Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thương mại quốc tế có vai trò quan trọng. Chính vì thế, đẩy mạnh giao lưu thương mại quốc tế, trong đó có thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa là một trong các mục tiêu phát triển kinh tế hàng đầu của nhiều quốc gia, nhất là những nước đang công nghiệp hoá như Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: Nhà nước khuyến khích xuất khẩu, nhất là các mặt hàng chủ lực có lợi thế so sánh thông qua vận hành quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu về thông tin, tìm kiếm khách hàng, tham dự triển lãm, hội chợ. Đại Hội Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định lại điều đó.
Những năm gần đây, khác với thị trường nhiều loại hàng hoá thực phẩm khác, thị trường thủy sản thế giới có xu hướng tăng trưởng mạnh, đa dạng và phong phú về chủng loại sản phẩm. Thuỷ sản trở thành mặt hàng chủ lực được nhập khẩu vào nhiều thị trường lớn như Nhật Bản, Mỹ, EU, Trung Quốc v.v.
Trong 15 năm qua, từ khi cơ chế xuất khẩu được đổi mới sản xuất và xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã phát triển vượt bậc cả về kim ngạch và cơ cấu mặt hàng, từ năm 1990 đến 2002 tăng trung bình hàng năm 18,1%. Theo thống kê của FAO, đến năm 2003, Việt Nam đã trở thành một trong 20 nước đánh bắt thủy sản lớn nhất thế giới, đứng thứ 25 trong hàng ngũ những nước xuất khẩu thủy sản lớn trên thế giới. Nếu tính trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đứng thứ tư sau Thái Lan, Inđônêxia và Singapo. Ngành thủy sản Việt Nam đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng đóng góp vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa Việt Nam hội nhập nhanh hơn vào kinh tế khu vực và thế giới.
Đã Nẵng là thành phố ven biển lớn, giữ vị trí trọng yếu về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng của khu vực miền Trung -Tây Nguyên nói chung và vùng kinh tế động lực miền trung nói riêng. Với các lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên biển và nguồn nhân lực, thủy sản là một thế mạnh góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Các lợi thế này đã có những tác động tích cực làm tăng tốc độ tăng trưởng các chỉ tiêu kinh tế xã hội của Đà Nẵng, nâng cao khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu của thành phố và cả khu vực ven biển miền Trung những năm qua.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế, Đà Nẵng cũng đang gặp nhiều thách thức, đó là khí hậu khắc nghiệt, mưa bão và hạn hán thường xuyên xảy ra, diện tích hẹp, độ dốc lớn, nghiêng từ Tây sang Đông dẫn đến hiện tượng xói mòn, lượng phù sa thấp, vùng bờ biển có ít các vành đai bảo vệ nên luôn bị biển xâm thực gây ảnh hưởng đến các công trình nuôi trồng thủy sản. Lực lượng lao động có dồi dào nhưng chất lượng còn hạn chế, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp. Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển chậm, nhất là chưa có nhiều cảng cá, các trung tâm bán buôn cá còn ít dẫn đến làm tăng chi phí vận chuyển và bảo quản trong quá trình chế biến và xúc tiến thương mại. Công nghệ nuôi trồng, đánh bắt và chế biến còn lạc hậu, khó có khả năng đầu tư lớn, trong khi những đòi hỏi về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm đối với hàng thủy sản xuất khẩu của thị trường thế giới ngày càng cao và khắt khe.
Để Đà Nẵng trở thành trung tâm xuất khẩu thuỷ sản của khu vực cần có những nghiên cứu, đánh giá tiềm năng, lợi thế, thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Thành phố này, từ đó đề xuất các giải pháp liên ngành đẩy mạnh năng lực xuất khẩu thuỷ sản của Thành phố, qua đó, hổ trợ phát triển kinh tế của Đà Nẵng nói riêng của khu vực nói chung. Đề tài: " Phỏt triển Xuất khẩu thủy sản ở thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp " được chọn nghiên cứu trong luận văn là để góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của thành phố Đà Nẵng.
110 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 933 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Phát triển Xuất khẩu thủy sản ở thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thương mại quốc tế có vai trò quan trọng. Chính vì thế, đẩy mạnh giao lưu thương mại quốc tế, trong đó có thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa là một trong các mục tiêu phát triển kinh tế hàng đầu của nhiều quốc gia, nhất là những nước đang công nghiệp hoá như Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: Nhà nước khuyến khích xuất khẩu, nhất là các mặt hàng chủ lực có lợi thế so sánh thông qua vận hành quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu về thông tin, tìm kiếm khách hàng, tham dự triển lãm, hội chợ... Đại Hội Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định lại điều đó.
Những năm gần đây, khác với thị trường nhiều loại hàng hoá thực phẩm khác, thị trường thủy sản thế giới có xu hướng tăng trưởng mạnh, đa dạng và phong phú về chủng loại sản phẩm. Thuỷ sản trở thành mặt hàng chủ lực được nhập khẩu vào nhiều thị trường lớn như Nhật Bản, Mỹ, EU, Trung Quốc v.v...
Trong 15 năm qua, từ khi cơ chế xuất khẩu được đổi mới sản xuất và xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã phát triển vượt bậc cả về kim ngạch và cơ cấu mặt hàng, từ năm 1990 đến 2002 tăng trung bình hàng năm 18,1%. Theo thống kê của FAO, đến năm 2003, Việt Nam đã trở thành một trong 20 nước đánh bắt thủy sản lớn nhất thế giới, đứng thứ 25 trong hàng ngũ những nước xuất khẩu thủy sản lớn trên thế giới. Nếu tính trong khu vực Đông Nam á, Việt Nam đứng thứ tư sau Thái Lan, Inđônêxia và Singapo. Ngành thủy sản Việt Nam đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng đóng góp vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa Việt Nam hội nhập nhanh hơn vào kinh tế khu vực và thế giới.
Đã Nẵng là thành phố ven biển lớn, giữ vị trí trọng yếu về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng của khu vực miền Trung -Tây Nguyên nói chung và vùng kinh tế động lực miền trung nói riêng. Với các lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên biển và nguồn nhân lực, thủy sản là một thế mạnh góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Các lợi thế này đã có những tác động tích cực làm tăng tốc độ tăng trưởng các chỉ tiêu kinh tế xã hội của Đà Nẵng, nâng cao khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu của thành phố và cả khu vực ven biển miền Trung những năm qua.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế, Đà Nẵng cũng đang gặp nhiều thách thức, đó là khí hậu khắc nghiệt, mưa bão và hạn hán thường xuyên xảy ra, diện tích hẹp, độ dốc lớn, nghiêng từ Tây sang Đông dẫn đến hiện tượng xói mòn, lượng phù sa thấp, vùng bờ biển có ít các vành đai bảo vệ nên luôn bị biển xâm thực gây ảnh hưởng đến các công trình nuôi trồng thủy sản. Lực lượng lao động có dồi dào nhưng chất lượng còn hạn chế, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp. Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển chậm, nhất là chưa có nhiều cảng cá, các trung tâm bán buôn cá còn ít dẫn đến làm tăng chi phí vận chuyển và bảo quản trong quá trình chế biến và xúc tiến thương mại. Công nghệ nuôi trồng, đánh bắt và chế biến còn lạc hậu, khó có khả năng đầu tư lớn, trong khi những đòi hỏi về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm đối với hàng thủy sản xuất khẩu của thị trường thế giới ngày càng cao và khắt khe.
Để Đà Nẵng trở thành trung tâm xuất khẩu thuỷ sản của khu vực cần có những nghiên cứu, đánh giá tiềm năng, lợi thế, thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Thành phố này, từ đó đề xuất các giải pháp liên ngành đẩy mạnh năng lực xuất khẩu thuỷ sản của Thành phố, qua đó, hổ trợ phát triển kinh tế của Đà Nẵng nói riêng của khu vực nói chung. Đề tài: " Phỏt triển Xuất khẩu thủy sản ở thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và giải phỏp " được chọn nghiên cứu trong luận văn là để góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của thành phố Đà Nẵng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến lĩnh vực xuất khẩu thủy sản của nước ta cũng như khu vực ven biển miền Trung. Đó là:
- PGS, TS Đỗ Đức Bình: Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản của Việt Nam - Tạp chí kinh tế và phát triển, số 62, tháng 8/2002.
- TS Lê Thị Anh Vân: Về các chính sách thúc đẩy xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong thời gian tới - Tạp chí kinh tế và phát triển, số 67, tháng 01/2003.
- PGS, TS Hoàng Thị Chỉnh: Xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào Mỹ - Những vấn đề đang đặt ra và các giải pháp - Tạp chí kinh tế và phát triển, số 67, tháng 01/2003.
- TS Lâm Minh Châu: Xuất khẩu thủy sản miền Trung - Những lợi thế và giải pháp phát triển - Tạp chí kinh tế và phát triển, số 91, tháng 01/2005.
- TS Nguyễn Thị Thanh Hà và Th.s Nguyễn Văn Tiền: Ngành thủy sản Việt Nam - Thực trạng và thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế - Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 321, tháng 02/2005.
- Hoàng Thị Ngân Loan: Xuất khẩu thủy sản Việt Nam - Thực trạng và giải pháp thúc đẩy - Tạp chí kinh tế và dự báo, số 3/2005.
- ThS Lê Bảo: Nghiên cứu chính sách tài chính hổ trợ phát triển bền vững nghành nuôi tôm ở các tỉnh duyên hải miền trung -kỷ yếu hội thảo khoa học -trường Đại học kinh tế - Đại học Đà Nẵng 06/2005.
- PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng Tổng Thư ký VASEP WTO, Thách thức và cơ hội với thuỷ sản - Tạp chí Thương mại Thuỷ Sản....
Các công trình trên tiếp cận dưới những góc độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn liên quan đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về xuất khẩu thủy sản của thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là tìm ra những giải pháp phát triển xuất khẩu thủy sản của thành phố Đà Nẵng trong những năm tới.
Thực hiện với mục đích đó luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về xuất khẩu thủy sản trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản của thành phố Đà Nẵng những năm qua.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu phát triển xuất khẩu thủy sản của thành phố Đà Nẵng đến 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của thành phố Đà Nẵng và các giải pháp của thành phố đối với doanh nghiệp dưới tác động chính sách của nhà nước về sản xuất và xuất khẩu.
- Phạm vi nghiên cứu đề tài trong luận văn
+ Về không gian: Hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của các thành phần kinh tế của Đà Nẵng ở các thị trường trọng điểm như EU, Nhật Bản, Mỹ.
+ Về nội dung: tập trung chủ yếu vào hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của các doanh nghiệp Đà Nẵng.
+ Về thời gian: Từ 2005 đến 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu trong luận văn
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin vận dụng vào điều kiện thực tế của ngành ở địa phương. Trong các phân tích cụ thể sử dụng các phương pháp: hệ thống hoá, điều tra, phân tích, tổng hợp, các công trình, dữ liệu thống kê hiện có... Đồng thời, đề tài cũng kế thừa và sử dụng thống kê so sánh có chọn lọc những thông tin trong một số công trình nghiên cứu của một số tác giả trước.
6. Dự kiến những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về xuất khẩu hàng thủy sản trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Tổng kết, rút ra bài học kinh nghiệm cho lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản của thành phố Đà Nẵng.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển xuất khẩu thủy sản của thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
MộT Số VấN Đề CHUNG
về hoạt động xuất khẩu thủy sản
1.1. Vai trò và nội dung của xuất khẩu thủy sản
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm xuất khẩu thủy sản
1.1.1.1. Khái niệm xuất khẩu thuỷ sản
Xuất khẩu là việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá (bao gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) trong nước. Khi sản xuất phát triển và trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi, hoạt động này mở rộng phạm vi ra ngoài biên giới của quốc gia hoặc thị trường nội địa vào khu chế xuất trong nước.
Thuỷ sản là ngành sản xuất ra các loại sản phẩm, mà nguyên liệu chính khai thác từ Biển, sông và hồ…,và nuôi trồng. Sản phẩm thuỷ sản là một phần năng lượng chính, nó duy trì đời sống của con người, góp phần đảm bảo sức khoẻ cho người lao động, bổ sung và nâng cao sức lao động, ngoài những đặc điểm chung còn có những đặc điểm riêng thể hiện ưu thế của nó, đó là thành phần chất đạm cao, ít mỡ, giàu chất khoáng dễ tiêu hoá… và ngày càng trở thành một loại thực phẩm có nhu cầu cao trên thế giới, các sản phẩm của ngành thuỷ sản đa dạng, phong phú bao gồm: các loại tôm, cá, mực... từ biển, sông, hồ và các nhuyễn thể khác. Từ nhu cầu cuộc sống đòi hỏi sản phẩm luôn được nâng cao từ chất lượng, công nghệ chế biến, vệ sinh… vì vậy, ngành thuỷ sản phải tách rời thành hai bộ phận riêng biệt là ngành nuôi trồng khai thác và ngành công nghiệp thuỷ sản (bao gồm công nghiệp chế biến và công nghiệp khai thác), để phục vụ cho hai bộ phận trên còn có các hoạt động kinh doanh và dịch vụ khác làm các chức năng hậu cần và hỗ trợ khác cho ngành.
Từ suy luận trên ta có thể hiểu: Xuất khẩu thuỷ sản là việc đem bán những sản phẩm thuỷ sản đã qua chế biến hoặc chưa chế biến, được sản xuất trên dây chuyền công nghệ hay còn thô từ các nhà máy trong nước xuất ra nước ngoài nhằm thu ngoại tệ về cho đất nước, cho doanh nghiệp.Đối với Nhà nước tăng tích luỹ cho nhà nước, nâng cao mức sống cho nhân dân. Đối với doanh nghiệp: nhập trang thiết bị công nghệ mới nhằm nâng cao qui mô sản xuất, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Xuất khẩu thuỷ sản là xuất khẩu sản phẩm hàng hoá, dịch vụ thuỷ sản mà thiên nhiên ưu đãi, trong đó thêm những lợi thế so sánh về lao động kết tinh trong sản phẩm giữa các quốc gia thông qua trao đổi hàng hoá. Sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam đưa ra thị trường thế giới cũng được kết tinh bởi hao phí lao động của những ngư dân, công nhân chế biến công nghiệp và những lợi thế về điều kiện tự nhiên.Sản phẩm thuỷ sản được bán ra và thu được ngoại tệ mạnh có thể chi dùng cho quốc kế dân sinh hay củng cố và nâng cao trình độ kỹ thuật thông qua nhập trang thiết bị, công nghệ hiện đại nhằm tiến hành CNH,HĐH đất nước. Người tiêu dùng mua sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam được hưỡng lợi thông qua giá rẻ, chất lượng cao do lợi thế tương đối.
1.1.1.2. Đặc điểm của xuất khẩu thủy sản Việt Nam
+ Thủy sản là hàng hóa mang tính thời vụ, phụ thuộc vào thời tiết, ngư trường... nên xuất khẩu thủy sản cũng mang tính thời vụ.
Sản phẩm xuất khẩu của ngành thuỷ sản chủ yếu là những sinh vật sống dưới biển nhưng sản lượng là bao nhiêu chúng ta không thể xác định cụ thể, chính vì vậy chúng ta vừa khai thác vừa không quên nuôi trồng và tái tạo nguồn nguyên liệu của biển. Chỉ có như vậy mới đảm bảo nguyên liệu cho chế biến và xuất khẩu. Thời tiết, khí hậu, dòng nước chảy là những điều kiện ảnh hưởng đến các sinh vật sống trong môi trường nước nên chúng di chuyển theo qui luật sinh tồn từ vùng này sang vùng khác, điều đó muốn nói rằng xuất khẩu thuỷ sản cũng mang tính thời vụ. Ngày nay khoa học công nghệ ngày càng phát triển đã hỗ trợ việc nuôi trồng thuỷ sản ổn định hơn, nguyên liệu đa dạng, phong phú.
Thuỷ sản là mặt hàng tươi sống, nếu bảo quản không tốt sẽ dẫn đến tình trạng ươn hỏng vì vậy công nghệ bảo quản rất quan trọng. Hiện nay công nghệ cấp đông và kho lạnh bảo quản rất hiện đại, chúng có thể bảo quản hàng trong nhiệt độ từ -20oC đến -50oC. Với nhiệt độ này hàng tươi sống có thể để rất lâu từ một năm đến hai năm và lâu hơn nữa, sản phẩm thuỷ sản có thể bảo quản và xuất đi các nước trong thời gian dài, sản phẩm khi đến tay người tiêu dùng vẫn tươi và đẹp.
+ Xuất khẩu thủy sản đòi hỏi tính liên ngành cao, có mối liên hệ chặt chẽ đồng bộ các khâu: khai thác, nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu...
Hàng thuỷ sản Việt Nam ngày càng được nhiều nước trên thế giới quan tâm và ưa chuộng do doanh nghiệp đã tích cực đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm và khâu tiếp thị ngày càng được chú trọng.
Một thời gian dài, chúng ta tập trung khai thác và đánh bắt thuỷ sản gần bờ với sản lượng lớn làm cho nguyên liệu gần như cạn kiệt. Để đảm bảo nguyên liệu đủ cho sản xuất chế biến và xuất khẩu, chúng ta phải chuyển đổi vùng đánh bắt, đánh bắt xa hơn, dài ngày hơn vớí qui mô lớn hơn. Song song với việc đánh bắt xa bờ thì cần phải trang bị đầy đủ các thiết bị công nghệ, tàu thuyền sao cho phù hợp với việc đánh bắt xa bờ.Vừa qua chúng ta thực hiện chủ trương của Nhà nước với chương trình đánh bắt xa bờ, tuy hiệu quả chưa cao nhưng cũng góp phần giảm áp lực khai thác ven bờ, và sự chuyển dịch từ đánh bắt gần bờ sang đánh bắt xa bờ đồng nghĩa với sự chuyển dịch từ đánh bắt với giá trị thấp sang đánh bắt với giá trị cao, về công nghệ khai thác đối tượng có giá trị kinh tế cao như cá ngừ đại dương, mực đại dương, cá đáy xa bờ. Cùng với việc đánh bắt xa bờ, khoa học công nghệ về nuôi trồng thuỷ sản của nước ta trong thời gian qua cũng mang tính đột phá như: công nghệ sản xuất nhân tạo giống tôm sú, tôm he chân trắng, tôm rảo, tôm càng xanh và ươm nuôi tôm hùm, công nghệ nuôi tôm quảng canh cải tiến, bán thâm canh và thâm canh công nghiệp; công nghệ tạo giống cá Tra, Ba sa, Rô phi đơn tính..., đã tạo ra một cuộc cách mạng trong sản xuất nguyên liệu có giá trị cao phục vụ chế biến xuất khẩu. Nhiều sản phẩm đặc sản khác cũng đã được sinh sản nhân tạo thành công ở Việt Nam giúp cho nghề nuôi thuỷ sản nước mặn, lợ và nước ngọt có cơ hội đa dạng hoá các loài nuôi như: ốc hương, Cua biển, Ghẹ, Cá giò, Mực, cá Song, cá Hồng Mỹ, ếch, Ba ba... Các tiến bộ này đã và đang được người dân các địa phương tiếp thu và phát triển mạnh đáp ứng cho nhu cầu thị trường. Một số tỉnh vùng miền Trung như Thừa thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định cũng bước đầu triển khai áp dụng ở qui mô thử nghiệm và kết quả khá khả quan.
Việc ứng dụng các mô hình nuôi khép kín, ít thay nước, sử dụng các chế phẩm sinh học trong xử lý môi trường nuôi đã giúp hạn chế rủi ro do dịch bệnh gây ra, nâng cao năng suất nuôi, giảm chi phí môi trường và góp phần cho sự phát triển bền vững nuôi trồng thuỷ sản và tạo nguồn nguyên liệu cho các nhà máy chế biển thuỷ sản thường xuyên và liên tục. Để đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường đòi hỏi phải mở rộng nuôi trồng thuỷ sản, đánh bắt xa bờ.
Hiện nay trên thế giới, công nghệ chế biến thuỷ sản rất nhiều tiến bộ vượt bậc, đã cho ra đời công nghệ chế biến dùng áp lực cao, công nghệ chế tạo bao bì đóng gói hải sản tươi, bán lẻ có thể kéo dài thời gian bảo quản sản phẩm, tươi lâu hơn so với điều kiện ướp lạnh bình thường.Trong lĩnh vực bảo quản nguyên liệu, ngoài nước đá cây, đá vẩy người ta còn sản xuất nước đá dạng keo sệt làm tăng hiệu quả bảo quản tươi. Tại Việt Nam, gần đây đã có những nghiên cứu về bảo quản nguyên liệu khi tàu ra khơi đánh bắt xa bờ, ứng dụng lắp hệ thống làm lạnh nước biển trên tàu đánh bắt cá ngừ đại dương. Tuy nhiên, việc áp dụng công nghệ này vào thực tế sản xuất còn nhiều hạn chế.
Về chế biến: cách tiếp cận và áp dụng công nghệ chế biến sản phẩm mới thông dụng và có hiệu quả nhất của các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam hiện nay là học thông qua các đối tác (khách hàng hướng dẫn, các doanh nghiệp trong nước hỗ trợ lẫn nhau), tự nghiên cứu sau khi được xem mẫu mã sản phẩm tại hội chợ quốc tế, hoặc mẫu có sẵn của khách hàng. Để thực hiện được công việc này, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nghệ có trình độ và năng lực tương xứng.
Bên cạnh sự phát triển các nhà máy chế biến thuỷ sản ngày càng nhiều nếu không có biện pháp bảo vệ môi trường thì chất thải công nghiệp sẽ bị ô nhiểm nặng và ảnh hưởng nghiêm trọng tới nghề nuôi thuỷ sản của khu vực và quá trình này đặt ngành thuỷ sản trước những thách thức không nhỏ về an toàn vệ sinh thực phẩm ngày càng khắt khe hơn. Để đảm bảo phát triển XKTS gắn liền với khả năng và nguồn cung cấp nguyên liệu sạch, an toàn vệ sinh thực phẩm và thị hiếu của các thị trường, nhà nước đã xây dựng và ban hành hàng loạt tiêu chuẩn về điều kiện sản xuất và an toàn vệ sinh từ khâu chế biến đến khâu sản xuất nguyên liệu, thu mua và dịch vụ cho nghề cá như: 32 tiêu chuẩn về diều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm cho tất cả loại hình sản xuất theo cả chuỗi sản xuất, 28 tiêu chuẩn ngành 102/1997 về phương pháp thử đối với hầu hết các chỉ tiêu về chất lượng an toàn vệ sinh thuỷ sản.
Đã ban hành qui chế và thực hiện chương trình kiểm soát độc tố sinh học của vùng thu hoạch nhuyễn thể 2 vỏ và chương trình kiểm soát dư lượng hoá chất đối với các vùng nuôi thuỷ sản. Đến nay cả hai chương trình nói trên đã được EU công nhận với 18 vùng nhuyễn thể trong danh sách nhóm 01 các nước được phép xuất khẩu vào EU, từ đó tạo tiền đề được nhiều nước công nhận và có quan hệ hợp tác như Hàn Quốc, úc, Đài Loan, Canada... Ngoài ra nhiều tiêu chuẩn ngành về phụ gia, ghi nhãn, bao gói và phương pháp kiểm nghiệm đã và đang được ban hành
Ngành thuỷ sản đã xây dựng và ban hành các quy định về thủ tục, nội dung và phương pháp cũng như các chế tài xử phạt đầy đủ cho hoạt động quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh gồm:
- Các qui chế kiểm tra công nhận điều kiện đảm bảo an toàn vệ sinh cơ sở sản xuất kinh doanh thuỷ sản;
- Qui chế kiểm tra chứng nhận chất lượng sản phẩm;
- Qui chế kiểm soát dư lượng một số hoá chất độc hại trong sản phẩm thuỷ sản;
- Qui chế kiểm soát điều kiện an toàn vệ sinh vùng thu hoạch nhuyễn thể hai mãnh vỏ;
- Các qui chế quản lý vùng nuôi tôm, cá an toàn.
* Nâng cấp, đổi mới trang thiết bị
Hướng dẫn các cơ sở sản xuất đầu tư nâng cấp nhà xưởng, đổi mới trang thiết bị, tập huấn về thực hiện các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm;
*Nâng cao năng lực của cơ quan kiểm soát an toàn vệ sinh
- Tập trung nâng cấp trung tâm kiểm tra chất lượng và an toàn vệ sinh thuỷ sản (NAFIQACEN). Các phòng quản lý chất lượng của trung tâm hiện nay về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu kiểm tra.
- Tăng cường đào tạo cán bộ quản lý, thanh tra viên, kiểm nghiệm viên trong nước và nước ngoài.
- Nâng cao vai trò và vị trí của cơ quan này trong hoạt động đối ngoại và trong nước. Đã ký kết các thoả thuận công nhận về an toàn vệ sinh thực phẩm với Trung Quốc, Hàn Quốc, Canada, EU, và Mỹ cũng công nhận năng lực cơ quan này;
* Kiểm soát từng công đoạn theo cả quá trình sản xuất
Trong xuất nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh, bán lẻ, sử dụng thức ăn, thuốc thú y, hoá chất, chế phẩm sinh học dùng trong thuỷ sản;
- Trong nuôi trồng thuỷ sản: thực hiện chương trình kiểm soát dư lượng kháng sinh độc hại.
- Trong chế biến thuỷ sản: thực hiện kiểm tra về điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm (bao gồm cả việc áp dụng HACCP) các cơ sở sản xuất kinh doanh thuỷ sản.
- Thực trạng khai thác thuỷ sản tuy không tăng nhiều qua các năm (năm 1998 sản lượng khai thác đạt 1.155.000 tấn, đến năm 2004 đạt 1.724.200 tấn, tăng bình quân 4,67%/năm), nhưng bằng việc hướng dẫn và phối hợp giữa chế biến xuất khẩu với khai thác hải sản, ngư dân đã chuyển dần từ việc khai thác theo số lượng sang những đối tượng có giá trị xuất khẩu. Trước tác động nhiên liệu liên tục tăng trong thời gian qua, nhiều tàu thuyền đã chuyển hướng khai thác nhưng vẫn mang lại hiệu quả kinh tế cao, khai thác hải sản tốn ít nhiên liệu, chất lượng cao và lựa chọn đối tượng khai thác có giá trị xuất khẩu.
Nhiều loại cá trước đây không xuất khẩu được nay nhờ có thị trường và đổi mới công nghệ chế biến, đổi mới quản lý an toàn vệ sinh mà trở thành đối tượng khai thác có hiệu quả như: cá bò, cá ngân chỉ vàng, cá ngừ sọc dưa, cá cơm và các loại cá tạp thịt trắng.
1.1.2. Vai trò của xuất khẩu thủy sản đối với phát triển kinh tế - xã hội
Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đã góp phần tạo nên một hình ảnh Việt Nam khác trước với nhiều quốc gia và bạn bè trên thế giới. Đến nay, thuỷ sản Việt Nam đã có mặt tại 112 quốc gia và vùng lãnh thổ, đã đến được các thị trường tiêu thụ thuỷ sản với những yêu cầu khắc khe về vệ sinh an toàn thực phẩm. Hiện có 171 doanh nghiệp được cấp code xuất hàng vào thị trường EU - thị trường khó tính bậc nhất này, có 295 doanh nghiệp được Hàn quốc cho phép xuất khẩu hàng thuỷ sản vào Hàn quốc và 300 doanh nghiệp áp dụng HACCP đủ điều kiện xuất hàng thuỷ sản vào Mỹ.
Để xác định vai trò của ngành thuỷ sản xuất khẩu, không chỉ được xác định bởi thị trường mà còn được Nhà nước đánh giá cao và thông qua Hội nghị và được đưa vào nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng. Ngày 15/06/2000 Chính phủ đã ra nghị quyết số 09/2000/NQ-CP trong đó xác định hướng phát triển ngành thuỷ sản xuất khẩu thành ngành kinh tế mũi nhọn trong những năm tới.
Bảng 1.1: 10 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất Việt Nam
ĐVT: triệu USD
STT
Mặt Hàng
2000
2001
2002
2003
2004
2005
01
Dầu thô
4.500
3.400
2.900
8.100
9.000
02
Dệt may
1.891
1.975
2.732
3.609
4.429
4.838
03
Gạo
3.476
3.720
3.236
3.810
4.063
5.250
04
Giày dép
1.471
1587
1.875
2.260
2.691
3.039
05
Thuỷ sản
1.478
1.816
2.021
2.199
2.408
2.738
06
Cà Phê
733
931
722
749
976
892
07
Cao su
273
308
454
432
513
587
08
Hạt điều
34
43
62
82
104
109
09
Than đá
10
Lạc nhân
76
78
106
82
46
54
Nguồn: Bộ Thương mại.
Xuất khẩu thuỷ sản ngày càng phát triển và phát triển nhanh chóng cả về lượng và về chất, tính đến năm 2005 ngành thuỷ sản đã khẳng định vị trí quan trọng của mình trong vai trò xuất khẩu, giá trị đạt 2.738 triệu USD chiếm hơn 10% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc.
Với vai trò chủ lực trong các ngành xuất khẩu, XKTS đã góp một phần công sức của ngành trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước như sau:
1.1.2.1. Tạo nguồn vốn để tái sản xuất trong nội bộ ngành theo hướng đổi mới trang thiết bị, công nghệ và tăng thu ngoại tệ cho nền kinh tế quốc dân
Trong sự phát triển kinh tế theo xu hướng CNH,HĐH đất nước, để phù hợp với điều kiện phát triển chung của thế giới đòi hỏi chúng ta phải hiện đại hoá việc khai thác, nuôi trồng, chế biến, dịch vụ hậu cần ngành thuỷ sản. Do đó cần phải nhập khẩu một lượng lớn thiết bị từ nước ngoài về. Vậy, nguồn ngoại tệ lấy ở đâu?.Nguồn đó thường dựa vào các nguồn chủ yếu là: Vay, viện trợ, đầu tư từ nước ngoài, và xuất khẩu. Nguồn vay phải trả, nguồn viện trợ và đầu tư có hạn, nên nguồn chính từ xuất khẩu là rất quan trọng cho nhập khẩu. ở Việt Nam Xuất khẩu thuỷ sản là một trong những ngành xuất khẩu mạnh, đã đóng góp phần không nhỏ trong sự nghiệp phát triển đất nước.Chúng tôi cho rằng không chỉ Chính phủ, Bộ Thuỷ sản nhận thức đầy đủ những tiềm năng xuất khẩu, và nguồn thu ngoại tệ từ ngành thuỷ sản để có chính sách và đầu tư cho ngành thuỷ sản đúng mức mà còn phải làm cho các ngành và những người dân có liên quan ý thức được điều đó để bảo vệ, nuôi trồng, khai thác, có hiệu quả nguồn lới thuỷ sản.
Bảng 1.2: Tốc độ tăng trưởng về KNXK thuỷ sản Việt Nam
Năm
Kim ngạch XKTS (Triệu USD)
Tốc độ tăng (%)
1998
858
1999
985
14,8
2000
1.427
44,8
2001
1.777
24,5
2002
2.022
13,7
2003
2.216
9,6
2004
2.408
8,3
Nguồn: Hội chế biến và XKTS Việt Nam.
1.1.2.2. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát huy lợi thế so sánh của đất nước
Ngày nay, để phát triển kinh tế các quốc gia phải tận dụng được lợi thế của nền sản xuất trong nước. Xuất khẩu những hàng hoá thuộc thế mạnh của nền sản xuất trong nước mình và nhập khẩu những hàng hoá mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất nhưng chưa đáp ứng nhu cầu hoặc không mang lại hiệu quả. Chung qui, các quốc gia phải thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế nhất là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam.
Trong chiến lược phát triển kinh tế, Việt Nam đã đưa ra chiến lược hướng về xuất khẩu và xuất khẩu trở thành động lực trong sự phát triển kinh tế. Những yếu tố tiềm năng của Việt Nam là tài nguyên thiên nhiên và lao động, còn những yếu tố thiếu hụt là: vốn, thị trường và khả năng quản lý.Chiến lược hướng về xuất khẩu thực chất là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển trong khu vực.
XKTS đã làm tốt vai trò cầu nối giữa sản xuất với thị trường, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành, Trong nuôi trồng kích thích được bộ phận nuôi trồng chuyển dịch từ nuôi trồng cổ truyền sang nuôi hiện đại và nhân giống các loại sản phẩm có giá trị cao như: Tôm sú, tôm thẻ chân trắng, cá cam, tôm hùm, cá mú, nhuyễn thể... cũng như khai thác hải sản, cân đối giữa khai thác gần bờ và khai thác xa bờ và đã nâng cao chất lượng khai thác loại sản phẩm có giá trị cao như cá ngừ đại dương, mực,...Thực hiện chủ trương đánh bắt xa bờ theo quyết định 159/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, tăng đầu tư đóng tàu công suất lớn để đánh bắt, khai thác thuỷ sản xa bờ và trang bị thiết bị bảo quản nguyên liệu sau khi khai thác, hạn chế những phế phẩm bị bỏ đi do công nghệ bảo quản lạc hậu. Nguyên liệu dần đáp ứng đủ cho Nhà máy, góp phần thay đổi tư d
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van Thac si - in ngay 06-12-06-2.doc
- bia.doc