Thuế do Nhà nước tổ chức và thực hiện. Đó là sự chuyển dịch một chiều thu nhập từ phía doanh nghiệp và dân cư (khu vực tư) vào khu vực công. Phía sau quá trình chuyển dịch này gồm nhiều vấn đề đặt ra như: tương quan giữa số thuế thu được trong hiện tại và tương lai; ảnh hưởng của thuế đến hành vi kinh doanh, đến động thái tiêu dùng xã hội; thuế và tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội.
Do đó, thuế là một lĩnh vực phức tạp, bởi lẽ không chỉ thể hiện ra những vấn đề kinh tế mà còn chứa đựng nhiều vấn đề xã hội sâu sắc. Thuế không những đòi hỏi tính khoa học về mặt lý luận, sự chính xác trong luật định mà còn cần đến nghệ thuật tinh tế trong hành thu.
"Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN", hàng năm số thu về thuế chiếm khoảng 80% đến 90% tổng thu NSNN. Điều đó đòi hỏi Nhà nước cần tu chỉnh các Luật thuế, các văn bản pháp lý khác về thuế nhằm hoàn thiện hệ thống thuế, đưa thuế ngày càng tiếp cận thực tiễn. Để phản ánh và theo kịp bước chuyển của nền kinh tế thì quản lý thu thuế cần phải thay đổi và phải được hoàn thiện hơn để đáp ứng tình hình phát triển kinh tế của đất nước cũng như các cam kết quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Qua đó khai thác tối đa những uy lực vốn có của thuế để kích thích sự phát triển kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất kinh doanh của mọi đơn vị thuộc các thành phần kinh tế và đảm bảo thực hiện đúng nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.
Đối với khu vực KTNQD, hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng mở rộng, đều khắp các địa bàn trong từng địa phương và cả nước. Song chế độ sổ sách kế toán, chứng từ hóa đơn còn thực hiện tùy tiện, chưa đúng chế độ, hiện tượng khai man trốn thuế, lậu thuế còn nhiều từ đó tạo ra sự bất bình đẳng và sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. Vì vậy, quản lý thu thuế đối với khu vực KTNQD phải tiếp tục cải tiến và hoàn thiện nhằm thực hiện được mục tiêu, yêu cầu của hệ thống thuế đặt ra.
Quảng Ngãi là một tỉnh duyên hải miền Trung, số thu về thuế không nhiều, chưa đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu của địa phương, nhưng trong đó kinh tế ngoài quốc doanh (KTNQD) đã đóng góp một phần không nhỏ vào số thu hàng năm của ngân sách địa phương. Nhiều năm qua ngành thuế tỉnh Quảng Ngãi nói chung, thuế ngoài quốc doanh (NQD) nói riêng đã hoàn thành kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước giao. Nhưng với tính chất đa dạng và phức tạp của khu vực kinh tế này, công tác quản lý thu thuế ở tỉnh Quảng Ngãi cần được khắc phục những mặt hạn chế và tồn tại, đảm bảo nuôi dưỡng nguồn thu, thu đúng, thu đủ theo quy định của pháp luật.
Việc chọn đề tài " Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trờn địa bàn tỉnh Quảng Ngói - Thực trạng và giải phỏp " có ý nghĩa thiết thực và bức xúc cả về mặt lý luận và thực tiễn.
128 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1006 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế do Nhà nước tổ chức và thực hiện. Đó là sự chuyển dịch một chiều thu nhập từ phía doanh nghiệp và dân cư (khu vực tư) vào khu vực công. Phía sau quá trình chuyển dịch này gồm nhiều vấn đề đặt ra như: tương quan giữa số thuế thu được trong hiện tại và tương lai; ảnh hưởng của thuế đến hành vi kinh doanh, đến động thái tiêu dùng xã hội; thuế và tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội...
Do đó, thuế là một lĩnh vực phức tạp, bởi lẽ không chỉ thể hiện ra những vấn đề kinh tế mà còn chứa đựng nhiều vấn đề xã hội sâu sắc. Thuế không những đòi hỏi tính khoa học về mặt lý luận, sự chính xác trong luật định mà còn cần đến nghệ thuật tinh tế trong hành thu.
"Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN", hàng năm số thu về thuế chiếm khoảng 80% đến 90% tổng thu NSNN. Điều đó đòi hỏi Nhà nước cần tu chỉnh các Luật thuế, các văn bản pháp lý khác về thuế nhằm hoàn thiện hệ thống thuế, đưa thuế ngày càng tiếp cận thực tiễn. Để phản ánh và theo kịp bước chuyển của nền kinh tế thì quản lý thu thuế cần phải thay đổi và phải được hoàn thiện hơn để đáp ứng tình hình phát triển kinh tế của đất nước cũng như các cam kết quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Qua đó khai thác tối đa những uy lực vốn có của thuế để kích thích sự phát triển kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất kinh doanh của mọi đơn vị thuộc các thành phần kinh tế và đảm bảo thực hiện đúng nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.
Đối với khu vực KTNQD, hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng mở rộng, đều khắp các địa bàn trong từng địa phương và cả nước. Song chế độ sổ sách kế toán, chứng từ hóa đơn còn thực hiện tùy tiện, chưa đúng chế độ, hiện tượng khai man trốn thuế, lậu thuế còn nhiều từ đó tạo ra sự bất bình đẳng và sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. Vì vậy, quản lý thu thuế đối với khu vực KTNQD phải tiếp tục cải tiến và hoàn thiện nhằm thực hiện được mục tiêu, yêu cầu của hệ thống thuế đặt ra.
Quảng Ngãi là một tỉnh duyên hải miền Trung, số thu về thuế không nhiều, chưa đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu của địa phương, nhưng trong đó kinh tế ngoài quốc doanh (KTNQD) đã đóng góp một phần không nhỏ vào số thu hàng năm của ngân sách địa phương. Nhiều năm qua ngành thuế tỉnh Quảng Ngãi nói chung, thuế ngoài quốc doanh (NQD) nói riêng đã hoàn thành kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước giao. Nhưng với tính chất đa dạng và phức tạp của khu vực kinh tế này, công tác quản lý thu thuế ở tỉnh Quảng Ngãi cần được khắc phục những mặt hạn chế và tồn tại, đảm bảo nuôi dưỡng nguồn thu, thu đúng, thu đủ theo quy định của pháp luật.
Việc chọn đề tài " Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trờn địa bàn tỉnh Quảng Ngói - Thực trạng và giải phỏp " có ý nghĩa thiết thực và bức xúc cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có một số đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề về thuế - công tác quản lý thu thuế. Mỗi đề tài nghiên cứu đều có mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu, cách tiếp cận và mục tiêu cụ thể khác nhau.
Tuy nhiên, chưa có một tác giả nào nghiên cứu bàn về quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Vì vậy, luận văn nghiên cứu là cần thiết, qua đó chỉ những nguyên nhân còn hạn chế trong quản lý thu thuế NQD, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp khả thi ở địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, nhằm thực hiện được mục tiêu của hệ thống thuế tại địa phương.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích: làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và những giải pháp thiết thực nhằm tăng cường, hoàn thiện quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
- Nhiệm vụ của luận văn:
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận của quản lý thu thuế đối với khu vực KTNQD.
+ Phân tích đánh giá thực trạng quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
+ Đề xuất quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục hoàn thiện và tăng cường quản lý thu thuế NQD tại tỉnh Quảng Ngãi.
- Phạm vi nghiên cứu:
Quản lý thu thuế đối với khu vực KTNQD rất rộng, đa dạng và phức tạp. Vì vậy, phạm vi của đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về quản lý thu thuế khu vực NQD trong các hoạt động sản xuất kinh doanh - dịch vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi gồm: Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Doanh nghiệp tư nhân, Hộ kinh doanh công thương nghiệp và dịch vụ từ năm 1999 - 2001.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh để rút ra những kết luận cần thiết.
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài
Từ những đánh giá về thực trạng, những ưu điểm, khuyết điểm và nguyên nhân của những tồn tại của công tác quản lý thu thuế đối với khu vực KTNQD ở tỉnh Quảng Ngãi, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường và hoàn thiện công tác quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho lãnh đạo và các cán bộ nghiệp vụ ở cơ quan thuế trong quá trình lập dự toán, phân tích, đánh giá kế hoạch thu, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế ở đơn vị. Đảm bảo sự tinh tế trong hành thu; hạn chế đến mức thấp nhất hiện tượng thất thu thuế; thực hiện công bằng trong điều tiết thuế ở các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
Một Số Vấn Đề CƠ Bản Về Thuế Và Quản Lý THU Thuế ngoài quốc doanh
1.1. Thuế và vai trò của thuế trong nền kinh tế nước ta hiện nay
1.1.1. Khái niệm - bản chất, đặc điểm của thuế
- Khái niệm - bản chất:
Thuế là một phạm trù kinh tế tài chính mang tính khách quan, đồng thời cũng là một phạm trù lịch sử, nó ra đời, tồn tại, phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của một nhà nước. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, Nhà nước xuất hiện khi xã hội có sự phân chia thành giai cấp, để duy trì bộ máy hoạt động của mình như: an ninh, quốc phòng; chi hoạt động của bộ máy nhà nước; chi sự nghiệp giáo dục, y tế;....; đòi hỏi Nhà nước phải có nguồn tài chính để chi. Nguồn tài chính này có được là do sự đóng góp của mọi thành viên trong xã hội và sự đóng góp này mang tính bắt buộc. Theo Ph.Ăngghen: "Để duy trì quyền lực công cộng cần phải có sự đóng góp của những người công dân cho Nhà nước đó là thuế má" [24, tr. 522]. Trong thời kỳ Cộng sản nguyên thủy, khi điều kiện lao động của con người còn thô sơ, con người lao động đủ để duy trì sự sống của mình, chưa có Nhà nước lúc đó xã hội chưa biết thuế là gì. Với tiến trình phát triển của xã hội loài người, Nhà nước xuất hiện, thuế cũng từ đó ra đời, tồn tại và phát triển.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy, một khi Nhà nước chỉ làm nhiệm vụ quản lý hành chính đơn thuần thì nhu cầu chi tiêu của Nhà nước ở chừng mực nhất định, xã hội ngày càng phát triển hơn nên Nhà nước có thêm nhiệm vụ điều hành, quản lý nền kinh tế thì chi tiêu của Nhà nước ngày càng nhiều hơn. Đến khi Nhà nước đảm nhận thêm công việc chăm lo đời sống, văn hóa, xã hội của cộng đồng thì thuế lại được động viên càng lớn với nhiều sắc thuế và ở tất cả mọi hoạt động trong nền kinh tế.
Như vậy, khi vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước ngày càng được mở rộng, đòi hỏi nguồn tài chính phục vụ cho việc chi tiêu ngày càng tăng lên. Điều đó, không thể thiếu sự đóng góp của người dân và các tổ chức kinh tế, đó là thuế.
Theo phân tích trên, thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước và thuế ra đời khi hoạt động lao động sản xuất của xã hội loài người tạo ra sản phẩm thặng dư. Với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, sự chuyển dịch giá trị sản phẩm thặng dư từ thành phần kinh tế này sang thành phần kinh tế khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác rất đa dạng và phức tạp. Cho nên, đứng trên giác độ toàn xã hội, đòi hỏi phải có hệ thống thuế để điều tiết thỏa đáng số sản phẩm thặng dư xã hội tạo ra sao cho hợp lý và công bằng. Vì vậy, khi xã hội càng văn minh thì thuế khóa lại càng đa dạng và phát triển.
Tóm lại, qua quá trình phát triển của Nhà nước và thuế cho chúng ta thấy, thuế và Nhà nước là hai phạm trù gắn bó hữu cơ với nhau. Nhà nước tồn tại tất yếu phải có thuế. Thuế là cơ sở vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của Nhà nước.
Trên các sách báo kinh tế thế giới, cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất tuyệt đối khái niệm về thuế. Nhìn chung các quan điểm của các nhà kinh tế đưa ra mới nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế, do đó chưa phản ánh đầy đủ bản chất chung nhất của phạm trù này. Chẳng hạn, theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm rất đơn giản: "Thuế khóa là cái vú sữa của chính phủ" [23, tr. 317].
Sau này khái niệm về thuế được bổ sung và hoàn thiện hơn. Trong cuốn Từ điển kinh tế của hai tác giả người Anh Chrisopher Pass và Bryan Lowes cho rằng: "Thuế là một biện pháp của chính phủ đánh trên thu nhập của cải và vốn nhận được của các cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trực thu), trên việc chi tiêu hàng hóa và dịch vụ (thuế gián thu) và trên tài sản".
Một định nghĩa về thuế tương đối hoàn chỉnh được nêu lên trong cuốn "Economics" của hai nhà kinh tế Mỹ như sau:
Thuế là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc chuyển giao bằng hàng hóa, dịch vụ) của các công ty và các hộ gia đình cho chính phủ, mà trong sự trao đổi đó họ không nhận được một cách trực tiếp hàng hóa hoặc dịch vụ nào cả, khoản nộp đó không phải là tiền phạt mà tòa án tuyên phạt do hành vi vi phạm pháp luật [31, tr. 10].
ở nước ta đến nay cũng chưa có một định nghĩa thống nhất về thuế. Theo một số nhà nghiên cứu: thuế là hình thức động viên, phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo pháp luật của Nhà nước quy định, nhằm đáp ứng những khoản chi tiêu cần thiết của Nhà nước. Đó là khoản thu của Nhà nước đối với các tổ chức (chủ yếu là tổ chức kinh tế) và mọi thành viên trong xã hội; khoản thu này mang tính bắt buộc không hoàn trả trực tiếp [25, tr. 1].
Gần đây, trong một số công trình nghiên cứu về thuế, các nhà kinh tế cho rằng, để vạch rõ bản chất của thuế thì trong định nghĩa phải nêu bật các khía cạnh sau đây: nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ giữa Nhà nước với các pháp nhân và thể nhân; những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh nhà nước; xét theo khía cạnh luật pháp thuế là khoản nộp cho Nhà nước được pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định.
Kết hợp những hạt nhân hợp lý của những quan niệm về thuế kể trên, có thể nêu lên khái niệm tổng quát về thuế như sau: Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định, nhằm sử dụng cho mục đích công cộng [30, tr. 11].
- Đặc điểm:
Bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong vốn có của thuế. Những thuộc tính đó có tính ổn định qua từng giai đoạn phát triển. Nghiên cứu về thuế người ta thấy nó có những đặc điểm riêng để phân biệt với các công cụ tài chính khác.
+ Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập của các tầng lớp trong xã hội cho Nhà nước mang tính bắt buộc phi hình sự:
Tính bắt buộc phi hình sự là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế, nó phân biệt thuế với các hình thức huy động tài chính khác của NSNN. Đặc điểm này vạch rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hệ tiền tệ, được hình thành một cách khách quan và có một ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc động viên mang tính chất bắt buộc của Nhà nước. Phân phối mang tính chất bắt buộc dưới hình thức thuế - như một nhà kinh tế định nghĩa: là một phương thức phân phối của Nhà nước mà kết quả của quá trình đó là một bộ phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao cho Nhà nước mà không kèm theo một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác trực tiếp cho người nộp thuế.
Tính chất cưỡng chế bắt buộc của việc chuyển giao thu nhập bắt nguồn từ những lý do sau:
Thứ nhất, hình thức chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không gắn với lợi ích cụ thể của người nộp thuế, do đó không thể sử dụng phương pháp tự nguyện trong việc chuyển giao. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công cộng, Nhà nước tất yếu phải sử dụng quyền lực chính trị để bắt buộc mọi đối tượng có thu nhập phải chuyển giao.
Thứ hai, trong xã hội văn minh nhu cầu của các thành viên cộng đồng về hàng hóa công cộng ngày càng tăng cao. Để duy trì hoạt động đó thì thu nhập về hàng hóa công cộng từ những người thụ hưởng phải bù đắp đủ các chi phí bỏ ra. Nhưng hàng hóa công cộng lại có tính chất đặc biệt, nó không thể phân bổ theo "khẩu phần" để sử dụng và người thụ hưởng cũng không muốn sử dụng theo "khẩu phần". Mặt khác, hàng hóa công cộng không có tính cạnh tranh và không thể đem trao đổi trực tiếp trên thị trường để bù đắp các chi phí. Chính vì vậy trong việc cung cấp hàng hóa công cộng đã xuất hiện những "người ăn không", nghĩa là không ai tự nguyện trả tiền cho việc thụ hưởng hàng hóa công cộng. Do đó, để đảm bảo cung cấp hàng hóa công cộng, Nhà nước chỉ có thể sử dụng phương pháp thuế để buộc "người ăn không" phải chuyển giao thu nhập từ khu vực tư sang khu vực công.
Tuy nhiên, tính bắt buộc của thuế không có nội dung hình sự, nghĩa là hành động đóng thuế cho Nhà nước không phải là hành động xuất hiện khi có biểu hiện phạm pháp, mà hành động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa vụ của người công dân.
Từ đặc điểm này, thuế không giống như các hình thức huy động tài chính khác của NSNN như: lệ phí, công trái hoặc hình thức phạt bằng tiền. Hình thức phạt bằng tiền cũng là hình thức bắt buộc, song việc phạt tiền chỉ xảy ra đối với người nộp phạt khi có hành vi vi phạm luật lệ làm phương hại đến lợi ích nhà nước hoặc cộng đồng. Hình thức phí, lệ phí, công trái nói chung mang tính tự nguyện và có tính chất đối giá. Tính bắt buộc của phí và lệ phí chỉ xảy ra khi người trả phí, lệ phí thụ hưởng trực tiếp những dịch vụ do Nhà nước cung cấp.
+ Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp:
Tính không hoàn trả trực tiếp của thuế được biểu hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính chất đối giá, nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp xã hội chuyển giao cho Nhà nước không hoàn toàn dựa trên mức độ người nộp thuế thụ hưởng những dịch vụ và hàng hóa công cộng do Nhà nước cung cấp. Người nộp thuế cũng không có quyền đòi hỏi Nhà nước phải cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng trực tiếp cho mình mới phát sinh khoản chuyển giao thu nhập cho Nhà nước; mặt khác mức độ cung cấp dịch vụ công cộng của Nhà nước cũng không nhất thiết ngang bằng mức độ chuyển giao. Mức chuyển giao thu nhập nhiều hay ít chỉ căn cứ vào kết quả hoạt động kinh tế và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cũng như nhu cầu tài chính chung của Nhà nước.
Thứ hai, khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không được hoàn trả trực tiếp có nghĩa là người nộp thuế suy cho cùng sẽ nhận được một phần các dịch vụ công cộng mà Nhà nước cung cấp chung cho cả cộng đồng, giá trị phần dịch vụ đó không nhất thiết tương đồng với khoản tiền thuế mà họ nộp cho Nhà nước. Đặc điểm này giúp ta phân biệt sự khác nhau giữa thuế và các khoản phí, lệ phí.
+ Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế được quy định trước bằng luật pháp:
Đặc điểm này một mặt thể hiện tính pháp lý cao của thuế, mặt khác phản ánh sự chuyển giao thu nhập không mang tính chất tùy tiện mà dựa trên những cơ sở pháp luật nhất định và đã được xác định trước trong Luật thuế; Pháp lệnh thuế. Những tiêu thức thường được xác định trước trong các Luật thuế, Pháp lệnh thuế là: đối tượng chịu thuế; đối tượng nộp thuế; mức thuế phải nộp; thời hạn cụ thể và những chế tài mang tính cưỡng chế khác.
+ Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội trong những thời kỳ nhất định:
Yếu tố kinh tế tác động đến thuế thường là mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, thu nhập bình quân đầu người, giá cả, thị trường, sự biến động của NSNN....
Yếu tố chính trị, xã hội tác động đến thuế thường là thể chế chính trị của Nhà nước, tâm lý, tập quán của các tầng lớp dân cư, truyền thống văn hóa, xã hội của dân tộc...
Do thuế chịu sự ràng buộc của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội nên người ta thường nói thuế mang ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội tổng hợp.
+ Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chỉ được giới hạn trong phạm vi biên giới quốc gia với quyền lực pháp lý của Nhà nước đối với con người và tài sản.
Tóm lại: những đặc điểm cơ bản trên đây của thuế đã phản ánh bản chất và nội dung bên trong của thuế. Từ những đặc điểm đó, giúp chúng ta phân biệt thuế với các hình thức động viên khác của NSNN trên nhiều phương diện khác nhau.
1.1.2. Vai trò của thuế
+ Thuế là công cụ chủ yếu huy động tập trung nguồn lực cho Nhà nước:
Bất kỳ một chế độ Nhà nước nào muốn tồn tại và phát triển đều phải tạo cho mình một nền tài chính quốc gia vững chắc và lành mạnh, mà trong đó nguồn tài chính chủ yếu được động viên từ thuế và phí ở nội bộ nền kinh tế quốc dân.
"Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN". ở nước ta từ khi có các Luật thuế ra đời nguồn thu từ thuế ngày càng tăng lên, ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng số thu ngân sách, năm 1990 đạt 86%; năm 1997 đạt 87%; năm 1998 đạt 88%, đến nay khoảng 90% [26, tr. 10]. Vai trò của thuế thực sự được nâng lên và thể hiện rõ trong quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước, thuế được áp dụng thống nhất đối với các thành phần kinh tế, không phân biệt kinh tế nhà nước và KTNQD, nó bao quát và điều tiết các hoạt động kinh doanh, mọi nguồn thu nhập, mọi tài nguyên thiên nhiên và mọi hoạt động tiêu dùng trong xã hội.
Chính sách động viên về thuế cần có tác dụng bồi dưỡng nguồn thu vững chắc, lâu dài cho NSNN. Cơ chế thuế suất không nên quá phức tạp, quá cao mà cần nghiên cứu và tính toán dựa trên những căn cứ khoa học và sự phát triển của nền kinh tế sẽ phù hợp hơn với khả năng đóng góp của đối tượng nộp thuế, đảm bảo nguồn thu ngân sách được ổn định thường xuyên. Thuế suất được điều chỉnh giảm có thể sẽ dẫn đến phát sinh lo lắng không đảm bảo nguồn thu cho ngân sách. Nhưng trên thực tế nếu hệ thống thuế hợp lý, thuế suất ở mức vừa phải thì sẽ tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân, đối tượng nộp thuế thấy mức thuế công bằng hợp lý sẽ tự nguyện khai báo nộp thuế tốt hơn. Diện thu thuế được mở rộng, diện miễn giảm thu hẹp, vừa được lòng dân vừa đảm bảo nhiệm vụ thu theo kế hoạch. Tỷ lệ động viên về thuế cần tính toán khoa học, đầy đủ mọi khoản đóng góp cho NSNN, bao gồm mọi khoản thuế, phí và lệ phí. Cần khắc phục tình trạng các ngành, các địa phương tùy tiện đặt ra các khoản thu trái với quy định của Nhà nước.
Thuế tạo nguồn thu cho NSNN, nhưng nguồn thu đó được hình thành trên cơ sở nền kinh tế tăng trưởng và đạt hiệu quả cao. Đây là vấn đề luôn được các quốc gia quan tâm đúng mức trong quá trình hoạch định chính sách và tổ chức quản lý thu thuế.
+ Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế:
Thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước dùng để quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hóa, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Một chính sách thuế đặt ra không chỉ đơn thuần tạo nguồn thu cho NSNN, mà quan trọng hơn là thực hiện chức năng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển sang nền kinh tế thị trường, cùng với sự kích thích sản xuất phát triển, cơ chế thị trường cũng là môi trường làm nảy sinh những khuyết tật vốn có của nó. Vì vậy, để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước phải sử dụng các công cụ kinh tế, trong đó đặc biệt là công cụ thuế nhằm tạo lập các cân đối vĩ mô, điều tiết thị trường, đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Sự điều tiết của Nhà nước thông qua thuế gồm hai mặt: khuyến khích và hạn chế. Điều đó được thể hiện ra trong việc xây dựng cơ cấu các loại thuế và mối quan hệ giữa chúng cũng như việc xác định thuế suất, chế độ miễn - giảm thuế phù hợp với điều kiện thực tế. Khuyến khích đối với những ngành nghề, hoạt động sản xuất kinh doanh cần thiết cho nền kinh tế quốc dân hoặc những ngành nghề những hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ cho đại đa số quần chúng nhân dân thì áp dụng thuế suất thấp. Hạn chế, thu hẹp những ngành nghề không có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế, cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân hoặc những ngành nghề ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, đến sức khỏe của nhân dân thì áp dụng thuế suất cao. Trong nền kinh tế thị trường, các thành phần kinh tế tự do lựa chọn ngành nghề sản xuất, kinh doanh, với mục tiêu đầu tư vào những ngành nghề nào mang lại lợi nhuận cao nhất mà không tính đến hậu quả để lại sau quá trình sản xuất kinh doanh. Nhà nước dùng công cụ thuế để điều chỉnh và hướng các hoạt động sản xuất kinh doanh đi vào con đường phát triển có hiệu quả mang lại nhiều lợi ích cho quốc kế dân sinh.
Trong điều kiện nay, hệ thống thuế của Nhà nước Việt Nam thể hiện rất rõ quan điểm khuyến khích các ngành nghề sản xuất hơn là các hoạt động thương mại, dịch vụ. Sản xuất các mặt hàng thiết yếu được khuyến khích hơn sản xuất các mặt hàng và dịch vụ khác. Để khuyến khích các ngành nghề sản xuất hàng xuất khẩu, sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu cần thiết khi trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu, hay đầu tư vào những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, vùng không thuận lợi cho sức khỏe, sinh hoạt của người dân,... Nhà nước thường áp dụng thuế ưu đãi để thúc đẩy kinh tế phát triển một cách có hiệu quả, đồng bộ theo hướng có lợi cho quốc kế dân sinh.
Hiện nay, Nhà nước ta sử dụng tổng hợp hệ thống chính sách thuế, nhằm: khuyến khích mạnh mẽ các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh lành mạnh trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật; góp phần thúc đẩy việc khai thác vật tư nguyên liệu trong nước, tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài để mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế hàng hóa đẩy mạnh xuất nhập khẩu đáp ứng yêu cầu tiêu dùng và tích lũy; bảo đảm lợi ích giữa Nhà nước và xã hội, lợi ích của các bên hợp tác, vừa đảm bảo sản xuất trong nước phát triển nâng cao đời sống của người dân.
+ Thuế góp phần điều hòa thu nhập thực hiện công bằng xã hội trong phân phối:
Với học thuyết "Bàn tay vô hình" của Adam Smith nền kinh tế thị trường không có sự điều chỉnh, can thiệp của Nhà nước, thị trường tự điều chỉnh nền kinh tế. Như vậy, thì sự phân phối thu nhập sẽ gây ra sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc. Một bộ phận dân chúng sẽ giàu lên nhanh chóng, đại đa số người nghèo càng khó khăn hơn, đời sống không được cải thiện. Tình trạng trên không chỉ liên quan đến vấn đề đạo đức, công bằng xã hội mà còn tạo nên tình trạng lũng đoạn, độc quyền và về lâu dài sẽ không thể đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng được.
Trong thực tế, sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đều có sự đóng góp của cộng đồng, của toàn xã hội. Chính vì vậy mà thành quả kinh tế đạt được trong hiện tại và tương lai phải được phân phối trên cơ sở của cộng đồng. Cho nên, cần có sự can thiệp của Nhà nước trong quá trình phân phối thu nhập, sự phân phối này chủ yếu nhờ vào công cụ thuế để điều tiết. Nền kinh tế của nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước, thì vai trò tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và người dân trong động viên điều tiết thuế và công bằng xã hội ngày càng được nâng cao hơn, bao quát hơn.
Sự thành công trong việc đổi mới chính sách thuế của Nhà nước ta trong những năm qua là: hệ thống thuế mới được áp dụng chung cho các ngành nghề, hoạt động sản xuất kinh doanh, không phân biệt thành phần kinh tế cũng như các tầng lớp nhân dân nhằm mục tiêu đảm bảo sự công bằng bình đẳng trong điều tiết. Sự bình đẳng, công bằng thể hiện thông qua các chính sách động viên như nhau giữa các thành phần kinh tế, chủ thể sản xuất kinh doanh và mọi tầng lớp dân cư. Thông qua một hệ thống các sắc thuế, Nhà nước điều chỉnh mức thu nhập giữa các cá nhân trong xã hội, người có thu nhập cao phải đóng thuế cao và ngược lại (thể hiện thông qua hoạt động tiêu dùng chịu sự điều tiết của các sắc thuế gián thu và thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao). Tổ chức và cá nhân kinh doanh có lợi nhuận cao phải đóng góp thuế cao hơn những tổ chức và cá nhân kinh doanh có lợi nhuận thấp (thể hiện ở sắc thuế TNDN).
1.2. Đặc điểm của quản lý thu thuế ngoài quốc doanh
1.2.1. Một số vấn đề chung về kinh tế ngoài quốc doanh
- Kinh tế thị trường và sự tồn tại tất yếu của khu vực KTNQD:
Trong điều kiện nước ta hiện nay, việc nghiên cứu KTNQD nói chung và thuế đối với KTNQD nói riêng không thể tách rời việc nghiên cứu những đặc điểm của môi trường mà KTNQD tồn tại và phát triển. Đó chính là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo địn