Đa số các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đều là những ngân
hàng có rất nhiều chi nhánh hoạt động ở khắp nơi trên thế giới. Đây là một trong
những lợi thế của ngân hàng nước ngoài khi thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán.
Bởi vì, khi bao thanh toán cho một đơn vịở quốc gia nào, chi nhánh tại ngân hàng
đó có thể thực hiện việc thẩm định khách hàng và thẩm định khả năng thu hồi
khoản phải thu được bao thanh toán này. Do đó, hạn chế khả năng xảy ra rủi ro cho
ngân hàng thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán.
So với ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng thương mại của chúng ta hiện
nay hoạt động chỉ tại lãnh thổ Việt Nam và chỉ có thể thực hiện việc quan hệ đại lý
với các ngân hàng tại các quốc gia khác.Số lượng các ngân hàng quan hệ đại lý
không nhiều và thông thường chỉ là quan hệ về tài khoản, quan hệ để thực hiện các
nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Để phục vụ tốt trong nghiệp vụ bao thanh toán, các
ngân hàng cần tạo lập mối quan hệ thân thiết và uy tín trong kinh doanh với các
ngân hàng đại lý nhằm tạo thuận lợi hơn trong việc thẩm định khách hàng. Bởi vì,
các ngân hàng đại lý có thể thực hiện nhiệm vụ của một tổ chức bao thanh toán
nhập khẩu (đối với nghiệp vụ bao thanh toán hai đơn vị bao thanh toán), thẩm định
năng lực của người mua và cung cấp thông tin cho chúng ta. Từ đó, tổ chức bao
thanh toán ra quyết định được chính xác hơn.
68
Bên cạnh đó, tổ chức bao thanh toán ởViệt Nam cần thamgia vào hiệp hội
tổ chức bao thanh toán toàn cầu FCI, mộtmạng lưới bao thanh toán lớn nhất thế
giới.
Hoạt động FCI dựa trên việc sử dụng một hệ thống thông tin liên lạc tiêu
chuẩn và thống nhất hoạt động trên toàn cầu. Hiệp hội hoạt động với rất nhiều tổ
chức bao thanh toán ở tại nhiều quốc gia khác nhau tham gia. Mỗi thành viên tham
gia sẽ phải tuân thủ các tiêu chí nghiêm ngặt về năng lực tài chính và cam kết về
các tiêu chuẩn dịch vụ cao. Khi tham gia hiệp hội này, ta có thể biết rõ thông tin về
người mua nhiều hơn do các tổ chức bao thanh toán trong hiệp hội tại quốc gia
người mua cư trú cung cấp. Việc hoạt động và tham gia trong hiệp hội này sẽ giúp
các đơn vị bao thanh toán nước ta trao dồikinh nghiệm và kỹ năng tác nghiệp trong
khi thực hiện nghiệp vu
84 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1287 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Phát triển và hoàn thiện nghiệp vụ bao thanh toán tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhất cho hệ thống bằng cách xây dựng nhiều
tiêu chuẩn, điều kiện tham gia vào sản phẩm. Từ đó, dẫn đến tình trạng nghiệp vụ
bao thanh toán bị thu hẹp lại.
Trên góc độ thực hiện vi mô, có thể thấy rằng nghiệp vụ bao thanh toán là
một nghiệp vụ rất mới, các đơn vị thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán hiện nay tại
Việt Nam hầu như không có kinh nghiệm thực tiễn. Họ buộc dựa vào những tài liệu
bao thanh toán của nước ngoài, nghiên cứu và xây dựng mô hình vận dụng dựa trên
những điều kiện của Việt Nam. Điều đó không thể tránh khỏi những sai sót, hạn
chế.
Vì thế, việc nghiên cứu và đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ
bao thanh toán khi áp dụng tại Việt Nam là rất quan trọng và cấp bách.
61
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN
THIỆN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
3.1 Sự cần thiết phải duy trì và phát triển nghiệp vụ bao thanh toán
Trong những năm gần đây, nền kinh tế của đất nước đã có sự thay đổi lớn.
Tốc độ phát triển kinh tế hàng năm luôn được duy trì ở mức 7-8%. Cơ cấu kinh tế
từng bước chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng sản xuất công nghiệp thương mại,
xuất nhập khẩu và dịch vụ… đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế của đất nước.
Sự phát triển đa dạng hóa các doanh nghiệp, công ty thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau là điều kiện tất yếu. Đối với nền kinh tế được xem là đang phát
triển như Việt Nam, đây là điều lạc quan nhưng cũng đồng thời là thách thức đối
với các nhà quản lý trong việc ổn định thị trường tài chính. Các doanh nghiệp mới
xuất hiện đều có nhu cầu rất lớn về vốn và vốn tài trợ từ kênh ngân hàng là một
kênh không thể thiếu.
Bên cạnh đó, việc mở cửa thị trường trong lĩnh vực ngân hàng trong nước là
điều tất yếu. Điều này sẽ làm cho các tổ chức tín dụng trong nước phải đối mặt với
sức ép cạnh tranh lớn hơn, nguồn thu sẽ giảm đi và những rủi ro của thị trường mới
ngày càng nhiều hơn. Các ngân hàng thương mại trong nước sẽ phải cạnh tranh bình
đẳng với các ngân hàng nước ngoài trong bối cảnh họ có nhiều lợi thế hơn về mặt
tài chính, kinh nghiệm quản lý, công nghệ dịch vụ hiện đại. Điều này buộc các
62
ngân hàng thương mại trong nước sẽ phải chấp nhận cuộc cạnh tranh quyết liệt để
tồn tại và phát triển thông qua việc nâng cao và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ.
Trong bối cảnh như vậy, nghiệp vụ bao thanh toán được biết đến như một sản
phẩm quan trọng trong lĩnh vực tài chính, tạo kênh phân phối các nguồn vốn nhằm
giúp các doanh nghiệp phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực
cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong khu vực và thế giới. Sở dĩ nghiệp vụ này
quan trọng như vậy bởi những ưu điểm của nó mang đến cho các bên thực hiện.
Bên cạnh đó, cùng với xu hướng phát triển chung của xã hội, khi các điều
kiện cơ bản của một nền kinh tế phát triển, xã hội được thiết lập như trình độ dịch
vụ ngân hàng cao và thanh toán qua ngân hàng là phổ biến… thì nghiệp vụ bao
thanh toán được áp dụng rộng rãi bởi những lợi ích của nó. Sự nhanh chóng, tiện lợi,
an toàn, đơn giản và các đơn vị bao thanh toán có thể kiểm soát tốt các khoản phải
thu là những yếu tố cơ bản giúp cho nghiệp vụ này được áp dụng rộng rãi.
Như vậy, với vai trò quan trọng và những ưu điểm của mình, sự tồn tại và
phát triển của nghiệp vụ bao thanh toán là rất cần thiết cho một nền kinh tế đang
phát triển như Việt Nam.
3.2 Triển vọng áp dụng nghiệp vụ bao thanh toán tại Việt Nam
3.2.1 Nghiệp vụ bao thanh toán trong nước
Việt Nam là một thị trường tiềm năng với dân số trên 80 triệu dân, mức độ
tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trên 7% từ năm 1995 đến nay. Các doanh
nghiệp luôn phải đối diện với một khó khăn rất lớn đó là nguồn vốn bị giới hạn.
Nhu cầu vốn của các doanh nghiệp là rất lớn, tuy nhiên ngân hàng và các tổ chức
tín dụng vì biện pháp hạn chế rủi ro và những bất trắc có thể xảy ra mà đã có
những quy định khắt khe, yêu cầu thế chấp khi doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn.
63
Vì vậy, việc phát triển nghiệp vụ bao thanh toán là một biện pháp rất tốt có thể
giúp doanh nghiệp lẫn ngân hàng có thể cởi mở trong những hình thức tín dụng.
Hơn nửa, Việt Nam là một quốc gia có khả năng thu hút FDI mạnh, nhưng
nguồn vốn này lại rất khó đến các doanh nghiệp tư nhân. Vì thế, để giải quyết vấn
đề vốn cho các doanh nghiệp, các ngân hàng phải có những nghiệp vụ ngân hàng
mới giúp các doanh nghiệp có thể mở rộng phạm vi huy động vốn, giúp cho vòng
quay vốn nhanh từ đó mở rộng đầu tư.
Chính thức gia nhập WTO vào tháng 11 năm 2006, các doanh nghiệp Việt
Nam đứng trước những vận hội mới cũng như những thách thức mới. Khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong nước với các đối với các doanh nghiệp nước ngoài
phụ thuộc rất lớn vào quy mô vốn. Trong điều kiện thiếu vốn chung đó thì nghiệp
vụ bao thanh toán tỏ ra là một trong những kênh tài trợ vốn linh hoạt cho các doanh
nghiệp Việt Nam mà không bị tồn đọng bởi các khoản phải thu. Chính lợi điểm này
mà trong tương lai có lẽ các doanh nghiệp Việt Nam sẽ chọn nghiệp vụ bao thanh
toán như một hình thức tài trợ mới.
3.2.2 Nghiệp vụ bao thanh toán quốc tế
Với xu thế hội nhập và tồn cầu hĩa hiên nay, việc giao thương giữa các nước
diễn ra ngày càng mạnh mẽ hơn, hoạt động xuất nhập khẩu tăng mạnh. Thực trạng đĩ
địi hỏi các doanh nghiệp khơng chỉ phát triển sản xuất, chiếm lĩnh thị trường trong
nước mà cịn mở rộng ra thị trường quốc tế. Khi đĩ, nhu cầu tài trợ cho xuất khẩu là vơ
cùng lớn. Trước thực trạng này, nghiệp vụ bao thanh tốn tỏ ra là một giải pháp hữu
hiệu.
Để đạt được kết quả khả quan trong hoạt động xuất khẩu thì hoạt động tín dụng
đã đĩng gĩp một phần khơng nhỏ. Nếu như hỗ trợ tín dụng của Nhà nước mang tầm vĩ
64
mơ và tác động một cách gián tiếp thì hỗ trợ tín dụng xuất khẩu của ngân hàng lại ảnh
hưởng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp một cách trực tiếp
và mang tính tức thời.
Hoạt động tín dụng của Nhà nước thời gian qua đã cĩ nhiều thành tựu đáng kể,
cụ thể là sự ra đời của Quỹ bình ổn giá và Quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu. Tuy nhiên,
đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi này là điều
khơng đơn giản, do họ gặp phải nhiều trở ngại trong khâu vay vốn bởi nhiều quy định,
thủ tục rắc rối và phức tạp. Một vấn đề khác là, do các quỹ khơng cĩ chức năng thanh
tốn nên các doanh nghiệp xuất khẩu thường thiên về vay vốn ngân hàng thương mại
để tiết kiệm thời gian, chi phí và tránh các thủ tục rườm rà.
Đồng thời với các điều chỉnh của Nhà nước thì hoạt động xuất khẩu của các
ngân hàng thương mại cũng khá sơi động. Hiện nay, hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu
trong lĩnh vực ngân hàng chủ yếu là phát hành bảo lãnh, chiết khấu chứng từ. Tuy
nhiên, chiết khấu chứng từ chủ yếu vẫn là chiết khấu cĩ truy địi. Còn nghiệp vụ bao
thanh tốn thì chỉ mới bước vào giai đoạn sơ khai.
Như vậy, với thực trạng đang thiếu vốn của các doanh nghiệp trong quá trình
tồn cầu hố và những lợi điểm của mình, tiềm năng phát triển của nghiệp vụ bao
thanh tốn xuất khẩu trên thị trường tài chính Việt Nam là rất lớn.
3.3 Những giải pháp phát triển và hoàn thiện nghiệp vụ bao thanh toán
tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
3.3.1 Giải pháp vĩ mô
3.3.1.1 Hoàn thiện cơ sở pháp lý
* Cơ sở pháp lý về bao thanh toán
- Nghiệp vụ bao thanh tốn được vận hành dưới sự điều chỉnh của QĐ
1096/2004/QĐ-NHNN quy định về một số điều liên quan đến nghiệp vụ bao thanh
tốn. Quyết định này ra đời được xem như một cơ sở pháp lý quan trọng cho các tổ
65
chức tín dụng trong và ngồi nước cung ứng nghiệp vụ bao thanh tốn. Tuy nhiên, như
đã đề cập ở chương 2, quy chế này còn quá chung chung mà lại chưa có các văn bản
cụ thể hướng dẫn việc triển khai nghiệp vụ. Vì thế, điều đầu tiên Chính phủ cần
làm là phải ban hành các thông tư, văn bản hướng dẫn cụ thể để các ngân hàng
thương mại có thể triển khai nghiệp vụ dễ dàng hơn. Điển hình như:
+ Cần phải ban hành văn bản hướng dẫn những chuẩn mực hách toán kế toán
chung cho nghiệp vụ bao thanh toán để các tổ chức tín dụng không gặp phải lung
túng khi thực hiện. Điều này sẽ giúp cho các đơn vị bao thanh toán có sự hạch toán
đồng nhất trong cùng một khoản mục kế toán, tạo điều kiện cho các cơ quan ban
ngành hữu quan dễ dàng thực hiện công việc kiểm soát nghiệp vụ bao thanh toán.
+ Quy định về các khoản phải thu phát sinh từ giao dịch, thỏa thuận đang có
tranh chấp: Cần đưa ra những quy định cụ thể rõ ràng về việc xử lý khi có tranh
chấp xảy ra. Điều này sẽ tạo tâm lý an tâm cho tổ chức tín dụng khi triển khai
nghiệp vụ.
+ Về việc chuyển giao quyền địi nợ: Việc chuyển giao quyền địi nợ hiện nay
chưa được pháp luật quy định rõ ràng. Một câu hỏi đặt ra là, thực chất việc chuyển giao
quyền địi nợ hiện nay cĩ được pháp luật Việt Nam thừa nhận hay khơng? Trên thực tế,
việc thực hiện chuyển giao quyền địi nợ chủ yếu dựa vào sự thỏa thuận của các bên
liên quan và khơng dựa trên một quy định nào của luật pháp về chuyển giao quyền địi
nợ. Điều này đã tạo tâm lý e ngại cho các tổ chức tín dụng khi đưa nghiệp vụ bao thanh
tốn vào áp dụng. Để nghiệp vụ này sớm được phát triển thì địi hỏi Chính phủ phải tạo
hành lang pháp lý trong việc quy định cụ thể về quyền và trách nhiệm của các bên liên
quan trong việc chuyển giao quyền địi nợ. Cần có những quy định về các chứng từ
liên quan đến chuyển giao quyền đòi nợ.
66
- Một điều mà các cơ quan Ngân hàng Nhà Nước cần làm là thành lập những
bộ phận chuyên trách nghiên cứu về nghiệp vụ tài chính mới này, trên cơ sở học
hỏi kinh nghiệm của các nước đã áp dụng thành công nghiệp vụ bao thanh toán trên
thế giới, đồng thời nghiên cứu kỹ những quy định quốc tế về nghiệp vụ bao thanh
toán, như Công ước UNIDROIT về bao thanh toán quốc tế, Công ước liên hiệp
quốc UNCITRAL về việc chuyển nhượng các khoản phải thu trong thương mại
quốc tế, và luật các Hiệp hội như các quy tắc chung về bao thanh toán quốc tế
GRIF của FCI và các quy tắc chung về bao thanh toán quốc tế GRIF của IFG. Từ
đó, soạn thảo những quy định, hướng dẫn phù hợp áp dụng vào thực tiễn nghiệp vụ
bao thanh toán tại Việt Nam.
* Cơ sở pháp lý về thương phiếu
Để nghiệp vụ bao thanh toán đi vào hoạt động thì mức độ tín nhiệm của
người dân đối với hối phiếu và lệnh phiếu phải lớn. Nói cách khác là phải làm sao
để cho loại thương phiếu này đi vào đời sống kinh tế. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật
về thương phiếu lại bộc lộ một số điểm bất cập như chưa đầy đủ, chưa đồng bộ,
chưa khả thi, chưa phù hợp thực tiễn và thông lệ quốc tế.
Luật thương mại xem thương phiếu là một chứng chỉ, trong khi đĩ Pháp lệnh
thương phiếu lại coi thương phiếu là một chứng chỉ cĩ giá. Chứng chỉ và chứng chỉ cĩ
giá là hai khái niệm rất khác nhau khơng những về nội dung, tính chất mà cịn giá trị
của nĩ nữa. Khái niệm thương phiếu trong pháp lệnh nhìn chung tương đối hồn chỉnh
hơn, nĩ khơng những đúng với kỳ phiếu mà cịn đúng với hối phiếu. Khi nĩi đến chứng
chỉ cĩ giá là người ta đề cập đến một tài sản tài chính cĩ thể mua đi bán lại, chuyển
nhượng, cầm cố, thế chấp, chiết khấu… ngược lại nĩi đến chứng chỉ chỉ là một dạng
chứng từ đơn thuần. Vậy thì, khi sử dụng thương phiếu, khái niệm của nguồn luật nào
67
sẽ được áp dụng, Luật thương mại hay Pháp lệnh thương phiếu? Áp dụng theo Luật
thương mại thì khơng đầy đủ, thiếu chính xác, áp dụng theo Pháp lệnh thì lại trái với
Luật thương mại, trong khi luật lại cao hơn pháp lệnh.
Vì vậy, cần sớm ban hành Luật thương phiếu để giải quyết tranh chấp trong
nghiệp vụ bao thanh tốn.
3.3.1.2 Điều kiện về mạng lưới ngân hàng
Đa số các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đều là những ngân
hàng có rất nhiều chi nhánh hoạt động ở khắp nơi trên thế giới. Đây là một trong
những lợi thế của ngân hàng nước ngoài khi thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán.
Bởi vì, khi bao thanh toán cho một đơn vị ở quốc gia nào, chi nhánh tại ngân hàng
đó có thể thực hiện việc thẩm định khách hàng và thẩm định khả năng thu hồi
khoản phải thu được bao thanh toán này. Do đó, hạn chế khả năng xảy ra rủi ro cho
ngân hàng thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán.
So với ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng thương mại của chúng ta hiện
nay hoạt động chỉ tại lãnh thổ Việt Nam và chỉ có thể thực hiện việc quan hệ đại lý
với các ngân hàng tại các quốc gia khác. Số lượng các ngân hàng quan hệ đại lý
không nhiều và thông thường chỉ là quan hệ về tài khoản, quan hệ để thực hiện các
nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Để phục vụ tốt trong nghiệp vụ bao thanh toán, các
ngân hàng cần tạo lập mối quan hệ thân thiết và uy tín trong kinh doanh với các
ngân hàng đại lý nhằm tạo thuận lợi hơn trong việc thẩm định khách hàng. Bởi vì,
các ngân hàng đại lý có thể thực hiện nhiệm vụ của một tổ chức bao thanh toán
nhập khẩu (đối với nghiệp vụ bao thanh toán hai đơn vị bao thanh toán), thẩm định
năng lực của người mua và cung cấp thông tin cho chúng ta. Từ đó, tổ chức bao
thanh toán ra quyết định được chính xác hơn.
68
Bên cạnh đó, tổ chức bao thanh toán ở Việt Nam cần tham gia vào hiệp hội
tổ chức bao thanh toán toàn cầu FCI, một mạng lưới bao thanh toán lớn nhất thế
giới.
Hoạt động FCI dựa trên việc sử dụng một hệ thống thông tin liên lạc tiêu
chuẩn và thống nhất hoạt động trên toàn cầu. Hiệp hội hoạt động với rất nhiều tổ
chức bao thanh toán ở tại nhiều quốc gia khác nhau tham gia. Mỗi thành viên tham
gia sẽ phải tuân thủ các tiêu chí nghiêm ngặt về năng lực tài chính và cam kết về
các tiêu chuẩn dịch vụ cao. Khi tham gia hiệp hội này, ta có thể biết rõ thông tin về
người mua nhiều hơn do các tổ chức bao thanh toán trong hiệp hội tại quốc gia
người mua cư trú cung cấp. Việc hoạt động và tham gia trong hiệp hội này sẽ giúp
các đơn vị bao thanh toán nước ta trao dồi kinh nghiệm và kỹ năng tác nghiệp trong
khi thực hiện nghiệp vụ.
3.3.1.3 Thiết lập và hoàn chỉnh hệ thống thông tin khách hàng
Thông tin doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng để các ngân hàng thương
mại Việt Nam có một cách nhìn đúng đắn về khách hàng vay. Tuy nhiên, hiện nay,
đa phần thông tin liên quan đến các doanh nghiệp đều chưa được công khai phổ
biến. Hầu hết các doanh nghiệp đều bí mật về thông tin. Vẫn còn rất nhiều doanh
nghiệp Việt Nam chưa có thói quen thực hiện việc kiểm toán. Đây là một trong
những nguyên nhân gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thực hiện tài trợ cho
doanh nghiệp. Khi quyết định tài trợ cho khoản phải thu nào tổ chức bao thanh toán
cũng cần tiến hành việc thẩm định người mua và người bán cũng như thẩm định khả
năng thu hồi các khoản phải thu. Nhưng do thông tin đều không được công khai nên
gây khó khăn cho tổ chức bao thanh toán trong việc thực hiện thẩm định. Vì vậy,
rủi ro cho tổ chức bao thanh toán có thể sẽ xảy ra do thiếu thông tin, dẫn đến việc
69
đánh giá sai lầm và quyết định tài trợ sai. Để hạn chế rủi ro trong nghiệp vụ bao
thanh toán, tổ chức bao thanh toán cần nắm rõ thông tin để ra quyết định đúng. Để
thực hiện điều này:
- Các doanh nghiệp cần tạo lập thói quen thực hiện việc kiểm toán một cách
trung thực và công khai thông tin. Các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, đa phần đều thực hiện hệ thống nhiều sổ sách kế toán và thực hiện việc
báo cáo không trung thực. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho ngân hàng trong
việc thẩm định và đánh giá khách hàng. Vì thế, chính phủ cần có những quy định cụ
thể về việc công khai thông tin và trung thực về số liệu trên báo cáo.
- Nghiệp vụ bao thanh toán xảy ra rủi ro hầu hết là từ phía người mua, do đó,
việc thẩm định người mua và khả năng thu hồi khoản phải thu là quan trọng nhất.
Thông tin từ phía người mua đối với nghiệp vụ bao thanh toán là rất quan trọng.
Ngân hàng có thể thu thập thông tin về người mua thông qua các ngân hàng đại lý
hoặc tổ chức FCI. Việc mở rộng quan hệ đại lý và tham gia vào FCI là điều không
thể thiếu được khi thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán. Thực hiện được điều này sẽ
giúp tổ chức bao thanh toán có nhiều thông tin chính xác về người mua hơn. Do đó,
khi ra quyết định bao thanh toán chúng ta sẽ hạn chế được rủi ro xảy ra do thiếu
thông tin cũng như thiếu kinh nghiệm trong việc thẩm định khách hàng và thẩm
định khả năng có thể thu hồi của các khoản phải thu.
- Thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhằm tạo thêm sản
phẩm và điều kiện để thị trường chứng khoán phát triển. Việc phát triển thị trường
chứng khoán sẽ tạo thói quen và buộc các doanh nghiệp công khai thông tin. Trên
thị trường chứng khoán, nhà đầu tư muốn đầu tư vào chứng khoán nào cũng cần
phải nắm rõ về tình hình hoạt động và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Do đó,
70
thông tin trên thị trường chứng khoán phải là công khai và chính xác. Bên cạnh việc
công khai thông tin, khi thị trường chứng khoán phát triển, các doanh nghiệp sẽ gia
tăng năng lực cạnh tranh và gia tăng năng lực sản xuất. Chính điều này sẽ thúc đẩy
gia tăng nhu cầu vốn trong các doanh nghiệp và làm gia tăng nhu cầu tài trợ, từ đó,
tạo cơ sở để nghiệp vụ bao thanh toán phát triển.
3.3.1.4 Quy định về quản lý rủi ro trong nghiệp vụ bao thanh toán
Rủi ro chủ yếu trong nghiệp vụ bao thanh toán thường xuất phát từ phía
người mua (nhà nhập khẩu), nghĩa là khi người mua không có khả năng hoàn trả
cho một khoản nợ thương mại mà ngân hàng đã tài trợ cho người bán. Vì thế, cần
có những quy định để hạn chế rủi ro. Một trong những nghiệp vụ mà ngân hàng có
thể sử dụng để hạn chế rủi ro chính là việc sử dụng các công cụ bảo hiểm. Có thể
nói, công ty bảo hiểm là công cụ tốt nhất cho nghiệp vụ bao thanh toán trong việc
phòng ngừa rủi ro. Tuy nhiên, hiện nay thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn còn yếu
so với thị trường bảo hiểm thế giới, và sản phẩm bảo hiểm cho các khoản tài trợ
ngân hàng chưa đa dạng, các công ty bảo hiểm vẫn chưa thực hiện bảo hiểm cho
nghiệp vụ bao thanh toán.
Vì thế, nhằm làm giảm rủi ro cho tổ chức bao thanh toán khi thực hiện
nghiệp vụ, chính phủ cần ban hành các quy định về việc sử dụng các công cụ bảo
hiểm rủi ro trong bao thanh toán, cho phép các công ty bảo hiểm thực hiện các
nghiệp vụ bảo hiểm bao thanh toán. Có thể thực hiện các hình thức bảo hiểm như
sau:
+ Bảo hiểm toàn bộ: Đơn vị bao thanh toán có thể tiến hành mua bảo hiểm
toàn bộ cho khoản bao thanh toán. Khi rủi ro xảy ra, công ty bảo hiểm sẽ chịu toàn
bộ rủi ro. Do đó, đơn vị bao thanh toán sẽ hạn chế được rủi ro.
71
+ Bảo hiểm chia sẽ tổn thất: Đơn vị bao thanh toán thực hiện việc mua bảo
hiểm theo phần trăm. Nghĩa là khi tổn thất xảy ra, công ty bảo hiểm chỉ chịu một
phần tổn thất theo tỷ lệ phần trăm đã thực hiện việc bảo hiểm, phần còn lại là do tổ
chức bao thanh toán gánh chịu.
+ Bảo hiểm vượt tổn thất: Đơn vị bao thanh toán quy định số tổn thất có thể
gánh chịu do rủi ro gây ra là bao nhiêu trên giá trị một khoản bao thanh toán, phần
còn lại sẽ mua bảo hiểm. Khi rủi ro xảy ra, đơn vị bao thanh toán sẽ chịu tổn thất
trên mỗi khoản phải thu tối đa trên số tiền đã thỏa thuận và công ty bảo hiểm sẽ
chịu bất kỳ phần tổn thất nào vượt quá thỏa thuận đó.
+ Bảo hiểm vượt quá tổn thất tổng thể: Đơn vị bao thanh toán có thể thực
hiện ký kết hợp đồng bảo hiểm tổn thất tổng thể trong một năm. Loại bảo hiểm này
nhằm bảo vệ đơn vị bao thanh toán trong trường hợp có sự tích tụ quá lớn các tổn
thất trong năm bất kỳ. Đơn vị bao thanh toán sẽ thỏa thuận với công ty bảo hiểm
một giá trị tổn thất trong năm và nếu toàn bộ tổn thất nợ khó đòi vượt quá giá trị đã
thỏa thuận thì công ty bảo hiểm sẽ thanh toán phần vượt đó.
3.3.2 Giải pháp vi mô
3.3.2.1 Về sản phẩm
Nghiệp vụ bao thanh toán vẫn còn là một sản phẩm dịch vụ tài chính khá
mới mẻ trong hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế Việt Nam. Do đó, để
phát triển nghiệp vụ này, ta cần phải:
3.3.2.1.1 Tạo nhận biết về sản phẩm cho người tiêu dùng
Cần xác định nghiệp vụ bao thanh toán là một sản phẩm tài chính và khách
hàng là các doanh nghiệp hoạt động mua bán hàng hoá và có phát sinh các khoản
phải thu.
72
Sản phẩm tài chính cũng giống như sản phẩm hàng hoá thông thường khác,
chỉ khác nhau một điểm là tính năng sử dụng. Do đó, việc phát triển sản phẩm cũng
có những nét giống như phát triển các hàng hoá thông thường khác. Bất cứ doanh
nghiệp nào, muốn phát triển sản xuất đều phải nghiên cứu cải tiến chất lượng và đa
dạng hoá sản phẩm để phục vụ người tiêu dùng. Để làm việc này, các doanh
nghiệp cần tiến hành nghiên cứu sản phẩm mới và đưa sản phẩm ra thị trường.
Trước khi đưa sản phẩm ra thị trường, ta cần phải thăm dò và cho khách hàng làm
quen với sản phẩm mới. Các doanh nghiệp thường chọn cách phổ biến nhất là
quảng cáo sản phẩm để khách hàng biết đến sản phẩm của mình.
Đối với nghiệp vụ bao thanh toán cũng thế, do còn quá mới lạ, người tiêu
dùng vẫn chưa nhận ra tính ưu việt của nghiệp vụ này. Vì thế, điều đầu tiên chúng
ta cần thực hiện việc giới thiệu cho khách hàng làm quen với nghiệp vụ.
- Để giới thiệu nghiệp vụ này đến người có nhu cầu sử dụng, điều đầu tiên
mà các tổ chức bao thanh toán hay ngân hàng cần thực hiện là tổ chức các buổi tập
huấn, giới thiệu về nghiệp vụ này cho các cán bộ công tác tại ngân hàng về ưu
nhược điểm và nội dung nghiệp vụ. Một khi các nhân viên ngân hàng hiểu rõ về
nghiệp vụ bao thanh toán thì việc tư vấn cho khàch hàng về sản phẩm dịch vụ này
cũng sẽ rõ ràng, chính xác và dễ hiểu hơn.
- Bước tiếp theo chúng ta cần làm là thực hiện việc quảng cáo về sản phẩm
dịch vụ. Việc quảng cáo sẽ làm cho các doanh nghiệp chú ý tới sản phẩm. Có thể
thực hiện quảng cáo thông qua các phương tiện thông tin như tờ bướm, truyền đơn,
báo, đài, trên mạng, hoặc thông qua việc tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề.
Chúng ta không thể phát triển một sản phẩm khi người tiêu dùng không biết
gì về sản phẩm mà chúng ta cung cấp. Khách hàng chỉ phát sinh nhu cầu và sử
73
dụng dịch vụ khi họ biết rõ về dịch vụ mà ta cung cấp. Do đó, việc tạo nhận biết về
sản phẩm cho người tiêu dùng là vô cùng quan trọng trong việc phát tr
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 46770.pdf