Trong những năm gần đây, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng ta đã đem lại những thành tựu kinh tế - xã hội to lớn, góp phần quan trọng trong việc phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, ổn định tình hình kinh tế xã hội. góp phần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực mà quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đem lại, còn có tác động tiêu cực, ảnh hưởng không nhỏ đến các mặt đời sống kinh tế - xã hội của nước ta. Trong đó, tác động đến môi trường là một minh chứng điển hình.
Một thực tế vẫn đang diễn ra, mặc dù đã có sự lên tiếng, cảnh báo của mọi nơi, mọi ngành, mọi cấp, của mọi tầng lớp nhân dân.về tác hại của sự ô nhiễm, suy thoái môi trường, nhưng thực trạng đó vẫn hiện hữu với mức độ ngày càng trầm trọng hơn, ảnh hưởng xấu đến môi trường tự nhiên và xã hội, đe dọa sức khoẻ, tính mạng con người và sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Dường như, càng phát triển kinh tế, càng đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thì vấn đề môi trường càng trở thành vấn đề bức xúc, gay gắt hơn.
Trước thực trạng đó, Nhà nước ta và các cấp, các ngành, các địa phương trong cả nước đều đã đưa ra những biện pháp khác nhau nhằm ngăn chặn và khắc phục tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường, bảo vệ môi trường, nhưng hiệu quả đem lại chưa được bao nhiêu. Nguồn nước, mặt đất, không khí ở nhiều nơi, nhất là ở khu vực thành phố, các khu công nghiệp. vẫn tiếp tục bị ô nhiễm một cách trầm trọng. Những căn bệnh ác tính, hậu quả từ việc ô nhiễm môi trường ngày càng xuất hiện nhiều hơn, phức tạp hơn, gây hậu quả nghiêm trọng về mặt kinh tế, xã hội. Môi trường xã hội cũng bị ảnh hưởng, tác động không nhỏ. Những vấn đề về việc làm, di dân tự do, tệ nạn xã hội, phân hoá thu nhập. đã trở thành những vấn đề lớn, cản trở đến quá trình phát triển bền vững của nền kinh tế, ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Là một trong những tỉnh sớm có nhiều khu công nghiệp với những ngành công nghiệp quan trọng, tỉnh Phú Thọ không nằm ngoài thực trạng đó.
Để thực hiện một cách có hiệu quả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo xu hướng phát triển bền vững, đặc biệt từ khi có Luật Bảo vệ môi trường đến nay, tỉnh Phú Thọ đã quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường, nhằm ngăn ngừa, khắc phục, giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở tất cả các khu công nghiệp, đô thị và nông thôn, đồng thời có những biện pháp hữu hiệu nhằm cải thiện môi trường xã hội. Tuy nhiên, do việc thực thi những giải pháp bảo vệ môi trường chưa được đồng bộ và triệt để, khiến cho tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường vẫn tiếp tục diễn ra, ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế - xã hội. Thậm chí ở một số nơi, môi trường đã trở thành vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong nhân dân. Những vấn đề xã hội đã có sự chuyển biến tích cực, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế.
Thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng ta, Phú Thọ đang phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp, với nhiệm vụ trung tâm là thúc đẩy xây dựng các khu công nghiệp tập trung, với hệ thống cơ sở, kết cấu hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, đẩy mạnh tốc độ đô thị hoá, phát triển các điểm dân cư tập trung ở nông thôn, nâng cao chất lượng đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân theo hướng văn minh hiện đại. Trước tình hình đó, Phú Thọ cần phải có những giải pháp bảo vệ môi trường thực sự hiệu quả, đồng bộ, nhằm ngăn chặn, khắc phục sự ô nhiễm môi trường tự nhiên, đi đôi với bảo vệ, cải thiện môi trường tự nhiên và xã hội.
129 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1839 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến môi trường ở tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng ta đã đem lại những thành tựu kinh tế - xã hội to lớn, góp phần quan trọng trong việc phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, ổn định tình hình kinh tế xã hội... góp phần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực mà quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đem lại, còn có tác động tiêu cực, ảnh hưởng không nhỏ đến các mặt đời sống kinh tế - xã hội của nước ta. Trong đó, tác động đến môi trường là một minh chứng điển hình.
Một thực tế vẫn đang diễn ra, mặc dù đã có sự lên tiếng, cảnh báo của mọi nơi, mọi ngành, mọi cấp, của mọi tầng lớp nhân dân...về tác hại của sự ô nhiễm, suy thoái môi trường, nhưng thực trạng đó vẫn hiện hữu với mức độ ngày càng trầm trọng hơn, ảnh hưởng xấu đến môi trường tự nhiên và xã hội, đe dọa sức khoẻ, tính mạng con người và sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Dường như, càng phát triển kinh tế, càng đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thì vấn đề môi trường càng trở thành vấn đề bức xúc, gay gắt hơn.
Trước thực trạng đó, Nhà nước ta và các cấp, các ngành, các địa phương trong cả nước đều đã đưa ra những biện pháp khác nhau nhằm ngăn chặn và khắc phục tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường, bảo vệ môi trường, nhưng hiệu quả đem lại chưa được bao nhiêu. Nguồn nước, mặt đất, không khí ở nhiều nơi, nhất là ở khu vực thành phố, các khu công nghiệp... vẫn tiếp tục bị ô nhiễm một cách trầm trọng. Những căn bệnh ác tính, hậu quả từ việc ô nhiễm môi trường ngày càng xuất hiện nhiều hơn, phức tạp hơn, gây hậu quả nghiêm trọng về mặt kinh tế, xã hội. Môi trường xã hội cũng bị ảnh hưởng, tác động không nhỏ. Những vấn đề về việc làm, di dân tự do, tệ nạn xã hội, phân hoá thu nhập... đã trở thành những vấn đề lớn, cản trở đến quá trình phát triển bền vững của nền kinh tế, ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Là một trong những tỉnh sớm có nhiều khu công nghiệp với những ngành công nghiệp quan trọng, tỉnh Phú Thọ không nằm ngoài thực trạng đó.
Để thực hiện một cách có hiệu quả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo xu hướng phát triển bền vững, đặc biệt từ khi có Luật Bảo vệ môi trường đến nay, tỉnh Phú Thọ đã quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường, nhằm ngăn ngừa, khắc phục, giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở tất cả các khu công nghiệp, đô thị và nông thôn, đồng thời có những biện pháp hữu hiệu nhằm cải thiện môi trường xã hội. Tuy nhiên, do việc thực thi những giải pháp bảo vệ môi trường chưa được đồng bộ và triệt để, khiến cho tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường vẫn tiếp tục diễn ra, ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế - xã hội. Thậm chí ở một số nơi, môi trường đã trở thành vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong nhân dân. Những vấn đề xã hội đã có sự chuyển biến tích cực, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế.
Thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng ta, Phú Thọ đang phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp, với nhiệm vụ trung tâm là thúc đẩy xây dựng các khu công nghiệp tập trung, với hệ thống cơ sở, kết cấu hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, đẩy mạnh tốc độ đô thị hoá, phát triển các điểm dân cư tập trung ở nông thôn, nâng cao chất lượng đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân theo hướng văn minh hiện đại... Trước tình hình đó, Phú Thọ cần phải có những giải pháp bảo vệ môi trường thực sự hiệu quả, đồng bộ, nhằm ngăn chặn, khắc phục sự ô nhiễm môi trường tự nhiên, đi đôi với bảo vệ, cải thiện môi trường tự nhiên và xã hội.
Để đánh giá đúng thực trạng về tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường ở tỉnh Phú Thọ, là cơ sở cho việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách trong quá trình bảo vệ môi trường, đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững, tôi chọn nghiên cứu đề tài " Tỏc động của cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoỏ đến mụi trường ở tỉnh Phỳ Thọ " để nghiên cứu Luận văn thạc sĩ Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến thời điểm hiện nay, đã có một số công trình và bài viết đề cập đến vấn đề về môi trường, đặc biệt về sự ô nhiễm môi trường ở nước ta. Nhưng đáng chú ý một số công trình sau đây:
- GS, TS. Lê Quý An (chủ biên), Việt Nam môi trường và cuộc sống (tóm tắt), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- TS Hoàng Hữu Bình, 2005, Vấn đề bảo vệ môi trường trong quá trình thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc và miền núi, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
- GS. TSKH Vũ Huy Chương (chủ biên), 2007, Vấn đề môi trường trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Chương trình môi trường Liên hiệp quốc, 2001, Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam.
- Lưu Đức Hải (chủ biên), Cẩm nang quản lý môi trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
- Uỷ ban Dân tộc, 2006, Phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
- Nguyễn Đình Hoè, 2009, Môi trường và phát triển bền vững, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
- TS Hà Huy Thành, 2001, Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường, Một số vấn đề xã hội và nhân văn trong việc sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- TS Trần Thanh Lâm, Quan hệ quốc tế về môi trường, Viện Tài nguyên nước và Môi trường Đông Nam á, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân...
Các công trình nghiên cứu trên, đã đề cập đến thực trạng về môi trường, đến những áp lực môi trường trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, các vấn đề môi trường bức bách ở Việt Nam hiện nay, đến hiện trạng công tác bảo vệ môi trường và những giải pháp cần thiết về bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Các công trình và bài viết đã có những cách tiếp cận khác nhau, ở những mức độ khác nhau, nhưng đều nhằm mục đích nghiên cứu vấn đề môi trường và giải pháp nhằm bảo vệ môi trường, ngăn chặn ô nhiễm, suy thoái môi trường. Tuy nhiên phần lớn các công trình nghiên cứu đó chủ yếu tập trung nghiên cứu môi trường, dưới góc độ khoa học môi trường và kinh tế phát triển, đồng thời chỉ nặng vào việc tập trung nghiên cứu sự ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên, nhưng lại ít đề cập, hoặc chưa nghiên cứu một cách hệ thống những ảnh hưởng đến môi trường xã hội. Mặt khác, chưa tập trung nghiên cứu làm rõ tác động hai mặt của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường, dưới góc độ của kinh tế chính trị. Đây là lý do chủ yếu để tôi chọn đề tài trên.
Dưới góc độ kinh tế chính trị, đề tài lựa chọn để nghiên cứu không trùng lặp với các công trình đã được công bố.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục tiêu:
Phân tích làm rõ sự tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường ở tỉnh Phú Thọ. Từ đó đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm phát huy những tác động tích cực, ngăn chặn, khắc phục những tác động tiêu cực của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với môi trường ở tỉnh Phú Thọ, bảo đảm giữ gìn một môi trường trong sạch, lành mạnh phục vụ cho con người, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế bền vững.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường.
- Làm rõ những tác động tích cực và tiêu cực từ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường tự nhiên và xã hội ở tỉnh Phú Thọ.
- Đưa ra một số những giải pháp cơ bản, nhằm bảo vệ, cải thiện môi trường của tỉnh Phú Thọ dưới tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng tác động tích cực và tiêu cực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường tự nhiên và xã hội ở tỉnh Phú Thọ.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Đề tài hướng về việc nghiên cứu tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường (Bao gồm những tác động đến cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội ở tỉnh Phú Thọ. Trong đó chủ yếu là các tác động đến môi trường tự nhiên).
Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề trong những năm từ 2000 đến 2008, đây chính là giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh được đẩy mạnh trên mọi lĩnh vực, tác động lớn đến môi trường của tỉnh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận:
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận kinh tế chính trị Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về vấn đề bảo vệ môi trường trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế chính trị Mác- Lênin, đồng thời sử dụng các phương pháp khác như phương pháp lý luận kết hợp với thực tiễn, phương pháp điều tra, khảo sát, so sánh, phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, thống kê... để đạt mục đích nghiên cứu.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Hệ thống hoá, phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về những tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường tự nhiên và xã hội.
- Đánh giá, phân tích thực trạng những tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường ở tỉnh Phú Thọ từ năm 2000 đến năm 2008.
- Đưa ra những quan điểm định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm bảo vệ, cải thiện môi trường ở tỉnh Phú thọ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong hoạch định chính sách kinh tế xã hội của tỉnh Phú Thọ, trong lĩnh vực quản lý môi trường.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 9 tiết:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường.
Chương 2: Thực trạng tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2008.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp cơ bản, nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường ở tỉnh Phú Thọ.
Chương 1
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường
1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tác động của nó đến môi trường
1.1.1. Khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Công nghiệp hoá, hiện đại (CNH, HĐH) hoá đã trở thành phương thức hữu hiệu cho quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Bất kể nước nào, để phát triển kinh tế - xã hội thì đều cần thiết thực hiện CNH, HĐH. Tuy nhiên, ở những nước khác nhau, trong những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, CNH, HĐH cũng có những đặc điểm riêng biệt.
Nếu tách riêng, thì công nghiệp hoá, theo nghĩa khái quát nhất, là quá trình biến đổi xã hội từ một xã hội nông nghiệp (hay tiền công nghiệp), lạc hậu lên xã hội công nghiệp. Quá trình biến đổi đó gắn liền với quá trình đổi mới kỹ thuật, công nghệ, chủ yếu là gắn với cuộc cách mạng kỹ thuật. Hay nói một cách khác, công nghiệp hoá là quá trình biến lao động thủ công thành lao động máy móc. Đó là quá trình trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho nền kinh tế quốc dân.
Hiện đại hoá là quá trình thường xuyên đưa trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất lên trình độ tiên tiến của thời đại. Công nghệ mới chính là nguồn gốc, là điều kiện tồn tại, đồng thời là yếu tố then chốt thúc đẩy hiện đại hoá. Với những công nghệ mới, con người sẽ nâng cao được năng lực của mình, phát triển những ý tưởng mới, thúc đẩy xã hội phát triển.
Đánh giá chung nhất, CNH, HĐH thực chất là sự thay thế kỹ thuật thủ công, lạc hậu thành kỹ thuật máy móc hiện đại, trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, nhằm đạt tới năng suất lao động cao. Đó còn là quá trình thay đổi căn bản, toàn diện cách thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, hoạt động quản lý trong nền kinh tế, dựa trên sự ứng dụng cao về công nghệ hiện đại. Trên cơ sở đó, sẽ tạo điều kiện để thay thế nền văn minh nông nghiệp bằng văn minh công nghiệp, xây dựng một xã hội công nghiệp hiện đại, tạo nền tảng cho phát triển nhanh và bền vững. Như vậy, thực hiện CNH, HĐH sẽ tạo điều kiện để nâng cao năng suất lao động xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân… Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế - xã hội của CNH, HĐH mang lại đạt đến mức độ nào, còn phụ thuộc vào tính ưu việt trong mục tiêu và cách thức tiến hành CNH, HĐH của mỗi nước. Nhưng, dù đạt được đến đâu đi nữa thì tính ưu việt của CNH, HĐH cũng đã được khẳng định. Một nền kinh tế tiến hành CNH, HĐH sẽ có bước phát triển hơn nhiều so với nền kinh tế chưa thực hiện CNH, HĐH.
Trên thế giới, CNH, HĐH là hai quá trình vừa nối tiếp, vừa đan xen nhau. Những nước đi sau không nhất thiết chỉ thực hiện những bước đi tuần tự, mà có thể áp dụng chiến lược phát triển “rút ngắn”, tranh thủ cơ hội đi tắt đón đầu, để đón những công nghệ tiên tiến nhất của thế giới. Thực chất của CNH, HĐH rút ngắn trong giai đoạn hiện nay là tận dụng tri thức của nhân loại, lấy công nghệ cao làm cốt lõi, trên cơ sở nguồn nhân lực thích hợp, để phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên không phải nước nào cũng thành công trong chiến lược này.
Trong quá trình thực hiện, căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể và đặc điểm kinh tế - xã hội của từng quốc gia, sự nghiệp CNH, HĐH của các nước sẽ được tiến hành với những cách thức, bước đi khác nhau cho phù hợp. ở những nước phát triển, hiện đại hoá là quá trình chuyển dịch từ xã hội dựa trên kinh tế công nghiệp, sang xã hội tri thức. Nhưng đối với các nước đang phát triển, hiện đại hoá ở mức độ thấp hơn, là đồng thời vừa công nghiệp hoá, vừa tiếp cận với công nghệ hiện đại, đẩy nhanh quá trình phát triển, để đuổi kịp các nước phát triển.
Trong điều kiện bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại và xu thế phát triển nhanh chóng của quá trình toàn cầu hoá, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những nhận thức của nhân loại về CNH, HĐH, xuất phát từ tình hình thực tế của nền kinh tế, Đảng ta đã đưa ra quan niệm về CNH, HĐH:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động, cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [16].
Trên cơ sở kinh nghiệm của thế giới, vận dụng vào thực tiễn của Việt Nam, Đảng ta đã xác định CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ Đại hội Đảng lần thứ III, khi đất nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, Đảng ta đã khẳng định, cần chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Mục tiêu của CNH, HĐH ở nước ta hiện nay là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, với quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, có đời sống vật chất, tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Trước những biến đổi của nền kinh tế toàn cầu và điều kiện cụ thể của đất nước, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ta đã xác định: “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với kinh tế tri thức, chúng ta tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta, để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức"[18, tr.87]. CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức ở nước ta, thực chất đó là công nghiệp hoá rút ngắn, có mục đích là kết hợp nguồn vốn tri thức tiên tiến của nhân loại, với nguồn vốn tri thức của dân tộc. Trên cơ sở đó, một mặt sử dụng tri thức để đổi mới, nâng cao hiệu quả các ngành truyền thống, mặt khác tập trung phát triển mạnh các ngành, sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao, dựa nhiều vào tri thức, tạo ra những bước đột phá mới, những bước tăng trưởng cao. Như vậy CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức, đó là bước đi đúng, phù hợp với thực tiễn nước ta và phù hợp với thế giới trong giai đoạn hiện nay.
Quá trình CNH, HĐH đã có tác động, ảnh hưởng lớn đến những nhân tố quyết định sự phát triển bền vững của các quốc gia và các vùng, miền trong lãnh thổ. Một trong những yếu tố chịu sự tác động lớn, đó là môi trường. Môi trường được coi là khách thể chịu sự tác động trực tiếp và gián tiếp từ quá trình công nghiệp hoá. Đồng thời môi trường cũng được coi là nhân tố quan trọng, tác động đến quá trình CNH, HĐH. Nếu biết cách xử lý mối quan hệ này, thì sẽ phát huy được tác động tích cực, và khắc phục những tác động tiêu cực của CNH, HĐH đến môi trường. Trong việc bảo vệ và cải thiện môi trường, nếu không có cách xử lý hiệu quả thì hậu quả môi trường gánh chịu là rất lớn.
1.1.2. Môi trường và tác động hai mặt của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường
1.1.2.1. Khái niệm, chức năng của môi trường
* Khái niệm môi trường:
Để định nghĩa về môi trường, người ta đưa ra nhiều khái niệm khác nhau. Bách khoa toàn thư về môi trường (1994) đưa ra định nghĩa về môi trường:
"Môi trường là tổng thể các thành tố sinh thái tự nhiên, xã hội- nhân văn và các điều kiện tác động trực tiếp hay gián tiếp lên phát triển, lên đời sống và hoạt động của con người trong thời gian bất kỳ” [56, tr.7].
Liên minh châu Âu định nghĩa "môi trường (environment) là sự kết hợp các yếu tố có mối quan hệ phụ thuộc phức tạp, tạo nên những khuôn khổ, những môi trường xung quanh (surroundings) và những điều kiện sống cho các cá nhân và xã hội, tồn tại trong thực tế hay trong ý nghĩ” [55, tr.212].
Như vậy, môi trường theo cách hiểu ở đây là tất cả những gì ảnh hưởng đến con người, xung quanh con người, tạo nên những điều kiện sống cho con người. Đó là các yếu tố tự nhiên, các yếu tố xã hội, các yếu tố do con người tạo ra, hình thành nên môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường nhân tạo...
Một khái niệm khác về môi trường - Theo tác giả Lê Văn Khoa, (1995): Môi trường theo nghĩa rộng nhất là tổng hợp các điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới một vật thể hoặc một sự kiện. Bất cứ một vật thể, hay một sự kiện nào cũng tồn tại và diễn biến trong một môi trường. Đối với cơ thể sống, thì môi trường sống là tổng hợp những điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới đời sống và sự phát triển của cơ thể [54, tr.5].
Như vậy, khái niệm môi trường rất rộng, phức tạp và thực tế đã có nhiều quan niệm khác nhau về môi trường. Tuy nhiên ở những khái niệm trên đều đi đến sự thống nhất: môi trường không chỉ là những yếu tố tự nhiên tác động trực tiếp đến con người, mà còn là những yếu tố xã hội, ở bên ngoài luôn ảnh hưởng dần dần đến cuộc sống con người, góp phần hình thành nên ý thức, nhân cách con người. Đó thực chất chỉ tất cả những gì xung quanh con người, ảnh hưởng đến sự sinh tồn và phát triển của con người, cho con người cơ sở sống và phát triển.
Gần đây, theo Luật Bảo vệ Môi trường Việt Nam năm 2006 đã đưa ra định nghĩa sau về môi trường: "Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật”.
"Thành phần môi trường là các yếu tố vật chất tạo thành môi trường như: Đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình thái vật chất khác” [8, tr.7-8].
Nếu quan niệm như vậy, thì các yếu tố xã hội có ảnh hưởng đến cuộc sống con người chưa được coi là yếu tố môi trường. Đồng thời, môi trường ở đây chỉ được hiểu là môi trường tự nhiên, chứ chưa thấy có môi trường xã hội. Theo cách hiểu như vậy chưa đầy đủ. Bởi, trên thực tế, trong những yếu tố ảnh hưởng đến con người, không chỉ có những yếu tố của môi trường tự nhiên, mà còn có các yếu tố xã hội, ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đến cuộc sống con người, góp phần hình thành ý thức, nhân cách con người. Nếu thiếu đi việc nghiên cứu về môi trường xã hội với những tác động, ảnh hưởng của nó đến con người, thì nhận thức về môi trường sẽ bị lệch lạc, không đầy đủ, toàn diện, dẫn đến việc tìm ra những giải pháp là không đồng bộ.
Theo luận văn, để nhận thức đầy đủ về môi trường, cần hiểu môi trường như sau: "Môi trường sống của con người là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất nước, ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xã hội…" [5, tr.6].
Theo góc độ nghiên cứu này, môi trường có thể được chia thành các loại như sau:
* Các loại môi trường:
Có nhiều cách để phân loại môi trường. Nếu phân theo chức năng thì môi trường sống của con người thường được phân thành các loại sau:
+ Môi trường tự nhiên: Bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học, sinh học tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng chịu sự tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, động, thực vật, đất nước…
Môi trường tự nhiên có tác động đối với con người. Môi trường cho ta không khí để thở, đất để xây nhà cửa, trồng cấy, nước để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng sinh hoạt ăn uống, sản xuất... của con người, cung cấp các loại tài nguyên, khoáng sản cho sản xuất và tiêu thụ. Nó còn là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải cho con người.
+ Môi trường xã hội: Là tổng thể các quan hệ giữa con người với con người. Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định…ở các cấp khác nhau.
Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định. Từ đó tạo nên sức mạnh tập thể, thuận lợi cho sự phát triển. Do vậy, nó làm cho cuộc sống con người khác với các sinh vật khác.
Ngoài hai loại môi trường chủ yếu trên, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo.
+ Môi trường nhân tạo: Bao gồm tất cả các nhân tố do con người tạo nên. Trên cơ sở đó làm thành những tiện nghi trong cuộc sống. Thí dụ như ô tô, máy bay, nhà ở, các khu đô thị…[5, tr.8]. Môi trường này thực chất là sự kết hợp của hai loại môi trường trên. Chính vì vậy, khi nghiên cứu ta chủ yếu nghiên cứu hai loại môi trường tự nhiên và xã hội.
Ta có thể phân tích một cách cụ thể về định nghĩa môi trường như sau:
+ Các thành tố sinh thái tự nhiên bao gồm: Đất, nước, không khí, động thực vật, hệ sinh thái…
+ Các thành tố xã hội bao gồm: Luật, chính sách, hương ước, quy ước; phong tục, tập quán, văn hoá, lối sống; dân số, chất lượng sống, sự phân hoá giàu nghèo…
* Chức năng của môi trường:
+ Môi trường là không gian sống của con người và các loài sinh vật.
Để tồn tại và hoạt động, con người cần một không gian nhất định, như nhà để ở, nước dùng cho sinh hoạt và sản xuất, những quy ước, thiết chế... ảnh hưởng chi phối cuộc sống con người, bắt con người phải tuân thủ. Chức năng này đòi hỏi môi trường cần phải tạo một không gian thích hợp đảm bảo những yêu cầu nhất định về quy mô và chất lượng, cho sự tồn tại và phát triển của con người. Thí dụ, cần phải đảm bảo diện tích không gian sống hợp lý cho mỗi người; Không gian này lại phải đảm bảo những tiêu chuẩn nhất định về vật lý, hoá học, sinh học, cảnh quan, các mối quan hệ xã hội nhất định.
+ Môi trường là nơi chứa đựng các nguồn tài nguyên, làm thành các nguồn lực cần thiết cho quá trình sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người.
Để sản xuất ra của cải vật chất, con người phải lấy từ trong tự nhiên những nguồn tài nguyên thiên nhiên cần thiết. Đó là những nguồn vật liệu, năng lượng, thông tin cần cho hoạt động sinh sống, sản xuất và quản lý của con người. Chức năng này còn gọi là nhóm chức năng sản xuất tự nhiên.Ví dụ như rừng tự nhiên có chức năng cung cấp nước, gỗ dược liệu, không khí, năng lượng mặt trời, nhiệt độ giúp cho ta hít thở; động thực vật cung cấp lương thực, thực phẩm; các loại quặng, dầu mỏ cung cấp năng lượng, nguyên liệu cho các hoạt động sản xuất…Tuy nhiên, cùng với tốc độ phát triển của kinh tế - xã hội, nhu cầu của con người đối với các nguồn tài nguyên ngày càng lớn cả về chất lượng và số lượng. Mức độ, cách thức việc sử dụng nguồn tài nguyên đó, đều ảnh hưởng đến chất lượng môi trường.
+ Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra.
Trong sản xuất và đời sống, con người luôn đào thải các chất thải vào môi trường. Đồng thời với quá trình đó, môi trường không ngừng phân huỷ, trung hoà các chất thải, dưới tác động của các vi sinh vật và các yếu tố khác, thông qua việc tham gia vào hàng loạt các quá trình sinh địa hoá phức tạp. Khi lượng chất thải lớn hơn khả năng hấp thụ của môi trường, thì chất lượng môi trường sẽ giảm, môi trường sẽ có thể bị ô nhiễm. Do vậy, quá trình này chỉ được duy trì một cách bình thường, khi lượng chất thải không vượt quá mức cho phép khả năng hấp thụ của môi trường.
Sự phát triển của kinh tế - xã hội, nhất là sự tác động của quá trình CNH, HĐH khiến cho lượng chất thải tăng lên không ngừng, trong khi đó khả năng xử lý ô nhiễm của con người còn hạn chế, dẫn đến tình trạng quá tải ở nơi tiếp nhận nguồn thải, gây ô nhiễm môi trường.
+ Chức năng lưu trữ và cung cấp thôn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van.doc
- bia.doc