chế tác, công nghiệp công nghệ cao…Xây dựng và thực hiện tốt chương trình phát triển công nghiệp phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Tập trung nguồn lực phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo ra sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động, như: chế biến nông, lâm, thuỷ sản… [17, tr.196 - 197]. Vĩnh Phúc nằm trong vùng châu thổ Sông Hồng, nhưng có địa hình đa dạng và được nhiều địa phương trong cả nước biết đến với “khoán hộ” vào thập niên 60 của thế kỷ XX. Được tái lập năm 1997, tại thời điểm đó nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế, 85% dân cư sống bằng nghề nông, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, do điều kiện địa lý tự nhiên, Vĩnh Phúc có khả năng phát triển công nghiệp - dịch vụ. Thực tiễn trong hơn 10 tái lập tỉnh, sự phát triển công nghiệp của Vĩnh Phúc đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ (năm 2008 chiếm 82%). Sự chuyển dịch này có ảnh hưởng toàn diện tới sản xuất nông nghiệp của Vĩnh Phúc. Phát triển công nghiệp là nền tảng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, tăng thu ngân sách để có điều kiện tái đầu tư cho nông nghiệp. Quá trình phát triển công nghiệp của Vĩnh Phúc thời gian qua đã tác động lớn tới phát triển nông nghiệp của tỉnh cả tác động tích cực và tác động tiêu cực. Cần phải có sự nghiên cứu về những tác động này để tìm ra các giải pháp phù hợp phát huy hiệu quả tác động phát triển công nghiệp đến phát triển nông nghiệp của tỉnh. Vì vậy, đề tài nghiên cứu “Tác động của phát triển công nghiệp đối với nông nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc” được học viên lựa chọn làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn Nghiên cứu về t¸c động của phát triển công nghiệp tới nông nghiệp cho đến nay vẫn còn hạn chế, nhưng nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn thì đã có nhiều nhà khoa học và các tác giả quan tâm, cụ thể: - Nguyễn Phúc Thọ, Tác động tiêu cực của công nghiệp hoá tới nội dung xây dựng khu công nghiệp tập trung đến sản xuất và đời sống của các hộ nông dân bị thu hồi đất sản xuất ở xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. www.hua.edu.vn. - Nguyễn Quốc Thanh, Phát triển công nghiệp ở nông thôn gắn với bảo vệ môi trường. www.quangtri.vn. - Bùi Huy Đáp - Nguyễn Điền (1996), Nông nghiệp Việt Nam từ cội nguồn đến đổi mới Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Nguyễn Đình Phan (2007), Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng Sông Hồng Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Đặng Kim sơn (2008), Nông nghiệp nông dân, nông thôn Việt Nam hôm nay và mai sau Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - TS Nguyễn Thế Trường (2008) Hoàn thiện tổ chức sản xuất nông nghiệp ở các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam Nxb Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội. - Phạm Thị Khanh (2005), “Đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp bền vững ở Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị, tr 33 - 40. - Lưu Văn Sùng (2004), Một số kinh nghiệm điển hình về phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Ngoài ra còn nhiều luận văn Thạc sĩ kinh tế về đề tài nông nghiệp, nông thôn dưới các góc độ và ở các địa phương khác nhau. Tại Vĩnh Phúc cũng đã có những công trình nghiên cứu như: TS Nguyễn Thế Trường (2008), Những biến đổi kinh tế - xã hội ở Vĩnh Phúc giai đoạn 1997 - 2005 Nxb Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội; Hoàng Đức Tiến (1999) Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp ở huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc, Luận án Thạc sỹ kinh tế; Các đề án cụ thể hoá Nghị quyết số 03 của Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc về “Phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2006 - 2010, định hướng đến 2020”. Những công trình nghiên cứu về lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn có rất nhiều và đã đề cập đến phát triển nền nông nghiệp nói chung và của tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng. Nhưng nghiên cứu về tác động của phát triển công nghiệp tới nông nghiệp trên địa bàn của tỉnh Vĩnh Phúc thì đến nay chưa có tác giả nào đề cập đến. Vì vậy, đề tài nghiên cứu “Tác động của phát triển công nghiệp đối với nông nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc” được học viên lựa chọn làm đề tài luận văn Thạc sĩ kinh tế là không trùng lắp với các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục tiêu - Làm rõ mối quan hệ nông nghiệp và công nghiệp, những tác động của quá trình phát triển công nghiệp đối với nông nghiệp. - Tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng tác động của phát triển công nghiệp tới nông nghiệp ở Vĩnh Phúc, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm phát huy những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của quá trình này để thúc đẩy nông nghiệp ở Vĩnh Phúc phát triển bền vững. 3.2. Nhiệm vụ - Hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về tác động của phát triển công nghiệp tới nông nghiệp. - Tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng tác động của phát triển công nghiệp tới nông nghiệp Vĩnh Phúc từ 2004 đến nay, chỉ ra những tác động tích cực, tiêu cực và nguyên nhân của những tác động đó. - Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực để thúc đẩy nông nghiệp Vĩnh Phúc phát triển bền vững trong thời gian tới. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu tác động của phát triển công nghiệp tới nông nghiệp Vĩnh Phúc từ năm 2004 đến 2008, trong đó từ 2004 - 2007 theo địa giới hành chính cũ và năm 2008 theo địa giới hành chính mới, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hiệu quả tác động phát triển công nghiệp đến phát triển nông nghiệp Vĩnh Phúc trong thời gian tới. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ Tỉnh Vĩnh Phúc về vấn đề tác động của phát triển công nghiệp tới nông nghiệp. Ngoài ra luận văn kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu của một số công trình, bài viết có liên quan đến vấn đề này. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng những phương pháp như: Phương pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê… 6. Đóng góp mới của luận văn - Làm rõ thêm những tác động của phát triển công nghiệp đối với nông nghiệp. - Tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng tác động của phát triển công nghiệp tới nông nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2004 - 2008, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hiệu quả tác động phát triển công nghiệp đến phát triển nông nghiệp Vĩnh Phúc trong thời gian tới. - Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cấp uỷ Đảng, chính quyền các nơi có điều kiện tương đồng như Vĩnh Phúc trong định hướng phát triển ngành kinh tế nói chung và phát triển nông nghiệp nói riêng. Ngoài ra còn có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo cho giảng dạy KTCT ở Trung tâm bồi dưỡng chính trị các huyện và Trường chính trị tỉnh Vĩnh Phúc. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương 7 tiết. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TỚI NÔNG NGHIỆP 1.1. ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP 1.1.1. Phá vỡ tập quán sản xuất truyền thống, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá lớn Sự phát triển của công nghiệp đã làm thay đổi tập quán sản xuất nông nghiệp theo kiểu tự cung, tự cấp sang hình thành các mô hình sản xuất hàng hoá lớn. Trước đây, khi công nghiệp chưa phát triển, nền sản xuất nông nghiệp chủ yếu là áp dụng những phương pháp canh tác truyền thống đã tồn tại cách đây hàng thiên niên kỷ, nó gắn với phong tục, tập quán vùng - miền, gắn với tính tự cung, tự cấp, tính độc canh cây trồng, vật nuôi và sử dụng các công cụ sản xuất giản đơn, thô sơ dẫn đến năng suất và sản lượng thấp. Mặt khác, đối với sản xuất nông nghiệp thì “vốn đầu tư ít, trong khi đó đất đai và lao động là các yếu tố chính của sản xuất. Do đó, quy luật lợi nhuận giảm dần được thể hiện rõ khi phải sử dụng lao động trên đất đai ngày càng cằn cỗi” [37, tr.340]. Việc duy trì phương pháp canh tác cũ do nhiều nguyên nhân, nhưng yếu tố quan trọng là do tính rủi ro và tính không ổn định của ngành nông nghiệp quy định. Nếu để người sản xuất nông nghiệp chuyển từ những giống cây trồng và công nghệ truyền thống sang một cây trồng và công nghệ mới với hứa hẹn cho một năng suất, sản lượng cao hơn nhưng có thể phải chịu rủi ro mất mùa thì họ sẽ chọn những cây trồng và công nghệ đã được thực tế kiểm nghiệm. Với người sản xuất nông nghiệp tránh được một vụ hay một năm mất mùa còn quan trọng hơn nhiều lần là nâng cao sản lượng. Ở nền sản xuất nông nghiệp truyền thống thì tính ăn chắc luôn được người nông dân đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, ngay trong lòng của nền sản xuất nông nghiệp truyền thống cũng đã có những bước tiến: từ du canh, du cư đến định canh, định cư, ổn định giống cây trồng, vật nuôi cũng như công nghệ sản xuất đã tạo tiền đề cho sự ra đời phương pháp canh tác mới. Nhưng để một phương pháp, một công nghệ sản xuất mới được áp dụng vào sản xuất cần phải có thời gian và một trải nghiệm thực tiễn, khi trải nghiệm đó được cá nhân hay tập thể chứng minh tính hiệu quả vượt trội, ổn định hơn phương pháp sản xuất cũ tự khắc nó sẽ được chấp nhận và nhân rộng. Công nghiệp phát triển đã tác động mạnh tới phương thức sản xuất nông nghiệp, đã phá thế độc canh hình thành cách thức sản xuất mới đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi - đánh dấu bước chuyển quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Cơ sở của bước chuyển này là do những phương pháp canh tác mới được áp dụng rộng rãi và đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Áp dụng phương pháp canh tác mới đòi hỏi phải biết phát huy đúng lúc tác dụng của các dự án thuỷ lợi, sử dụng phân bón hữu cơ cho các loại cây trồng đúng chu kỳ sinh trưởng, phát triển của cây…nên năng suất, sản lượng tăng, đặc biệt là cây lương thực. Công nghiệp phát triển, hàng loạt các máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp ra đời như: máy cày, máy tuốt, máy xay xát được đưa vào sử dụng nhằm giải phóng sức lao động. Bên cạnh đó những giống mới được đưa vào sản xuất đã làm tăng sản lượng lương thực, thực phẩm, nhờ đó người dân đã giải phóng một phần đất đai để trồng các loại cây công nghiệp, cây lấy gỗ, cây ăn quả và phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm. Việc đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi cũng có thể giảm thiểu những tác động tiêu cực khi mất mùa ở những cây trồng chính, tạo ra sự ổn định cho phát triển kinh tế. Chính từ sự đa dạng cây trồng, vật nuôi đã có tác động rất mạnh mẽ đến người sản xuất nông nghiệp như: thời gian nông nhàn giảm, tỷ lệ sử dụng lao động trong nông nghiệp tăng, hệ số sử dụng đất cao và thu nhập của người sản xuất nông nghiệp cũng tăng lên, làm thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Công nghiệp phát triển sẽ làm cho sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng hiện đại hơn, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá lớn tập trung. Tuy nhiên, quá trình tập trung hoá diễn ra chậm và kéo dài hơn so với lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nhưng những thay đổi trong kỹ thuật và cách thức tổ chức của sản xuất nông nghiệp đã làm cho sản lượng và năng suất lao động trong nông nghiệp tăng mạnh: Lúa của Việt nam từ 28 tạ/ha năm 1985 tăng lên 49tạ/ha năm 2006, Trung Quốc 53 tạ/ha lên 63 tạ/ha, Inđônêxia 39 tạ/ha lên 63 tạ/ha [33, tr.68]. Sự tăng trưởng này một mặt làm tăng khối lượng hàng hoá nông sản có thể cung cấp cho xã hội, chuyển bớt một phần lao động từ nông nghiệp sang các ngành sản xuất khác mà không gây ra sự suy giảm sản lượng nông nghiệp và đời sống xã hội. Mặt khác, lượng cầu về tư liệu lao động và hàng tiêu dùng trong khu vực nông nghiệp tăng lên đã kích thích mở rộng sản xuất ở những khu vực phi nông nghiệp. Quá trình này đã dần phá vỡ nền kinh tế tự nhiên để chuyển thành kinh tế hàng hoá. Việc hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung xuất phát từ phát triển của lực lượng sản xuất nói chung và đòi hỏi nguồn cung nguyên liệu cho phát triển công nghiệp chế biến nông sản nói riêng. Đây là giai đoạn phát triển cao của nền sản xuất nông nghiệp hiện đại, nó gắn với các tiến bộ của phát triển công nghiệp, của khoa học - công nghệ, trong đó công nghệ sinh học làm tăng năng suất cây trồng, cơ giới hoá làm tăng năng suất lao động. Đặc điểm chung của các vùng sản xuất hàng hoá tập trung là chú trọng trồng một hoặc hai loại cây chủ lực như: vùng trồng lúa, vùng trồng cây công nghiệp như: cà phê, mía…, chuyển từ sản xuất nông nghiệp theo phương thức truyền thống độc canh cây lúa sang phương thức sản xuất sản xuất hàng hoá lớn, đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao. 1.1.2. Sự phát triển nông nghiệp chịu sự tác động mạnh của khoa học - công nghệ Trước đây, chúng ta thường quan niệm, sự tăng trưởng của nền kinh tế nói chung phụ thuộc nhiều vào các yếu tố như; tài nguyên thiên nhiên, vốn, lao động…. Nhưng các cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đã chứng minh, ngoài những yếu tố trên còn có những nhân tố khác có khả năng thay đổi và giữ vai trò quan trọng trong tăng trưởng và phát triển kinh tế khi mà nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt, môi trường ngày càng ô nhiễm đó là khoa học - công nghệ. Nó được coi là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất và thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu. Khi nhận xét về tác động của khoa học - công nghệ C.Mác đã dự đoán: “đến giai đoạn công nghiệp, việc sản sinh ra sự giàu có thực sự không phụ thuộc nhiều vào thời gian lao động, mà lại phần lớn phụ thuộc vào tình trạng chung của khoa học và tiến bộ của kỹ thuật hay sự vận dụng khoa học và sản xuất” [37, tr.276]. Ngày nay, khoa học - công nghệ tạo ra công cụ lao động mới, phương pháp sản xuất mới, nên các nguồn lực được sử dụng một cách hiệu quả hơn, làm biến đổi chất lượng lao động, cơ cấu lao động, chuyển từ lao động thủ công, giản đơn là chủ yếu sang lao động bằng máy móc là chính nên năng suất lao động tăng cao. Khoa học - công nghệ có tác động toàn diện tới nền kinh tế nói chung và từng ngành kinh tế nói riêng, dẫn đến phân chia thành nhiều ngành nhỏ, xuất hiện thêm nhiều ngành mới, lĩnh vực kinh tế mới. Mặt khác, nó làm cho thu nhập tăng, cơ cấu tiêu dùng thay đổi, tất yếu cơ cấu sản xuất cũng phải thay đổi và từ đó làm thay đổi cơ cấu, vị trí các ngành chuyển dịch theo hướng giảm tương đối tăng tuyệt đối. Cũng như những ngành kinh tế khác, nông nghiệp cũng chịu tác động mạnh của khoa học - công nghệ, đây chính là cú hích tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nội bộ ngành. Khi nền sản xuất nông nghiệp còn mang tính tự cung, tự cấp, độc canh đến định canh, định cư, đa dạng cây trồng, vật nuôi, đến hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung thì khoa học - công nghệ đóng vai trò nền tảng. Ngay cả khi một giống mới được tạo ra đã gắn với công nghệ sinh học, nhưng để đưa ra sản xuất đảm bảo tăng năng suất chỉ trong điều kiện đủ nước, phân bón hoá học, thuốc bảo vệ thực vật từ công nghiệp. Sản xuất nông nghiệp chỉ phát triển khi song hành với các lĩnh vực kinh tế khác. Sự phát triển của công nghiệp, của khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghiệp chế biến làm tăng năng suất cây trồng, kết hợp với thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, hoá học hoá làm tăng năng suất lao động trong nông nghiệp. Tất cả các yếu tố trên kết hợp với nhau làm gia tăng sản lượng và từ đây người nông dân có thể bán các nông sản của mình, nên đã hình thành thị trường - một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp. Khi mà việc chú trọng sử dụng các yếu tố của sản xuất không hoàn toàn còn đặt vào đất đai, nước, lao động như sản xuất nông nghiệp truyền thống nữa, thì thay vào đó là việc tạo vốn và tiến bộ của khoa học - công nghệ đóng vai trò then chốt thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp. Ở nước ta giai đoạn 2001 - 2007 khoa học - công nghệ trở thành yếu tố đóng góp tới 63% vào tăng trưởng của ngành nông nghiệp [33, tr.67]. Mục tiêu của việc đưa khoa học - công nghệ vào nông nghiệp là nhằm thúc đẩy sản xuất tăng trưởng, phát triển nhanh, cải biến nền nông nghiệp lạc hậu thành nền nông nghiệp tiên tiến, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, tăng sản lượng và giá trị thu nhập trên một đơn vị đất đai, mặt nước, tăng năng suất, sản lượng và giá trị thu nhập trên lao động nông nghiệp và nông thôn và cuối cùng là nâng cao mức sống và thu nhập của nông dân [10, tr.296]. Trong điều kiện đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp thì phương thức canh tác: thâm canh, xen canh, tăng vụ đi đôi với việc ứng dụng khoa học - công nghệ sẽ là một phương thức canh tác tốt nhất để nâng cao hệ số sử dụng đất, tăng khối lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích. Công nghệ sinh học hiện đại đang tạo ra những chuyển biến cách mạng trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm nhờ sử dụng rộng rãi kỹ thuật gen, kỹ thuật tế bào, kỹ thuật lên men mới và kỹ thuật enzim. Trong nông nghiệp, hiệu quả của việc ứng dụng công nghệ sinh học thể hiện trước hết trong việc tạo ra các giống mới có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất cao, khả năng chống dịch bệnh tăng, chịu hạn và các tác nhân khác từ thiên nhiên. Điều này cho thấy tầm quan trọng đặc biệt của công nghệ sinh học trong phát triển nền nông nghiệp hiện đại. Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển của công nghiệp, của tiến bộ khoa học - công nghệ và của các điều kiện kinh tế - xã hội, con người có khả năng làm thay đổi môi trường một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, sự thay đổi môi trường này phải đảm bảo vừa thu được từ thiên nhiên nhiều sản phẩm nhất phục vụ cho cuộc sống của con người vừa phải nâng cao được tính tái tạo của tự nhiên, bảo vệ và cải tạo môi trường sống. Ngày nay, với một hệ thống công nghệ mới như: công nghệ thông tin, sinh học, năng lượng mới, vật liệu mới đã mở ra cơ hội phát triển mới cho nhiều ngành. Đối với nông nghiệp thì công nghệ sinh học tạo sự đột phá toàn diện và được công nghệ thông tin phổ biến rộng rãi mang tính toàn cầu đã hướng tới phát triển một nền nông nghiệp sinh thái, phục tráng và đổi mới hệ thống giống, tái tạo lại thảm thực vật rừng, khai thác tiềm năng to lớn của biển…Với những thành tựu của công nghệ sinh học, loài người không chỉ đảm bảo đủ lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh từ tự nhiên cho hơn 9 - 10 tỷ người vào giữa thế kỷ XXI mà còn có khả năng khôi phục cân bằng sinh thái, giữ gìn đa dạng sinh học toàn cầu [21, tr.309]. Chính vì vậy, các nước đã và đang tiến hành nghiên cứu khoa học để áp dụng vào sản xuất nông nghiệp tạo bước phát triển đột phá trong nông nghiệp. Một trong những nước đã có bí quyết sử dụng khoa học - công nghệ để tăng năng suất, chất lượng nông sản vươn lên nắm thế chủ động chi phối thị trường gạo thế giới như Thái Lan (giá gạo của Thái Lan hiện nay đang chi phối giá thị trường gạo thế giới). Ở nước ta, nhiều Nghị quyết và văn kiện quan trọng của Đảng, Nhà nước nhấn mạnh việc đưa nhanh khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, coi đây là khâu đột phá quan trọng nhất để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và chấn hưng nền nông nghiệp Việt Nam. Hiện tại ở Việt Nam đã hình thành các kênh hỗ trợ chuyển giao công nghệ ở như: - Hỗ trợ theo kênh khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư: Đây là kênh chính thức và quan trọng nhất của Nhà nước nhằm cung cấp cho người sản xuất nông nghiệp tiếp cận và làm chủ những kiến thức sản xuất nông nghiệp hiện đại. - Hỗ trợ qua kênh chương trình, dự án của Nhà nước nhằm đào tạo kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ cho cả lao động trực tiếp và lao động quản lý trong nông nghiệp. - Hỗ trợ thông qua các tổ chức phi chính phủ nước ngoài; bao gồm các hoạt động chuyển giao công nghệ ở các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, bảo vệ và trồng rừng, bảo quản nông sản... Nhìn chung, trong bối cảnh như hiện nay thì nông nghiệp chịu tác động mạnh của công nghiệp, của tiến bộ khoa học - công nghệ, nó được coi là các yếu tố đầu vào và hỗ trợ đầu ra rất hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp. Từ hai đặc điểm cơ bản của phát triển nông nghiệp dưới sự tác động của phát triển công nghiệp, có thể rút ra một số nhận xét: + Sự vận động, thay đổi từ sản xuất nông nghiệp thống sang sản xuất nông nghiệp hàng hoá là một đòi hỏi khách quan. Đặc biệt dưới tác động của công nghiệp chế biến và dịch vụ nông nghiệp ngày càng phát triển hoàn thiện đã làm thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp, cơ cấu lao động, quy mô sản xuất, cơ cấu thu nhập. Bên cạnh đó, do nhu cầu tiêu dùng ngày càng lớn của xã hội cũng như đòi hỏi của nền kinh tế nên ngành nông nghiệp phải có sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi để đáp ứng tư liệu tiêu dùng thiết yếu của con người và khai thác lợi thế so sánh của từng loại giống cây trồng, vật nuôi và của từng vùng. + Lao động khu vực nông nghiệp dưới tác động của phát triển công nghiệp có sự phân công lao động mới trên cơ sở hình thành và phát triển các nghề mới như: tiểu thủ công nghiệp, làng nghề truyền thống, dịch vụ…theo phương châm “ly nông bất ly hương”. Từng bước xác lập cơ cấu kinh tế nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ trên địa bàn nông thôn, thúc đẩy phát triển nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, làm biến đổi bộ mặt nông thôn. + Chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp đòi hỏi luôn phải được nâng cao đáp ứng yêu cầu của sự phát triển công nghiệp. Đối với người lao động trực tiếp trong nông nghiệp phải vừa có kiến thức chuyên ngành vừa có kiến thức thực tiễn; với những người lao động sống ở khu vực nông thôn nhưng không tham gia trực tiếp sản xuất nông nghiệp mà lao động ở lĩnh vực khác thì phải có sự nhậy bén trong nắm bắt công nghệ cũng như lựa chọn nghề cho phù hợp. + Các tiến bộ khoa học - công nghệ được ứng dụng vào sản xuất, quản lý, kinh doanh, thực hiện thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá, hoá học hoá, tin học hoá vào sản xuất nông nghiệp đã tạo đà cho nông nghiệp phát triển mạnh mẽ. Thành tựu của công nghệ sinh học đã làm thay đổi căn bản cách thức quản lý sản xuất kinh doanh ở khu vực kinh tế nông nghiệp theo hướng lấy cơ cấu, quy mô và nhu cầu thị trường làm cơ sở quyết định cơ cấu, qu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan Van.doc
Tài liệu liên quan