Trong tiến trình thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Đảng ta đã khẳng định: nguồn lực trong nước là chính, nguồn lực bên ngoài giữ vai trò quan trọng. Thực tiễn các quốc gia đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng thời gian qua cho thấy, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế.
Kể từ khi ban hành và có hiệu lực Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam năm 1987 đến nay, FDI đã góp phần đáng kể vào bổ sung nguồn vốn, chuyển giao công nghệ, tăng xuất khẩu và giải quyết việc làm, trở thành nhân tố quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở khu vực Đông Nam Á 1997 đã khiến cho lượng vốn FDI vào nước ta bị suy giảm mạnh, song thời gian gần đây, lượng vốn này đang có xu hướng gia tăng, theo báo cáo mới nhất của Cục Đầu tư nước ngoài năm 2008, sau 2 năm gia nhập WTO Việt Nam đã đạt kỷ lục trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài kể từ trước tới nay với 64 tỷ USD vốn đăng ký, gấp 3 lần so với năm 2007. Điều này chứng tỏ có một sự chuyển biến đáng kể trong tâm lý các nhà đầu tư nước ngoài về tiềm năng và môi trường đầu tư ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, Việt Nam có 63 tỉnh, thành phố với những đặc thù khác nhau, do đó lượng vốn FDI phân bổ vào các địa phương không đều. Đồng thời mức độ phát huy tác động cũng không giống nhau, bên cạnh những tác động tích cực thì FDI cũng đã và đang thể hiện những ảnh hưởng không mong muốn, do đó vẫn đề bức xúc đặt ra không những chỉ là tăng cường thu hút FDI, mà còn là làm sao để FDI phát huy được những tác động tích cực, giảm thiểu những tác động tiêu cực tới phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và từng địa phương nói riêng.
Thừa Thiên - Huế được xác định là cực phát triển kinh tế quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm miền trung, là cửa ngõ của tuyến hành lang thương mại Đông - Tây nối Myanma, Thái Lan, Lào với biển Đông. Những lợi thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đang là điều kiện thuận lợi cho Thừa Thiên - Huế đẩy mạnh thu hút FDI, mở rộng giao lưu kinh tế với các địa phương trong nước và thế giới phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trong thời gian qua, cùng với các hoạt động đầu tư khác, FDI đã góp phần đáng kể trong thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, cho đến nay so với nhiều địa phương khác trong cả nước, Thừa Thiên - Huế vẫn chưa thu hút được nhiều FDI, đồng thời vẫn chưa phát huy tốt những tác động tích cực của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
125 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1113 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới phát triển Kinh tế - Xã hội trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Đảng ta đã khẳng định: nguồn lực trong nước là chính, nguồn lực bên ngoài giữ vai trò quan trọng. Thực tiễn các quốc gia đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng thời gian qua cho thấy, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế.
Kể từ khi ban hành và có hiệu lực Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam năm 1987 đến nay, FDI đã góp phần đáng kể vào bổ sung nguồn vốn, chuyển giao công nghệ, tăng xuất khẩu và giải quyết việc làm, trở thành nhân tố quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở khu vực Đông Nam Á 1997 đã khiến cho lượng vốn FDI vào nước ta bị suy giảm mạnh, song thời gian gần đây, lượng vốn này đang có xu hướng gia tăng, theo báo cáo mới nhất của Cục Đầu tư nước ngoài năm 2008, sau 2 năm gia nhập WTO Việt Nam đã đạt kỷ lục trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài kể từ trước tới nay với 64 tỷ USD vốn đăng ký, gấp 3 lần so với năm 2007. Điều này chứng tỏ có một sự chuyển biến đáng kể trong tâm lý các nhà đầu tư nước ngoài về tiềm năng và môi trường đầu tư ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, Việt Nam có 63 tỉnh, thành phố với những đặc thù khác nhau, do đó lượng vốn FDI phân bổ vào các địa phương không đều. Đồng thời mức độ phát huy tác động cũng không giống nhau, bên cạnh những tác động tích cực thì FDI cũng đã và đang thể hiện những ảnh hưởng không mong muốn, do đó vẫn đề bức xúc đặt ra không những chỉ là tăng cường thu hút FDI, mà còn là làm sao để FDI phát huy được những tác động tích cực, giảm thiểu những tác động tiêu cực tới phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và từng địa phương nói riêng.
Thừa Thiên - Huế được xác định là cực phát triển kinh tế quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm miền trung, là cửa ngõ của tuyến hành lang thương mại Đông - Tây nối Myanma, Thái Lan, Lào với biển Đông. Những lợi thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đang là điều kiện thuận lợi cho Thừa Thiên - Huế đẩy mạnh thu hút FDI, mở rộng giao lưu kinh tế với các địa phương trong nước và thế giới phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trong thời gian qua, cùng với các hoạt động đầu tư khác, FDI đã góp phần đáng kể trong thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, cho đến nay so với nhiều địa phương khác trong cả nước, Thừa Thiên - Huế vẫn chưa thu hút được nhiều FDI, đồng thời vẫn chưa phát huy tốt những tác động tích cực của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
Mặc dù thu hút FDI vào Thừa Thiên - Huế vẫn là cần thiết và đang gặp không ít khó khăn, song không vì thế mà thu hút bằng mọi giá. Để phát huy vai trò của FDI trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, vấn đề cấp thiết đặt ra là phải nghiên cứu làm rõ những tác động của FDI tới phát triển kinh tế - xã hội. Nhận thức được tác động hai mặt của FDI là cơ sở khoa học để xây dựng và thực các giải pháp phù hợp nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của FDI trên địa bàn cả nước nói chung và tại Thừa Thiên – Huế nói riêng. Đó là lý do học viên cao học lựa chọn đề tài ''tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế'' làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu luận văn
Về đầu tư trực tiếp nước ngoài trên phạm vi cả nước đã có nhiều công trình nghiên cứu và được công bố, chẳng hạn như:
- Hoàng Thị Kim Thanh: những giải pháp nâng cao hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội, 2003.
- Nguyễn Văn Tuấn: đầu tư nước ngoài với phát triển kinh tế Việt Nam, nxb. Tư pháp, Hà Nội 2005.
- Hà Thanh Việt: Thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn duyên hải miền trung, luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội, 2006.
- Ts. Nguyễn Thị Tuệ Anh: Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, nghiên cứu của dự án SIDA, Hà Nội, 2006.
- Hà Quang Tiến: Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát triển công nghiệp ở Vĩnh Phúc, luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội 2007.
- Ts. Hà Xuân Vấn: Hoàn thiện môi trường chính sách khuyến khích đầu tư vốn ở tỉnh Thừa Thiên - Huế hiện nay, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ, Huế 2008.
Trong các công trình đó, các tác giả đã có nhiều đóng góp quan trọng trong làm rõ những lý luận chung về FDI, phân tích vai trò của FDI, đưa ra những giải pháp chung để đẩy mạnh thu hút FDI vào nước ta, cũng như một số địa bàn giai đoạn tới. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu cụ thể tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích thực trạng và tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thừa Thiên - Huế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra của luận văn là:
- Làm rõ một số lý luận và thực tiễn về đầu tư trực tiếp nước ngoài và mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế - xã hội.
- Phân tích thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế trong thời gian qua.
- Đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới phát triển kinh tế - xã hội ở Thừa Thiên - Huế và những vấn đề đang đặt ra.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới, phát huy tốt những tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đầu tư trực tiếp nước ngoài và tác động của nó tới phát triển kinh tế - xã hội.
- Phạm vi nghiên cứu: về không gian: tập trung nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế; về thời gian: chủ yếu phân tích đánh giá thực trạng tác động của FDI tới phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế từ năm 2000 đến nay và đề xuất giải pháp phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của FDI từ nay đến năm 2015 tầm nhìn đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa vào lý luận của Lênin về xuất khẩu tư bản, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về thu hút FDI, kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu trong các công trình khoa học đã công bố để làm rõ tác động của FDI tới phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên – Huế và đề xuất các giải pháp phù hợp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm nền tảng cơ sở phương pháp luận.
- Kết hợp lý luận, quan điểm đường lối của Đảng với thực tiễn địa phương để lý giải những vấn đề mà luận văn nghiên cứu.
- Luận văn sử dụng trừu tượng hóa khoa học, phương pháp lôgic - lịch sử, kết hợp với phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh...
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng thu hút FDI và tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế, từ đó đề xuất những định hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế của tỉnh theo hướng bền vững.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo đối với việc giảng dạy nghiên cứu về FDI cũng như đối với cơ quan hoạch định chính sách đối ngoại của tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục luận văn chia làm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Lịch sử phát triển và bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1.1. Về lịch sử phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã xuất hiện vào thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản – thời kỳ mà các nước tư bản bắt đầu đi xâm chiếm hình thành các thuộc địa. Hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài lúc bấy giờ tồn tại dưới dạng các nhà tư bản đầu tư vốn vào các thuộc địa, trên cơ sở sử dụng nguồn lao động tại chổ để khai thác khoáng sản, đồn điền nhằm tạo ra nguồn nguyên liệu cung cấp cho các ngành sản xuất ở chính quốc.
Thoạt đầu, đầu tư trực tiếp nước ngoài chính là một trong những phương thức tìm kiếm, khai thác các yếu tố cần thiết, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Theo sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, đầu tư trực tiếp nước ngoài liên tục gia tăng dưới tác động của tích lũy tư bản, đồng thời với sự phát triển và ngày càng mở rộng của quá trình phân công lao động xã hội trên qui mô quốc tế đã tạo ra những cơ hội mới cho đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bên cạnh đó, dưới tác động của nhiều yếu tố đặc biệt là khoa học – công nghệ, tốc độ mở rộng sự giao lưu hợp tác kinh tế quốc tế đã làm cho không gian hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng mở rộng hơn, và nó đã trở thành phổ biến trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.
V.I.Lênin là người đã nghiên cứu một cách đầy đủ và chỉ ra nguồn gốc lịch sử của đầu tư trực tiếp nước ngoài, có thể khái quát quan điểm của Lênin như sau: Do sự phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài gắn liền với lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản nên trong hầu hết các trường hợp, đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem như một công cụ bóc lột của các nhà tư bản. Quá trình tích tụ và tập trung tư bản trong điều kiện chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã dẫn tới sự hình thành, phát triển và trở thành thống trị của các tổ chức độc quyền trong nền kinh tế. Sự thống trị của độc quyền tư bản dưới hình thái tư bản tài chính là cơ sở vững chắc cho việc thu lợi nhuận độc quyền cao, trở thành điều kiện quan trọng cho sự lớn lên của tư bản, và sự xuất hiện tình trạng “tư bản thừa” như là một tất yếu. Lênin cho rằng nếu chủ nghĩa tư bản chú ý đến phát triển nông nghiệp, đến việc nâng cao mức sống của quần chúng nhân dân… thì không thể có hiện tượng tư bản thừa.
Chừng nào chủ nghĩa tư bản vẫn còn là chủ nghĩa tư bản, số tư bản thừa vẫn còn được dùng không phải là để nâng cao mức sống của quần chúng trong nước đó, vì như thế thì sẽ đi đến kết quả làm giảm bớt lợi nhuận của bọn tư bản, - mà là để tăng thêm lợi nhuận đó bằng cách xuất khẩu tư bản ra nước ngoài, vào những nước lạc hậu. Trong các nước lạc hậu này, lợi nhuận thường cao, vì tư bản hãy còn ít, giá đất đai tương đối thấp, tiền công hạ, nguyên liệu rẻ. [21, tr.456]
Như vậy “tư bản thừa” là do khi chúng đã nhìn thấy được những “mảnh đất màu mỡ” mà tại đó chúng có khả năng sinh lợi cao, trong khi ở nước sở tại các điều kiện để cho đầu tư sinh lợi đã trở nên rất hạn chế. Lênin cho rằng, xuất khẩu tư bản là đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại (chủ nghĩa tư bản độc quyền) [21, tr.455].
Thời kỳ từ Cách mạng tháng Mười Nga thành công về sau, khi mà trên thế giới đã hình thành hai hệ thống chính trị xã hội đối lập, đầu tư trực tiếp nước ngoài có những thay đổi nhất định. Bên cạnh loại hình như vẫn tồn tại (ở các nước thuộc địa) đã hình thành một loại hình mới đó là loại đầu tư chỉ có thể thực hiện khi được sự chấp thuận của nước nhận đầu tư. Loại hình này, dù còn có sự khác nhau về mức độ nhưng cả nhà đầu tư và nước nhận đầu tư đều có lợi. Trong thời kỳ đầu của chính quyền Xô Viết, Lênin chủ trương sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới hình thức tô nhượng như là một biện pháp để giải quyết khó khăn và thúc đẩy kinh tế phát triển. Ông cho rằng:
Đó là một giao kèo, một đồng minh, một liên minh giữa chính quyền nhà nước Xô Viết, nghĩa là nhà nước vô sản, với chủ nghĩa tư bản nhà nước. Trong đó, “…(nhà tư bản)”, họ kinh doanh theo phương thức tư bản để lấy lợi nhuận: họ đồng ý thỏa thuận với chính quyền vô sản để cốt thu được lợi nhuận bất thường, lợi nhuận siêu ngạch hoặc để có được nguyên liệu mà họ không thể tìm được bằng cách khác. Chính quyền Xô Viết cũng có lợi: lực lượng sản xuất phát triển, số lượng sản phẩm tăng lên ngay hoặc trong một thời gian ngắn nhất… khi “du nhập” chủ nghĩa tư bản dưới hình thức tô nhượng, chính quyền Xô Viết tăng cường được nền đại sản xuất, nền sản xuất tiên tiến đối lập với nền sản xuất lạc hậu, nền sản xuất cơ khí hóa đối lập với nền sản xuất thủ công… [22, tr.448-449].
Như vậy, nước nhận đầu tư không những bị áp đặt mà đối với họ còn tính toán trước được những lợi ích mà việc đầu tư có thể mang lại.
Về dòng chảy của FDI, nếu như trước chiến tranh thế giới thứ hai, đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu từ các nước tư bản phát triển đầu tư vào các nước kém phát triển và thuộc địa, thì sau chiến tranh thế giới thứ hai, luồng đầu tư đã có sự thay đổi. Đã xuất hiện sự đầu tư lẫn nhau giữa các nước tư bản phát triển, xuất hiện những nước vừa là nơi cung cấp nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài vừa là địa điểm tiếp nhận đầu tư.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới có sự phân cách đáng kể về sự giàu nghèo giữa các quốc gia đầu tư trực tiếp nước ngoài được nhiều người đánh giá như là lối thoát cho các nước nghèo. Điển hình là lý thuyết “Cái vòng luẩn quẩn” và “cú hích” từ bên ngoài của A.Samuelson. A.Samuelson đánh giá cao vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển của các nước nghèo. Ông cho rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài là lực lượng có khả năng làm phá vỡ “vòng luẩn quẩn của nghèo khổ”, tạo ra những điều kiện cho sự phát triển mà không để lại nợ nần. Về cơ bản, nhận định trên của ông nhận được nhiều sự đồng tình. Tuy nhiên, không nên quan niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài là điều kiện duy nhất để các nước nghèo đi lên, là “chìa khóa vạn năng” của sự phát triển.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới vẫn bị phân chia theo hai con đường phát triển tương ứng với hai hệ thống chính trị đối lập (xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa), và cả hai hệ thống đều đạt tới một trình độ phát triển nhất định, thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem như là phương tiện riêng có, địa bàn hoạt động của nó cũng chịu sự giới hạn trong phạm vi nội bộ của từng hệ thống.
Từ những năm cuối thập niên 80 đến nay, sự vận động và các điều kiện của thế giới có những chuyển biến cơ bản, sâu sắc, sự cách biệt giữa hai hệ thống đã giảm dần; nền kinh tế của hầu hết các quốc gia đều theo thể chế thị trường; xu hướng khu vực hóa, toàn cầu hóa các hoạt động kinh tế đang trở thành phổ biến và diễn ra với tốc độ nhanh; khoa học, kỹ thuật, công nghệ đạt tới trình độ phát triển cao;… đầu tư trực tiếp nước ngoài không những được sử dụng như trong những hình thức hợp tác kinh tế, như phương tiện thực hiện phân công lao động quốc tế, mà còn được xem là điều kiện quyết định sự phát triển của kinh tế thế giới.
Nhu cầu tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài đang tăng lên một cách đáng kể trên phạm vi toàn thế giới. Cùng với việc hình thành các khu vực tự do hóa đầu tư đã tạo ra một cục diện cạnh tranh quyết liệt về lĩnh vực này.
1.1.1.2. Về bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nghiên cứu nguồn gốc lịch sử của xuất khẩu tư bản Lênin đã chỉ ra rằng mặc dù, xuất khẩu tư bản nếu xét về mặt lượng một cách giản đơn thì nó đồng nghĩa với việc làm giảm đi một phần năng lực phát triển, giảm bớt điều kiện tạo việc làm, làm giảm khả năng cải thiện mức sống của nước sở hữu tư bản, nhưng đây chính lại là điều kiện, là cơ hội giúp các nhà tư bản thu được lợi nhuận từ việc đầu tư vào nước khác với mức cao hơn. FDI với tư cách là hình thức của xuất khẩu tư bản có bản chất ăn bám với mức độ cao mà Lênin gọi là ăn bám “bình phương”, bởi lẽ tư bản được xuất khẩu trực tiếp vốn là kết quả mà các tổ chức độc quyền đã bóc lột được ở trong nước, nhưng lại được sử dụng để làm công cụ đi bóc lột nước ngoài với mức lợi nhuận ngang bằng hoặc cao hơn lợi nhuận độc quyền cao. Hơn thế nữa, kết quả bóc lột được từ xuất khẩu tư bản không chỉ là nguồn làm giàu trước mắt cho các tổ chức độc quyền, mà còn là nguồn để củng cố địa vị thống trị và điều kiện ổn định cho việc thu lợi nhuận cao của các tổ chức độc quyền, bởi lẽ một phần của lợi nhuận đó còn được dùng để mua chuộc các tầng lớp lãnh đạo của phong trào công nhân trong nước và tại thuộc địa, tạo ra tầng lớp công nhân quý tộc và thậm chí cả dân tộc thực lợi để phá vỡ phong trào công nhân.
Đối với nước nhập khẩu tư bản thì đây là điều kiện quan trọng để thúc đẩy kinh tế, kỹ thuật phát triển, song về hậu quả, trong không ít trường hợp, do năng lực tổng thể của các nước này kém, nên nhân dân ở các nước nhập khẩu tư bản bị bóc lột nhiều hơn, các nước này sẽ bị lệ thuộc nhiều hơn về kinh tế, kỹ thuật nước ngoài và theo “phản ứng dây chuyền” sẽ rất dễ dẫn đến bị lệ thuộc về chính trị. Như vậy ta thấy rằng, xuất khẩu tư bản thực chất là một loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài. “Các nước xuất khẩu tư bản hầu như bao giờ cũng có khả năng thu được một số “khoản lợi” nào đó” [21, tr.459]. Chính đặc điểm này là nhân tố kích thích các nhà tư bản có tiềm lực tích cực hơn trong việc thực hiện đầu tư ra nước ngoài. Xuất khẩu tư bản ở thời kỳ cuối thế kỷ 19 đầu 20 là phần lớn được đầu tư để khai thác thuộc địa. Nói tóm lại, đầu tư trực tiếp nước ngoài theo quan điểm của Lênin về thực chất công cụ bóc lột của tư bản tài chính nhằm củng cố địa vị thống trị của mình không những trong các nước đế quốc mà cả các nước thuộc địa nhằm đạt được lợi nhuận cao hơn.
Thời kỳ sau Cách mạng tháng mười Nga, Lênin cho rằng xuất khẩu tư bản giai đoạn này đã có biểu hiện mới thông qua sự liên minh kinh tế nhằm tăng qui mô, hay năng lực của tư bản để không những giành được thế mạnh trong cạnh tranh mà còn biến nó thành công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới. Theo cách phân tích và đánh giá của Lênin thì sự phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn gắn liền với lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản. Xuất phát từ điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của thế giới lúc bấy giờ mà Lênin cho rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài là công cụ bóc lột, là hình thức chiếm đoạt của chủ nghĩa tư bản. Lý luận trên đây của Lênin, một mặt đã phác họa bức tranh khá rõ nét nguồn gốc và động cơ của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặt khác, Lênin cũng khẳng định, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã là nhân tố có khả năng thực hiện vai trò động lực thúc đẩy sự phát triển nói chung và sự phát triển nền sản xuất xã hội nói riêng của các bên có liên quan trực tiếp đến hoạt động này.
Sau Lênin một số nhà lý luận cho rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài về thực chất là hình thức kéo dài “chu kỳ tuổi thọ sản xuất” (Vernon - học giả Mỹ), “chu kỳ tuổi thọ kỹ thuật” (Harvey) và “nội bộ hóa di chuyển kỹ thuật” (Rugman - nhà kinh tế học Canada). Bản chất kỹ thuật của đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những vấn đề thu hút sự chú ý của nhiều nhà lý luận. Tuy còn có sự khác nhau về cơ sở nghiên cứu, về phương pháp phân tích, và đối tượng xem xét… nhưng quan điểm của các ông đã gặp nhau ở kết luận: Trong nền kinh tế hiện đại có một số yếu tố liên quan đến kỹ thuật sản xuất kinh doanh đã buộc nhiều nhà sản xuất (có thể là hãng hay công ty) phải lựa chọn phương thức đầu tư trực tiếp nước ngoài như là điều kiện cho sự tồn tại phát triển của mình.
Sự phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài được qui định bởi những quy luật kinh tế hoàn toàn khách quan với những điều kiện cần và đủ chín muồi nhất định, nó chỉ là một trong số những mặt biểu hiện ra bên ngoài của quá trình phân công lao động quốc tế và xã hội hóa sức sản xuất trên qui mô quốc tế. Những nhân tố khác có thể kìm hãm hoặc đẩy nhanh hơn việc mở rộng dòng di chuyển vốn, song nếu kìm hãm cũng không thể dập tắt được đường đi của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến những nơi có lợi thế so sánh tốt hơn, hoặc nếu có thúc đẩy cũng không vượt qua được những điều kiện thực tế hiện có cho phép về những điều kiện cần và đủ cả nơi đi đầu tư lẫn nơi nhận đầu tư. Vậy, sự thay đổi thái độ từ “chống lại” qua “chấp nhận” đến “hoan nghênh” đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể xem là nhân tố tác động tạo ra những bước thay đổi nhận thức theo hướng ngày càng đúng hơn và chủ động hơn của con người đối với quy luật kinh tế khách quan, về sự phát triển sức sản xuất xã hội và phân công lao động xã hội đang mở rộng ra một cách thực tế trên qui mô quốc tế. Xu hướng này có ý nghĩa quyết định trong việc chi phối các biểu hiện vận động khác nhau của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Năm 1987 lần đầu tiên Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chính thức đánh dấu một bước ngoặt lớn trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế nước ta. Sau đó, luật này đã lần lượt được sửa đổi và bổ sung vào các năm 1990, 1992, 1996. Trước khi được đưa vào Luật đầu tư chung, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (năm 1996) gồm 68 điều, chia thành 6 chương, trong đó các hình thức đầu tư được quy định ở Chương II. Theo đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài có 3 hình thức: 1) Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh; 2) Doanh nghiệp liên doanh; 3) Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Luật quy định về phương thức đầu tư mới: hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao, hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh và hợp đồng xây dựng - chuyển giao. Trong đó các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu cụ thể là:
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp do chủ nước ngoài đầu tư 100% vốn tại nước sở tại, có quyền điều hành toàn bộ doanh nghiệp theo quy định của pháp luật nước sở tại.
Doanh nghiệp liên doanh: là doanh nghiệp được thành lập do các chủ đầu tư nước ngoài góp vốn chung với các chủ doanh nghiệp ở nước sở tại trên cơ sở hình thành hợp đồng liên doanh. Các bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và chịu rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên vào vốn điều lệ của doanh nghiệp.
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh: đây là một văn bản được ký kết giữa một chủ đầu tư nước ngoài và một chủ đầu tư trong nước, để tiến hành một hay nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước chủ nhà, trên cơ sở quy định về trách nhiệm để thực hiện hợp đồng và xác định quyền lợi của mỗi bên, nhưng không hình thành một pháp nhân mới.
Các hình thức khác: ngoài các hình thức nêu trên, ở các nước và ở Việt Nam còn có các hình thức khác như: Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) nhằm khuyến khích thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tuy nhiên, vấn đề đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài được điều chỉnh bởi hai luật riêng biệt đã dẫn đến những đối xử khác nhau giữa hai khu vực này, để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt trong giai đoạn lúc bấy giờ Việt Nam đang chuẩn bị gia nhập tổ chức Thương mại quốc tế WTO, những yêu cầu và rào cản về đầu tư, trợ cấp cần loại bỏ, ngày 29 tháng 11 năm 2005, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật đầu tư mới, hoàn chỉnh và phù hợp hơn với đối tượng, phạm vi điều chỉnh được mở rộng. Luật đầu tư chung, đã làm rõ hơn một số khái niệm:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (gọi tắt là hợp đồng BCC) là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân.
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (gọi tắt là hợp đồng BOT) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (gọi tắt là hợp đồng BTO) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (gọi tắt là hợp đồng BT) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thoả thuận trong hợp đồng BT.
Nói về hình thức đầu tư, không phân biệt trong nước hay ngoài nước tại điều 21 chương IV Luật đầu tư đã quy định các hình thức đầu tư trực tiếp [36, tr.7-8] bao gồm:
Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc 100%
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV.doc
- bia.doc