Lựa chọn con đường phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là vấn đề rất lớn, không chỉ đi tới mục tiêu xây dựng đất nước giàu mạnh, đời sống nhân dân được ấm no, phồn vinh, hạnh phúc, mà còn là sự tiếp tục bảo vệ, củng cố, giữ gìn độc lập dân tộc một cách vững chắc nhất. Các nước mới giành được độc lập nhận thức rằng, độc lập về chính trị chưa phải là độc lập hoàn toàn, nguy cơ trở lại kiếp sống nô lệ dưới nhiều hình thức có thể trở thành hiện thực. Các thế lực thực dân đế quốc không dễ dàng từ bỏ quyền lợi của họ ở các thuộc địa cũ, cũng chẳng hân hoan đón chào những người dân ở xứ "bảo hộ" ngày trước nay được tự do, hạnh phúc, được xếp ngang hàng với mình. Thời đại đã thay đổi, các nước thực dân, đế quốc không thể thống trị trắng trợn, trực tiếp như trước đây, mà họ đã sử dụng các cách thức mới với chiêu bài nhân quyền, viện trợ và đầu tư phát triển. Hơn nữa, sự gia tăng của toàn cầu hóa, khu vực hóa và chuyển nhanh sang nền kinh tế tri thức cũng đang đặt ra không ít thách thức đối với việc duy trì chủ quyền và bản sắc quốc gia dân tộc. Song song với tiến trình hội nhập, xây dựng một xã hội hài hòa, đoàn kết và khoan dung, thì xu hướng ly khai dân tộc, áp đặt "dân chủ", "chia để trị" trên thế giới cũng có chiều hướng gia tăng. Trong khi ở một số nước phát triển nhanh về kinh tế, ổn định xã hội, chủ quyền an ninh quốc gia được đảm bảo thì nhiều quốc gia khác trở nên tồi tệ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu con đường, cách thức đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc trong bối cảnh quốc tế mới hiện nay luôn là đề tài hấp dẫn.
Malaixia (trong công trình này, chúng tôi sử dụng nhiều loại thuật ngữ khác nhau liên quan đến người Malaixia và đất nước Malaixia; trước 1963, nước này gọi là Malaya hay Malaia; sau 1963, Liên bang Malaya được đổi thành Malaysia hay Malaixia; thuật ngữ Malayu hay Melayu là tên gọi tộc người Malai; người Malaixia là chỉ tất cả công dân sống trên lãnh thổ Malaixia, không phân biệt họ là tộc người nào. Chính vì vậy trong công trình sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau chỉ về đất nước, con người, các cộng đồng dân tộc của Malaixia qua từng thời kỳ lịch sử), từ một nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa nửa phong kiến, hết sức đa dạng về cấu trúc văn hóa - tộc người, lại bị chia cắt thành nhiều vùng lãnh thổ với trình độ phát triển khác nhau, từ sau khi được trao trả độc lập cho tới nay đã vươn lên trở thành một quốc gia tương đối phát triển với một nền kinh tế năng động, có sức cạnh tranh khá cao, một xã hội ổn định và ngày càng có uy tín cao trên trường quốc tế. Đây là một trong những trường hợp khá điển hình trong số các nước đang phát triển nói chung, ở Đông Nam Á nói riêng về sự kết hợp tương đối hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã xã hội và hài hòa dân tộc, giữa củng cố nền độc lập dân tộc với hội nhập khu vực và quốc tế. Vì vậy, nghiên cứu con đường phát triển hiện đại của Malaixia nói chung, củng cố nền độc lập và đoàn kết quốc gia - dân tộc nói riêng kể từ khi nước này giành được độc lập cho tới nay không chỉ là vấn đề học thuật, mà có ý nghĩa thực tiễn chính trị lớn, góp phần cung cấp thêm cứ liệu khoa học và bài học kinh nghiệm cho việc hoạch định và thực thi chính sách phát triển của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
109 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1181 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Quá trình đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc của Liên bang Malaixia từ 1957 đến 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lựa chọn con đường phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là vấn đề rất lớn, không chỉ đi tới mục tiêu xây dựng đất nước giàu mạnh, đời sống nhân dân được ấm no, phồn vinh, hạnh phúc, mà còn là sự tiếp tục bảo vệ, củng cố, giữ gìn độc lập dân tộc một cách vững chắc nhất. Các nước mới giành được độc lập nhận thức rằng, độc lập về chính trị chưa phải là độc lập hoàn toàn, nguy cơ trở lại kiếp sống nô lệ dưới nhiều hình thức có thể trở thành hiện thực. Các thế lực thực dân đế quốc không dễ dàng từ bỏ quyền lợi của họ ở các thuộc địa cũ, cũng chẳng hân hoan đón chào những người dân ở xứ "bảo hộ" ngày trước nay được tự do, hạnh phúc, được xếp ngang hàng với mình. Thời đại đã thay đổi, các nước thực dân, đế quốc không thể thống trị trắng trợn, trực tiếp như trước đây, mà họ đã sử dụng các cách thức mới với chiêu bài nhân quyền, viện trợ và đầu tư phát triển. Hơn nữa, sự gia tăng của toàn cầu hóa, khu vực hóa và chuyển nhanh sang nền kinh tế tri thức cũng đang đặt ra không ít thách thức đối với việc duy trì chủ quyền và bản sắc quốc gia dân tộc. Song song với tiến trình hội nhập, xây dựng một xã hội hài hòa, đoàn kết và khoan dung, thì xu hướng ly khai dân tộc, áp đặt "dân chủ", "chia để trị" trên thế giới cũng có chiều hướng gia tăng. Trong khi ở một số nước phát triển nhanh về kinh tế, ổn định xã hội, chủ quyền an ninh quốc gia được đảm bảo thì nhiều quốc gia khác trở nên tồi tệ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu con đường, cách thức đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc trong bối cảnh quốc tế mới hiện nay luôn là đề tài hấp dẫn.
Malaixia (trong công trình này, chúng tôi sử dụng nhiều loại thuật ngữ khác nhau liên quan đến người Malaixia và đất nước Malaixia; trước 1963, nước này gọi là Malaya hay Malaia; sau 1963, Liên bang Malaya được đổi thành Malaysia hay Malaixia; thuật ngữ Malayu hay Melayu là tên gọi tộc người Malai; người Malaixia là chỉ tất cả công dân sống trên lãnh thổ Malaixia, không phân biệt họ là tộc người nào. Chính vì vậy trong công trình sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau chỉ về đất nước, con người, các cộng đồng dân tộc của Malaixia qua từng thời kỳ lịch sử), từ một nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa nửa phong kiến, hết sức đa dạng về cấu trúc văn hóa - tộc người, lại bị chia cắt thành nhiều vùng lãnh thổ với trình độ phát triển khác nhau, từ sau khi được trao trả độc lập cho tới nay đã vươn lên trở thành một quốc gia tương đối phát triển với một nền kinh tế năng động, có sức cạnh tranh khá cao, một xã hội ổn định và ngày càng có uy tín cao trên trường quốc tế. Đây là một trong những trường hợp khá điển hình trong số các nước đang phát triển nói chung, ở Đông Nam á nói riêng về sự kết hợp tương đối hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã xã hội và hài hòa dân tộc, giữa củng cố nền độc lập dân tộc với hội nhập khu vực và quốc tế. Vì vậy, nghiên cứu con đường phát triển hiện đại của Malaixia nói chung, củng cố nền độc lập và đoàn kết quốc gia - dân tộc nói riêng kể từ khi nước này giành được độc lập cho tới nay không chỉ là vấn đề học thuật, mà có ý nghĩa thực tiễn chính trị lớn, góp phần cung cấp thêm cứ liệu khoa học và bài học kinh nghiệm cho việc hoạch định và thực thi chính sách phát triển của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: " Quỏ trỡnh đấu tranh củng cố nền độc lập dõn tộc của Liờn bang Malaixia từ 1957 đến 2005" để viết Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc, mã số: 62 22 52.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu quá trình đấu tranh và củng cố nền độc lập dân tộc, xây dựng bản sắc quốc gia - dân tộc của các nước đang phát triển dưới thời chiến tranh lạnh và trong bối cảnh gia tăng của toàn cầu hóa và chuyển nhanh sang nền kinh tế tri thức hiện nay luôn là chủ đề hấp dẫn đối với các học giả và giới chính trị trong và ngoài nước. Trên thế giới đã không ít tài liệu, các công trình khoa học bàn luận các khía cạnh khác nhau về vấn đề trên, trong đó liên quan đến con đường phát triển hiện đại của Malaixia. Trong số trên phải kể đến các cuốn sách "Malaysian Politics & Government" của Jayum A. Jawan (2004); "Malay Political Leadership" của Anthony S. K. Shome (2002); "Mahathir administration: leadership and change in a multiracial society" của Chung Kek Yoong (1987); "Malaysia in transiton: Politics and Society" của Abdul R. Baginda (2003); "Managing the Malaysia Economy: Challenges & Prospect" của Ranmon V. Navarantnam (1997) v.v... Các công trình trên không chỉ nói lên sự lựa chọn con đường phát triển kinh tế - xã hội và thể chế chính trị của Malaixia, mà quan trọng hơn là chỉ ra vai trò của chính sách kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội và hài hòa dân tộc, giữa nội lực và ngoại lực đối với củng cố nền độc lập và thống nhất quốc gia - dân tộc trong bối cảnh mới.
ở Việt Nam, trong thập niên gần đây vấn đề trên được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Đã có không ít công trình liên quan đến con đường phát triển của Malaixia đã được bảo vệ cấp thạc sĩ, tiến sĩ và xuất bản thành sách; Trong số này phải kể đến các công trình như "Kinh tế Malaixia" của Đào Lê Minh và Trần Lan Hương (2001); "Đặc điểm con đường phát triển kinh tế - xã hội của các nước ASEAN" (trong đó có phần Malaixia) do Phạm Đức Thành chủ biên); "Chính sách Kinh tế mới với vấn đề hòa hợp dân tộc ở Malaixia giai đoạn 1971-1990" (luận văn cao học của Lý Tường Vân, 2002); "Mahathir Mohamad với vấn đề dân tộc và tôn giáo của Malaixia" (Luận văn cao học của Lê Thị Huyền, 2005), "Sự tiến triển trong chính sách dân tộc của Malaixia từ 1957 đến 2000" (luận văn cao học của Võ Thị Thu Nguyệt, 2005 v.v... Tuy nhiên, hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu dành riêng xem xét con đường, biện pháp đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc của Malaixia kể từ khi nước này giành được độc lập từ tay người Anh (1957 đến nay (2005).
Tài liệu để viết luận văn cao học này là khá phong phú, đa dạng, bằng nhiều thứ tiếng, nhất là tiếng Việt và tiếng Anh. Ngoài các chuyên luận, sách báo, các bài tạp chí, còn có các văn bản pháp quy như Hiến pháp, pháp luật của nhà nước, các bài diễn văn, báo cáo của các đảng phái chính trị, các nhân vật cấp cao trong bộ máy nhà nước, các văn kiện ký kết trong và ngoài nước.
Nhìn chung, trong các công trình và bài viết nêu trên, đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc của Liên bang Malaixia từ năm 1957 đến 2005 tuy đã phản ánh trên nhiều khía cạnh, nhưng chưa mang tính hệ thống, chuyên sâu, cũng chưa trở thành đối tượng nghiên cứu độc lập của một công trình khoa học nào ở trong cũng như ngoài nước, đặc biệt trên quy mô luận văn thạc sĩ
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở những dữ kiện, tài liệu chính thức được công bố về Liên bang Malaixia, luận văn đi sâu nghiên cứu làm rõ quá trình đấu tranh củng cố nền độc lập, đoàn kết và thống nhất quốc gia - dân tộc của Liên bang Malaixia khi nước này giành được độc lập từ tay thực dân Anh (1957) đến nay (2005), để từ đó rút ra triển vọng và bài học kinh nghiệm đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc của Liên bang Malaixia trong gần 50 năm qua.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
Luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Phân tích những nhân tố tác động đến quá trình đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc của Malaixia;
- Phân tích các biện pháp chủ yếu đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc của Liên bang Malaixia từ năm 1957 đến 2005;
- Đánh giá triển vọng và bài học kinh nghiệm đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc của nước Liên bang Malaixia trong gần 50 năm qua.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc của Liên bang Malaixia trong gần 50 năm qua, thông qua các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng đỡ, tạo dựng cộng đồng doanh nghiệp người bản địa, khuyến khích hợp tác kinh tế và hòa hợp dân tộc, thúc đẩy hội nhập quốc tế và những thuận lợi, khó khăn đang đặt ra đối với độc lập dân tộc của Liên bang Malaixia
- Về thời gian: Trọng tâm nghiên cứu là thời gian từ khi Liên bang Malaixia giành độc lập đến nay (1957 đến 2005)
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội, về nhà nước và giai cấp, dân tộc, thời đại, Đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị.
Đồng thời vận dụng những quan điểm cơ bản trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, văn kiện của Đảng và Nhà nước ta về cuộc đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu: Những nguyên lý, phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, hệ thống phương pháp luận sử học mácxít là cơ sở hình thành phương pháp nghiên cứu luận văn. Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh lịch sử, đặc biệt là phương pháp lịch sử và logic; kết hợp với phương pháp phân tích hệ thống và lý thuyết phát triển để nghiên cứu và trình bày nội dung luận văn.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Đánh giá những bước đi, cách thức và thành tựu và khó khăn trong đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc của Malaixia từ sau 1957 đến 2005 trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác và các lý thuyết phát triển khác (như lý luận về toàn cầu hóa và khu vực hóa v.v...).
- Nêu lên một số bài học kinh nghiệm về cuộc đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc có thể tham khảo đối với Việt Nam trong bối cảnh mới hiện nay
7. ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lí luận: Thông qua phân tích các biện pháp đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc của Liên bang Malaixia gần 50 năm qua, luận văn góp phần cung cấp thêm cứ liệu khoa học và một số bài học kinh nghiệm để tham khảo xung quanh vấn để bảo vệ và củng cố nền độc lập dân tộc trong giai đoạn hiện nay
- Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy trong các trường đại học, học viện về các môn thuộc chuyên ngành của khoa học lịch sử,, nhất là lịch sử phong trào giải phóng dân tộc.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
Những nhân tố tác động đến quá trình đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc của Liên bang Malaixia
1.1. Khái quát về lịch sử đấu tranh giành độc lập và sự hình thành nhà nước Liên bang Malaixia
1.1.1. Về đất nước và con người
Liên bang Malaixia nằm ở vị trí khá trung tâm của Đông Nam á có diện tích 330.252 km2 (tương đương với Việt Nam) với dân số trên 25 triệu người và 13 đơn vị hành chính gọi là Bang. Lãnh thổ nước này nằm gần sát xích đạo, giữa 10 và 70 vĩ bắc, 1000 và 1190 kinh đông và được chia ra làm hai miền. Miền Tây thuộc bán đảo Malaixia kéo dài từ kênh Kra ở phía bắc đến eo biển Joho ở phía Nam, được chia thành 9 bang và 2 vùng lãnh thổ Liên bang với diện tích gần 131.794 km2 với dân cư đông đúc trên 20 triệu người; Miền Đông gồm hai bang (Sabah và Sarawak) nằm ở phía bắc đảo Kalimantan đất đai rộng lớn, phì nhiêu (198.000 km2), dân cư thưa thớt, chỉ chiếm khoảng 1/5 (khoảng 4,7 triệu) dân số cả nước (số liệu 2004). Hai vùng lãnh thổ Đông - Tây của Malaixia bị chia cắt bới vùng biển Đông rộng khoảng 750 km. Nước này có đường biên giới với các quốc gia khác trong khu vực như Thái Lan ở phía Bắc, Xingapo ở phía nam bán đảo Malaccca, Inđônexia và Brunei ở phía Đông. Là quốc gia hải đảo nên Malaixia có đường bờ biển dài tới 4.300 km [6].
Malaixia nằm ở khu vực khí hậu xích đạo, nắng lắm, mưa nhiều, đất đai màu mỡ. Khí hậu nhiệt đối đã đem lại cho đất nước này một thế giới thực, động vật phong phú. Có tới 70% diện tích lãnh thổ là rừng nhiệt đới xanh tốt quanh năm. Trong những năm 70 - 80 của thế kỷ XX, Malaixia đã xuất khẩu gỗ chiếm tới khoảng trên dưới 10% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước (nguồn xuất khẩu gỗ là nguồn thu ngoại tế lớn thứ ba); thổ nhưỡng ở đây chủ yếu là đất đỏ bazan, rất thích hợp cho nhiều loại cây trồng có giá trị, trước hết là cao su, dầu cọ và dừa. Tài nguyên trong lòng đất cũng hết sức giàu có và đa dạng. Ngoài dầu mỏ và khí đốt, tại nước này còn có sắt, bốcxít, mănggan, vàng và đặc biệt là thiếc với trữ lượng đạt tới 1.200.000 tấn, đứng thứ 3 ở Đông Nam á, nhưng về khai thác luôn đứng hàng đầu của khu vực [24, tr. 225-231], [31, tr. 11-14]. Với những điều kiện tự nhiên trên, Malaixia có khả năng phát triển một nền kinh tế toàn diện, một xã hội khá giả. Cũng do điều kiện thuận lợi đó, từ lâu trong lịch sử, mảnh đất này trở thành nơi du nhập và hội tụ của các nền văn hóa, tôn giáo và văn minh lớn trên thế giới. Đây là tiền đề tạo dựng một xã hội đa nguyên và mở cửa hội nhập quốc tế của Liên bang Malaixia ngày nay.
Malaixia là quốc gia đa dân tộc, tôn giáo và nhiều sắc thái văn hóa. Có 3 nhóm cộng đồng dân tộc chính gồm người Melayu (Malayu) và các tộc người bản địa khác như Senang, Senoi, Jakun, Dusune, Bajan, Klemantan, Melânn v.v. (hay thường gọi là Bumiputera), người Hoa (người di cư từ Trung Quốc và con cháu của họ) và người ấn (chủ yếu là người Tamil, di cư từ miền Nam ấn Độ). Theo số liệu thống kê năm 2004, người Malayu chiếm 58,1%, người Hoa - 24,3%, người ấn 6,9%; Số còn lại là các nhóm cộng đồng khác, trong đó có các tộc người thiểu số ở hai bang miền Đông thuộc Sarawak và Sabah, và người lai Âu - á (Số liệu tính đến 2003) [45, tr. 30].
Người Melayu và các tộc người thiểu số địa phương khác được coi là người bản địa (Bumiputera), là nhóm dân tộc lớn nhất, nhưng không phải là đa số. Phần lớn họ sinh sống ở nông thôn và theo Hồi giáo. Xét về huyết thống và ngôn ngữ, họ có quan hệ mật thiết với các tộc người bản địa ở Inđônêxia, miền Nam Philipin và Thái Lan. Xét theo địa vị xã hội họ có ảnh hưởng chính trị và văn hóa lớn nhất tại quốc gia này, nhưng vai trò kinh tế thì thua kém cộng đồng người Hoa.
Người Hoa là cộng đồng dân di cư từ Trung Quốc và con cháu của họ, chủ yếu theo Phật giáo và Đạo giáo cùng với thờ cúng tổ tiên. Họ đến xứ sở này từ thế kỷ XV - XVII, nhưng chủ yếu là từ thế kỷ XIX. Phần lớn họ sống ở đô thị, làm nghề buôn bán và hoạt động chế tác công nghiệp. Họ có địa vị kinh tế nổi trội và ảnh hưởng lớn trong chính trường chính trị của nước này.
Còn cộng đồng người ấn Độ chủ yếu đến Malaixia từ thế kỷ XIX. khi thực dân Anh biến nước này thành thuộc địa. Phần lớn trong số họ là người Tamil, theo Hindu giáo; còn một bộ phận khác di cư từ phía Bắc ấn Độ theo đạo Xích. Cũng giống như người Hoa, phần lớn trong số họ làm nghề buôn bán, sống ở đô thị, nhưng lại tham gia đắc lực vào bộ máy cảnh sát và quân đội. So với các nhóm dân nhập cư khác, quá trình hiện đại hóa về đời sống tinh thần của cộng đồng người ấn Độ ở nước này diễn ra chậm chạp. Họ được nuôi dưỡng và giáo dục sâu sắc về tôn giáo và văn hóa ấn Độ. Tuy là cộng đồng số ít, nhưng cộng đồng này cũng có tiếng nói khá quan trọng trong đời sống chính trị cũng như quan hệ quốc tế của Malaixia [26, tr. 134-172].
Malaixia là một nước quân chủ lập hiến. Người đứng đầu Liên bang được gọi là Yang di - Pertuan Agong (Quốc vương Liên bang) được bầu trong số 9 nhà đứng đầu (Vương thần) của các Bang (như Perlis, Kedah, Perak, Selangor, Negeri, Sembilan, Johor, Pahang, Trengganu và Kelantan) tại Hội nghị các nhà lãnh đạo, với nhiệm kỳ 5 năm. Các vương thần của 9 bang hay Sultan (Tiểu vương Hồi giáo) này kế nhiệm theo kiểu cha truyền con nối, là người lãnh đạo chính đối với cộng đồng Hồi giáo ở bang mình. Các nhà lãnh đạo của 3 bang và 2 lãnh thổ Liên bang còn lại là Melaka, Pulau Pinang (đảo Penang), Sabah, Sarawak, Kuala Lumpur và Labuan do Quốc vương Liên bang bổ nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm. Quốc vương Liên bang đồng thời là người đứng đầu Hồi giáo Liên bang.
Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Malaixia độc lập ban hành vào năm 1957 quy định Quốc vương không chỉ là người đứng đầu Liên bang mà còn là người đứng đầu Nhà nước. Có quyền bác bỏ các dự luật, có thể giải tán nghị viện. Nhưng theo Hiến pháp sửa đổi năm 1994, thì quyền hạn của Quốc vương bị hạn chế và chỉ đóng vai trò cố vấn cho Thủ tướng. Quốc vương lập ra Hội đồng quản trị gồm những người đứng đầu bang. Hội đồng này làm tham mưu trong việc bầu Hội đồng thẩm phán, Hội đồng bầu cử, ủy ban công vụ v.v...
Nghị viện của Malaixia tổ chức theo lưỡng viện, gồm có thượng viện và Hạ viện. Thượng viện (Dewan Negara) có 70 thành viên, trong đó có 40 người là người đứng đầu các đơn vị hành chính (Bang) được chỉ định (thường do Quốc vương chỉ định) và từ 30 người được bầu từ các bang. Mỗi bang được chọn ra 2 nghị sĩ làm thành viên của Hội đồng lập pháp với nhiệm kỳ 3 năm. Hạ viện hay là Viện dân biểu (Dewan Rakyat) gồm 219 thành viên, được lựa chọn từ các khu vực bầu cử trong nước với nhiệm kỳ 5 năm. Quốc vương có thể giải tán Quốc hội (Viện dân biểu) sớm hơn nếu có yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ.
Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu cơ quan hành pháp, được Quốc vương bổ nhiệm người của Đảng nào có nhiều ghế nhất trong Hạ viện. Thủ tướng lập ra Hội đồng Bộ trưởng hay nội các. Hiện nay Malaixia có 25 Bộ trưởng trong nội các Chính phủ và một số cơ quan ngang bộ
ý chí và nguyện vọng xây dựng đất nước độc lập, thống nhất, ổn định, dân chủ và thịnh vượng của Liên bang Malaixia được thể hiện ở Tuyên bố "Rukunegara" (tiếng Melayu có nghĩa là "Nền tảng quốc gia"). Đây là hệ tư tưởng chính thống, cương lĩnh hành động mà đất nước này theo đuổi từ đó cho tới nay. Nội dung chính của nó là đề cao tính thống nhất quốc gia, công bằng xã hội và hài hòa giữa các dân tộc, đồng thời nhấn mạnh đến bổn phận và trách nhiệm của người dân đối với tổ quốc, đức tin và pháp luật (về vấn đề này sẽ được đề cập nhiều hơn ở chương tiếp theo).
Malaixia cũng như nhiều quốc gia khác theo thể chế đa nguyên về kinh tế, chính trị cũng như văn hóa. Sự đa sắc tộc và tôn giáo cũng như sự pha trộn và đan xen các hình thái kinh tế - xã hội đã tác động sâu sắc đến quá trình trên. Từ sau khi Malaixia giành được độc lập cho tới nay, Mặt trận Quốc gia (National Front), trong đó hạt nhân chính là Tổ chức dân tộc thống nhất Malay (UMNO) là tổ chức chính trị có uy tín và sức mạnh lớn nhất tại quốc gia này. Đây là một liên minh chính trị của 3 đảng phái lớn nhất hiện nay của quốc gia này là UMNO, Hiệp hội người Hoa Malaixia (MCA) và Đại hội ấn Malaixia (MIC) [19, tr. 11-13], [31, tr. 18-19] .
1.1.2. Khái quát về lịch sử đấu tranh chống thực dân Anh và quân phiệt Nhật của các dân tộc ở Malaya trước 1946
Cũng như nhiều quốc gia khác trong khu vực, Malaixia trải qua các biến cố thăng trầm của lịch sử. Trước khi thực dân phương Tây xâm chiếm và biến đất nước này thành thuộc địa, tại Malaixia đã từng tồn tại và chứng kiến sự thịnh vượng của các vương quốc ấn Độ, sau đó là các tiểu vương quốc Hồi giáo; Đạo Hồi xâm nhập vào xứ sở này từ thế kỷ XIII - XIV, và đến khoảng giữa thế kỷ XV chiếm vị trí độc tôn, trở thành quốc đạo của Malaixia - Trung tâm Hồi giáo lớn nhất Đông Nam á.
Do tài nguyên thiên nhiên giàu có, vị trí địa chiến lược trong thương mại đường biển giữa ấn Độ Dương và Thái Bình Dương nên từ lâu bán đảo Malacca trở thành nơi nhòm ngó, tranh chấp và biến thành thuộc địa của phương Tây. Từ đầu thế kỷ XVI (1511) thực dân Bồ Đào Nha đánh chiếm Malacca; đến giữa thế kỷ XVI (1541), Hà Lan chiếm lại Malacca và vùng đất mới là Johor; và đến từ cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX lần lượt chiếm các điểm tiền tiêu quan trọng nhất, án ngữ eo biển Malacca như thành phố Malacca, đảo Penang, và đảo Xingapo. Đến cuối thế kỷ XIX, toàn bộ Malaixia ngày nay trở thành thuộc địa Anh.
Chính sách khai thác tài nguyên thiên nhiên để xuất khẩu mà thực dân Anh đã thi hành đã không làm cho đất nước này trở thành một nước có nền kinh tế phát triển. Nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Sản phẩm nông nghiệp chiếm tới 40% tổng thu nhập nội địa; trong đó khu vực chế biến, chế tạo chỉ chiếm hơn 10%. Hầu hết những ngành kinh tế chủ đạo, có khả năng xuất khẩu đều do tư bản Anh kiểm soát, như ngành xuất khẩu thiếc, cao su, dầu cọ, dứa v.v... Tư bản Hoa Kiều khống chế gần như toàn bộ lĩnh vực Thương mại [18, tr. 69].
Sau khi hợp pháp hóa quyền cai trị của mình tại xứ sở Malaya (tên này được gọi cho đến tận 1963, sau đó gọi là Malaixia, và bao gồm cả Xingapo), thực dân Anh sát nhập ba đơn vị hành chính gồm đảo Penang, thành phố Malacca và đảo Xingapo thành một đơn vị hành chính mới (vào năm 1826) gọi là "Cụm dân cư eo biển" (The Straits Settlements) độc lập với các tiểu vương quốc còn lại của Malaixia. Người Anh áp dụng chế độ cai trị gián tiếp tại các tiểu vương quốc, tiếp tục duy trì chế độ quân chủ và các luật tục của Hồi giáo. Tuy vậy các luật lệ của người Anh, đặc biệt là Luật Thương mại đã trở nên thông dụng tại nước này. Khác với sự cai trị của người Hà Lan ở Inđônêxia, người Anh thi hành chính sách mở cửa, chào đón các nhà buôn dưới mọi sắc cờ đến miền đất này, nhất là đến "Cụm dân cư eo biển". Kết quả là Xingapo, đảo Penang và thành phố Malacca từ nửa sau thế kỷ XIX trở thành những trung tâm buôn bán chuyển khẩu mậu dịch và phân phối lao động lớn nhất Đông Nam á. Từ những nơi này, cao su, thiếc được khai thác ở các vùng trung tâm của Malaya, nhất là vùng Kuala Lumpur được tái xuất khẩu sang thị trường Châu Âu và hàng hóa tiêu dùng từ phương Tây được phân phối lại cho thị trường các tiểu vương quốc và các nước khác trong khu vực. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của buôn bán chuyển khẩu và tái xuất khẩu, hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật được xây dựng tại Malaixia khá hoàn chỉnh. Nhiều trường dạy nghề, dạy chữ cho con em các quan cai trị người Anh và tầng lớp quý tộc người bản địa ra đời. Bên cạnh đó hệ thống giáo dục Hoa ngữ cũng được thiết lập. Đây là một trong những di sản lịch sử mà chế độ thực dân để lại, có ảnh hưởng sâu sắc đến các xu hướng chính trị - xã hội cũng như phát triển kinh tế của Malaixia sau ngày độc lập [12, tr. 21-25].
Cũng giống như nhiều nước trong khu vực, từ những thập niên đầu của thế kỷ XX, Malaixia cũng bị cuốn hút vào các cuộc chiến đế quốc (cụ thể là thế chiến lần thứ nhất 1914-1918) và bị tác động bởi Cách mạng tháng Mười Nga. Tại xứ thuộc địa Malaya, giới cầm quyền các tiểu vương quốc Hồi giáo ủng hộ nước Anh, quyên góp tiền giúp nước này trong việc phát triển các căn cứ hải quân, nhất là tại cảng Xingpo. Còn dân chúng, nhất là giới thợ thuyền tại các thành phố lớn đình công, phản đối chiến tranh, chống bóc lột. Còn tầng lớp quý tộc và giới sinh viên, trí thức cũng bắt đầu ý thức giác ngộ tinh thần dân tộc, chống lại thuộc địa.
Cần lưu ý rằng, sự thức tỉnh tinh thần dân tộc và tinh thần đấu tranh chống thuộc địa tại Malaya lúc đó bị tác động mạnh mẽ bởi phong trào cách mạng diễn ra tại khu vực, nhất là tại nước Hồi giáo láng giềng Inđônexia, nơi có truyền thống chống thực dân phương Tây. Tại Inđônexia từ đầu thế kỷ XX đã xuất hiện một số tổ chức của sinh viên có xu hướng chống thuộc địa; tiếp đến là "Liên minh Hồi giáo" ra đời vào năm 1912. Đặc biệt, sự ra đời của Đảng Cộng sản Inđônexia vào năm 1920 có ảnh hưởng lớn đến ý thức giai cấp của các tầng lớp nhân dân lao động không chỉ của Inđônexia mà cả của Malaya. Việc một số nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Inđônexia (như Tan Malaka, Aliman, Jâmlludin v.v...) chạy sang Malaya sau sự thất bại của cuộc khởi nghĩa vào cuối năm 1926-1927 là một trong những yếu tố thúc đẩy phong trào cách mạng và sự ra đời của Đảng Cộng sản Malaya sau đó. Ngoài ra, các sinh viên Malaya và Inđônexia học ở trường Đại học tổng hợp Cairo (Ai Cập) đã xuất bản chung một số tờ báo như "Seruan Azhar" (tiếng nói Azhar) và "Pilihan Timur" (sự lựa chọn của phương Đông", trong đó đề cập đến những nhiệm vụ chung của nhân dân Inđônexia và Malaya, nhấn mạnh đến sự cần thiết liên kết giữa hai nước trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc [31, tr. 40-42].
Sự ảnh hưởng của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc từ bên ngoài, đặc biệt từ Inđônexia đã làm khuấy động tình thần dân tộc, chống thuộc địa trong nước Malaya. Trong những năm 20 của thế kỷ XX đã xuất hiện khá nhiều tờ báo có tại các thành phố lớn như ở đảo Penang, đảo Xingapo xu hướng bênh vực cho người địa phương. Vào Năm 1926, lần đầu tiên tại Malaya xuất hiện một tổ chức chính trị - xã hội đầu tiên của người Malaya gọi là "Hiệp hội người Malaya ở Xingapo" do Mohammad Yunos Bin Abdulah đứng đầu. Hiệp hội này lên tiếng bảo vệ quyền lợi kinh tế của người Malaya, tuyên truyền thức tỉnh quần chúng tích cực tham gia vào đời sống chính trị-xã hội. Chẳng bao lâu những tổ chức tương tự được thành lập ở các tiểu vương quốc, vùng lãnh thổ khác như ở Penang, Selangor, Negri-Sembilan v.v... Tham gia vào các hiệp hội này không chỉ tầng lớp tri thức, mà còn cả giới quý tộc và quan cai trị người bản địa. Mặc dầu các nhà hoạt động của hiệp hội có quan điểm tương đối ôn hòa, mang tính chất cải lương, nhưng sự ra đời và ảnh hưởng của các tổ chức này đã thúc đẩy ý thức giác ngộ và hoạt động chính trị của nhân dân Malaya. Chính những hiệp hội này đã góp phần quan trọng trong việc tập hợp lực lượng, củng cố tình đoàn kết của người Malaya.
Từ những năm 30 trở đi, trước tác động của bối cảnh quốc tế mới như cuộc khủng hoảng kinh