Luận văn Phát triển kinh tế tư nhân từ giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Việc các DNNQD trong thời gian qua khó tiếp cận đượcnguồn vốn tín

dụng từ các NHTM xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng trong đó nguyên

nhân cơ bản là các NHTM chưa tin tưởng vào các doanh nghiệp này. Do đó,

để tạo sự tin tưởng đối với các NHTM thì bản thân các doanh nghiệp này

phải tạo lập một khả năng tín chấp của mình khi tiếp cận với các nhà tài trợ

bằng cách: thực hiện nghiêm túc các qui định của Nhà nước, của pháp luật

trong hoạt động kinh doanh sản xuất như đóng thuế đầy đủ cho nhà nước,

kinh doanh không được lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tăng tính chính xác trung

thực báo cáo tài chính, thực hiện chế độ sổ sách kế toán theo qui định, không

lập hai hệ thống sổ sách kế toán (một gửi cục Thuế,một gửi ngân hàng vay

vốn). Tăng tích luỹ và tăng cường đầu tư để tăng năng lực tài chính, từng

bước đáp ứng các điều kiện tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, từ đó tạo cơ sở

cho các NHTM tin tưởng và có thể tiếp cận được nguồn vốn tín dụng. Bên

cạnh đó, để tăng cường độ tin cậy, cácdoanh nghiệp chủ động mở tài khoản

tại ngân hàng và tích cựcsử dụng các dịch vụ tiện ích của ngân hàng như:

thanh toán điện, nước, điện thoại, trảlương nhân viên, bảo lãnh thầu, bảo

lãnh hợp đồng, thanh toán công nợ marketing sản phẩm và dịch vụ sau bán

hàng có chất lượng tốt, có uy tín trên thị trường củadoanh nghiệp đến ngân

hàng, từ độ tạo được lòng tin của ngânhàng đối với doanh nghiệp mình.

Các DNNQD cần phát uy tối đa lợi thế so sánh hiện có của mỗi doanh

nghiệp để tập trung phát triển sản xuất kinh doanh, xây dựng chiến lược hoạt

động kinh doanh tầm trung dài hạn. Cần chú trọng vào việc nghiên cứu đổi

mới máy móc thiết bị, công nghệ để tạo nên bước đột phá trong việc nâng

78

cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Trong điều kiện còn khó khăn về

vốn, công nghệ thì phải biết lựa chọn những khâu quan trọng trong dây

chuyền sản xuất có ảnh hưởng đến chất lượng và giáthành sản phẩm để đầu

tư hiện đại hoá. Tăng cường mối liên kết giữa doanh nghiệp với người tiêu

dùng để nắm bắt thông tinphản hồi về sản phẩm, từ đó hoàn thiện sản phẩm

dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng,nâng cao khả năng cạnh tranh của

doanh nghiệp, chiếm lĩnh được thị phần tiêu thụ giúp ổn định tình hình sản

xuất kinh doanh.

pdf112 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 934 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Phát triển kinh tế tư nhân từ giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nâng cao các kiến thức về pháp luật và kỹ năng quản lý hiện đại cho đội ngũ giám đốc và cán bộ kinh doanh đặc biệt là cán bộ xây dựng dự án, marketing, thanh toán quốc tế và cần đào tạo những kỹ năng như phân tích kinh doanh, dự đoán và định hướng chiến lược, kỹ năng quản trị chiến lược, quản trị rủi ro và tính nhạy cảm trong quản lý. Bồi dưỡng đào tạo nghiệp vụ cho người lao động thông qua các khoá đào tạo ngắn ngày, chú trọng đúng mức đến lợi ích vật chất và tinh thần của người lao động để tạo ra sự gắn bó của họ với doanh nghiệp. 81 Ngoài ra, chủ doanh nghiệp mạnh dạn thuê người có trình độ làm giám đốc, thuê các công ty có đủ chức năng thực hiện các báo cáo tài chính nhằm nâng cao nghiệp vụ chuyên môn và quản lý doanh nghiệp. Thứ tư, đẩy mạnh khai thác các kênh thông tin phục vụ sản xuất kinh doanh Để có thể đưa ra một sản phẩm dịch vụ được thị trường chấp nhận, các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu và nắm rõ nhu cầu thị trường về sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cũng như qui mô thị trường, đối thủ cạnh tranh… từ đó mới hoạch định chiến lược, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả. Muốn vậy, trước hết doanh nghiệp phải nắm bắt thông tin kịp thời về chiến lược phát triển kinh tế trong từng thời kỳ, thời điểm của nhà nước qua việc nghiên cứu các thông tin từ Viện Kinh tế, Sở Kế hoạch và trong các Văn kiện đại hội của Đảng và của Đảng bộ Tp. HCM. Sau đó có chiến lược nghiên cứu thị trường, khái thác thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thường xuyên theo dõi, khai thác thông tin trên mạng, tham gia hội chợ triển lãm để tìm kiếm cơ hội kinh doanh, sự trợ giúp về vốn, kỹ thuật từ bên ngoài. Việc nắm bắt thông tin đầy đủ và kịp thời giúp các doanh nghiệp đưa ra những quyết định đúng đắn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, đem lại hiệu quả tốt trong môi trường kinh doanh có độ rủi ro cao. Ngoài ra, các DNNQD cần phải tăng cường khả năng sử dụng các dịch vụ tư vấn vào việc tăng cường khả năng kinh doanh của mình là rất cần thiết từ các tổ chức tài chính, thuế, kế toán, kiểm toán, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, pháp luật, marketing, công nghệ môi trường… Hầu hết các chuyên gia tư vấn đều có trình độ cao và kinh nghiệm thực tế về từng lĩnh vực cụ thể. 82 Chính vì vậy, tiếp nhận thông tin từ họ được coi là những thông tin chính xác và có hiệu quả thực tiễn cao. Ngày nay các doanh nghiệp sống trong thời đại bùng nổ thông tin. Do đó các doanh nghiệp muốn tiếp cận được nguồn vốn tín dụng từ các NHTM thường xuyên và có hiệu quả cần phải am hiểu về các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, các văn bản qui định của pháp luật hiện hành về cho vay, bảo lãnh, quyền và nghĩa vụ cũng như lợi ích và bất lợi khi sử dụng các sản phẩm dịch vụ này. Vì vậy, đẩy mạnh khai thác các kênh thông tin sẽ cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin cần thiết phục vụ cho việc xây dựng và thực hiện có hiệu quả các dự án sản xuất kinh doanh. Tóm lại, vai trò của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đối với nền kinh tế đã và đang được khẳng định. Hội nhập kinh tế và khu vực đã trở thành hiện thực đối với nước ta. Mặc dù trong những năm qua các doanh nghiệp tư nhân đã có bước trưởng thành lớn mạnh nhưng để có thể phát triển hơn nữa doanh nghiệp cần phải tích cực giải quyết tốt vấn đề về vốn. Hy vọng cùng với những nỗ lực của DNNQD trong việc khắc phục những hạn chế còn tồn tại thì việc tiếp cận nguồn vốn các NHTM sẽ được nâng cao. Tạo điều kiện cho DNNQD Việt Nam có thể nâng cao năng lực cạnh tranh và ganh đua được với những đối thủ nước ngoài. III.2.2 Giải pháp từ phía ngân hàng III.2.2.1 Nâng cao khả năng huy động vốn Phát triển KTTN nằm trong quá trình CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân, do vậy nhu cầu vay vốn tăng nhanh ở khu vực kinh tế này. Để phục vụ cho mục tiêu đáp ứng đủ vốn cho các doanh nghiệp, các ngân hàng phải thực hiện giải pháp đồng bộ về huy động vốn. 83 Để tăng cường nguồn vốn, NHTM cần áp dụng các biên pháp như: cần tập trung đẩy mạnh các biện pháp huy động vốn cả VND, vàng và ngoại tệ nhất là vốn trung và dài hạn phải đạt tốc độ tăng trưởng cao. Huy động vốn trung dài hạn ở trong nước, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trung và dài hạn của các tổ chức tài chính quốc tế. Xây dựng chính sách lãi suất huy động vốn hợp lý để có thể thu hút được nhiều nguồn vốn của khách hàng. Tiếp tục hoàn thiện quy chế bảo hiểm tiền gửi nhằm tạo sự an tâm cho người gửi tiền. Mở rộng việc bảo hiểm tiền gửi cho cả ngoại tệ và vàng vì thực chất chúng đều là tài sản của người gửi tiền. Các ngân hàng phải có biện pháp chủ động tích cực thu hồi các khoản nợ, nhất là xử lý thu hồi nợ quá hạn, nợ tồn đọng một cách hiệu quả để tăng cường nguồn vốn cho vay. Ngoài việc tiếp tục sử dụng và hoàn thiện dần các hình thức huy động vốn truyền thống, các NHTM cần chủ động tiến hành đa dạng hoá các hình thức huy động vốn theo hướng thoả mãn tối đa nhu cầu gửi tiền của khách hàng bằng cách mở rộng nhiều hình thức huy động tiền gừi tiết kiệm với nhiều thời hạn, nhiều loại lãi suất, nhiều phương thức gửi và thanh toán khác nhau bên cạnh việc kết hợp với những hình thức khuyến khích vật chất mà thời gian qua các NHTM áp dụng như: xổ số có thưởng, quà lưu niệm… Sự linh hoạt trong hoàn trả rất cần thiết, các NHTM có thể hoàn toàn thực hiện việc này thông qua mạng lưới chi nhánh của mình, hay rộng hơn là phối hợp với các NHTM khác đảm bảo cho khách hàng gửi một nơi nhưng có thể rút ra ở nhiều nơi nhằm đảm bảo an toàn, giảm chi phí vận chuyển và tiết kiệm thời gian. Mặt khác, các NHTM cần nghiên cứu cải tiến giờù giấc giao dịch, ứng dụng mô hình kế toán kiêm thủ quỹ ở một thời hạn gửi và rút tiền cho phép rút ngắn thời gian giao dịch với khách hàng. 84 Tóm lại, trên cơ sở tăng cường được nguồn vốn, các NHTM mới mở rộng được việc cho vay trung và dài hạn để tăng tỷ lệ cho vay trung và dài hạn, có một cơ cấu dư nợ phù hợp, vì vậy cần nghiên cứu hoàn thiện các chính sách huy động vốn để nguồn vốn huy động được tăng lên đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế, trong đó các vấn đề liên quan đến lãi suất, tỷ giá rất nhạy cảm, cần được NHNN quan tâm, chỉ đạo tiếp tục tạo sự ổn định. III.2.2.2 Mở rộng tín dụng ngân hàng đối với DNNQD Thứ nhất, xây dựng chiến lược khách hàng bình đẳng, hình thành bộ phận chuyên về DNNQD để có điều kiện đi sâu nghiên cứu Các NHTM cần xây dựng chiến lược khách hàng, ngoài việc mở rộng cho vay những khách hàng truyền thống, cần mở rộng hoạt động nỗ lực tìm kiếm khách hàng bằng cách xây dựng chiến lược cho vay các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh mới thành lập và có triển vọng trong kinh doanh như các công ty cổ phần, công ty TNHH, doanh nhiêp tư nhân đảm bảo sự bình đẳng thực sự giữa các khách hàng. Chiến lược cần bao gồm: chiến lược hoạt động, qui trình và thủ tục cho vay, marketing.. Chiến lược tổng thể này nhằm mở rộng hoạt động cho vay một cách vững chắc hiệu quả và lâu dài. Đối với khu vực kinh tế tư nhân, các NHTM cần chú trọng các doanh nghiệp vay vốn đầu tư xây dựng, mua sắm, cải tiến dây chuyền máy móc thiết bị phục vụ cho việc nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm với mục tiêu tăng khả năng cạnh tranh ngay trong từng loại sản phẩm, nhất là các sản phẩm có lợi thế về sản xuất, có thị trường tiêu thụ và những sản phẩm nằm trong lộ trình hội nhập với các nước trong khu vực. Đối với các hàng 85 hoá chất lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì các NHTM phải ưu tiên bố trí nguồn vốn trung và dài hạn để các doanh nghiệp này được vay vốn với thời hạn phù hợp với thời gian thu hồi vốn của dự án. Bên cạnh đó, ngân hàng cải tiến hình thức tín dụng theo hướng mở rộng cho vay trung dài hạn để các DNNQD có điều kiện đầu tư chiều sâu, đầu tư mới hay mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, công nghệ. Các NHTM mạnh dạn hơn nữa trong việc cho các đối tượng kinh tế dân doanh vay vốn thông qua các hình thức thương mại thông thường có thế chấp hay tín chấp đối với từng dự án, áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay hay được cho vay không có bảo đảm tài sản theo qui định. Các NHTM phối hợp với các quỹ bảo lãnh khi quỹ này được thành lập để mở rộng cho vay đối với các DNNQD, phối hợp với Cục thuế để nắm bắt tình hình hoạt động của doanh nghiệp, xem doanh nghiệp có thực hiện nghiêm túc chế độ nộp thuế, làm ăn có hiệu quả…Trong trường hợp doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có uy tín trong quan hệ tín d ụng thì các NHTM cần xem xét quyết định cho vay không có tài sản đảm bảo để có thể mở rộng mức cho vay. Hoạt động cho vay khó có thể mở rộng nếu thiếu bộ phận chuyên trách, vì vậy nên hình thành bộ phận chuyên cho vay DNNQD trong các NHTM. Bộ phận chuyên trách này chịu trách nhiệm tìm hiểu những khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp này, qua đó có những tư vấn cho doanh nghiệp về mặt pháp lý, thị trường trong ngắn hạn cũng như dài hạn, chế độ kế toán, khả năng quản lý, nghiên cứu sản phẩm, cung cấp tín dụng và quản lý các khoản vay. Có như vậy, công tác kiểm tra thẩm định hồ sơ vay vốn có độ 86 chính xác cao, hạn chế rủi ro về các mặt như doanh nghiệp không có thực, dự án không khả thi… Vậy, các NHTM cần phải bình đẳng hơn nữa trong quan hệ tín dụng giữa các loại hình doanh nghiệp, xoá dần khoảng cách phân biệt giữa các thành phần kinh tế. xoá bỏ phân biệt tín dụng về lãi suất cho vay cũng như hạn mức tín dụng giữa DNNN và DNNQD. Aùp dụng những hình thức ưu đãi về lãi suất, về thời hạn nợ, về cơ sở đảm bảo… đối với những DNNQD làm ăn có uy tín, nhằm khuyến khích các doanh nghiệp nói chung cạnh tranh lành mạnh trong quan hệ với ngân hàng để tranh thủ nguồn vốn từ phía nhà tài trợ. Hệ thống ngân hàng cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và toàn diện chính sách khách hàng trên cơ sở nâng cao chất lượng phục vụ và đổi mới phong cách phục vụ theo hướng chu đáo và tận tình hơn đối với các doanh nghiệp. Các ngân hàng sẽ chủ động tìm đến các doanh nghiệp để tìm hiểu nhu cầu cung cấp thông tin và tư vấn để các doanh nghiệp có thể lựa chọn và sử dụng các dịch vụ một cách có hiệu quả nhất. Thứ hai, các ngân hàng cần nới lỏng điều kiện cho vay, quan tâm sâu sắc đến tính khả thi của kế hoạch sản xuất kinh doanh Thực tế đã chứng minh rằng điều kiện quan trọng để đảm bảo an toàn đồng vốn cho vay không phải là tài sản thế chấp mà là tính khả thi của phương án, dự án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó cho phép khắc phục tình trạng thiếu tài sản thế chấp vay vốn từ việc nâng cao năng lực thẩm định dự án, phương án vay vốn của các NHTM. Vì thế các NHTM cần quan tâm đúng mức đến kế hoạch sản xuất kinh doanh của DNNQD khi cho vay. 87 Kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một tài liệu xác định rõ ràng và chính xác những mục tiêu của doanh nghiệp trong thời gian tới như mô tả doanh nghiệp sẽ làm gì, việc đó thực hiện như thế nào, ở đâu, doanh nghiệp sẽ huy động vốn như thế nào, quản lý vốn ra sao… đồng thời doanh nghiệp còn đề ra các phương pháp để đạt những mục tiêu đó. Do vậy kế hoạch sản xuất kinh doanh là một công cụ để cung cấp thông tin cho cán bộ tín dụng muốn tìm hiểu hoạt động và mục tiêu của doanh nghiệp. Kế hoạch có tính hiện thực, tính khả thi là một trong những căn cứ quan trọng hành đầu để quyết định cho vay. Việc thu hồi vốn vay phải dựa vào năng lực chi trả trong tương lai của doanh nghiệp, trong đó tính hiệu quả kinh tế của kế hoạch sẽ tạo tiền đề để trả nợ. Vì vậy, cần xác định đối tượng cho vay là các phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư có tinh khả thi cao. Vậy, ngân hàng cần nới lỏng điều kiện vay vốn. Thay vì coi trọng tài sản đảm bảo như thời gian qua, các ngân hàng cần thẩm định kỹ tình hình hoạt động, khả năng tài chính, khả năng thanh toán để có những đánh giá đúng mức về thực trạng kinh doanh của doanh nghiệp. Quan tâm đến kế hoạch sản xuất kinh doanh, tính khả thi và hiệu quả của phương án để có quyết định đúng đắn trong quá trình thẩm định, xét duyệt nhằm giảm thiểu rủi ro khi cho vay và không bỏ lỡ cơ hội đầu tư. Đây là biện pháp để các doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng có thể tiếp cận được nguồn vốn tín dụng chính thức. Thứ ba, cải cách thủ tục và quy trình cho vay theo hướng gọn nhẹ Các DNNQD khó tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân nổi cộm là thủ tục phức tạp, quá nhiều khâu, nhiều cửa làm cho các doanh nghiệp ngại tiếp xúc trong vấn đề vay vốn. 88 Trong xu thế chung của cả nước cải cách hành chính, ngành ngân hàng cần hoàn thiện hệ thống bằng công nghệ hiện đại, qui trình cho vay phải gọn nhẹ nhanh chóng đáp ứng kịp thời nhu cầu người vay nhưng vẫn đảm bảo tính pháp lý đầy đủ. Trên cơ sở áp dụng công nghệ mới và các chuẩn mực theo thông lệ quốc tế, các ngân hàng rà soát lại và chỉnh sửa các quy trình nghiệp vụ, thủ tục theo hướng đơn giản hoá, tiện lợi nhưng vẫn đảm bảo an toàn hệ thống và có sự kiểm soát chặt chẽ đối với hoạt động cho vay để giảm bớt khó khăn, phiền phức mà các doanh nghiệp còn phàn nàn khi tiếp cận và sủ dụng vốn vay ngân hàng. Các qui trình và thủ tục mới sẽ được phổ biến rộng rãi để các doanh nghiệp biết chủ động thực hiện. Các NHTM phải xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO nhằm xây dựng hệ thống quản lý chất lượng cho riêng mình qua đó tiêu chuẩn hoá các qui trình, thủ tục cung cấp sản phẩm dịch vụ cho khách hàng nói chung và sản phẩm tín dụng nói riêng. Các ngân hàng phải niêm yết công khai và tiếp cận trực tiếp với khách hàng để hướng dẫn về điều kiện cho vay, qui trình, thủ tục vay, thời gian tối đa giải quyết món vay và kịp thời thẩm định quyết định cho vay đối với các nhu cầu vay vốn. Về thời hạn cho vay, các doanh nghiệp có nhu cầu về vốn trung dài hạn lớn do phải thay đổi công nghệ, thiết bị nhiều, do đó các NHTM cần lưu ý trong việc xác định thời hạn cho vay phù hợp với khả năng sinh lời và tuổi thọ của thiết bị, không nên gò ép về thời hạn cho vay theo chủ quan sẽ dẫn tới áp lực về tài chính cho doanh nghiệp. Không qui định tỷ lệ vốn vay theo tài sản thế chấp hay tồng mức đầu tư mà cho vay theo nhu cầu dự án hay phương án kinh doanh. 89 Ngoài ra, các NHTM cần nghiên cứu để áp dụng biện pháp cho vay “tín chấp” thay thế cho việc phải thế chấp tài sản-một hình thức “cầm đồ cao cấp” trong quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp và ngân hàng hiện nay. Khi những thông tin để có thể áp dụng phương thức “tín chấp” chưa đủ, có thể ngiên cứu áp dụng biện pháp chấp nhận thế cấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay một cách phổ biến hơn nữa. Vậy, các NHTM cần tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tiếp cận một cách thuận lợi nguồn vốn tín dụng ngân hàng theo hướng cải tiến điều kiện cho vay và đơn giản hoá qui trình, thủ tục, hồ sơ cho vay, rút ngắn thời gian giải quyết cho vay nhưng vẫn đảm bảo thực hiện đúng qui định của pháp luật. Thứ tư, phát triển các sản phẩm tín dụng mới phủ hợp với nhu cầu của DNNQD Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đa số là các doanh nghiệp có qui mô nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp này có vốn tự có thấp, tài sản dùng để thế chấp, cầm cố vay vốn ngân hàng ít. Bởi vậy vay vốn ngân hàng dưới hình thức thế chấp, cầm cố tài sản là rất khó khăn, vay vốn tín chấp lại không đủ điều kiện qui định của ngân hàng cho vay. Nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp này tiếp cận nhiều hình thức vay vốn để đáp ứng các nhu cầu của doanh nghiệp nhất là trong việc đổi mới công nghệ, dây chuyền sản xuất với số vốn lớn vượt qua khả năng của doanh nghiệp, các NHTM cần phải mở rộng thêm các hình thức đầu tư, cho vay mới thích hợp với các doanh nghiệp thuộc loại hình trong đó chú trọng hình thức tín dụng thuê mua. Các TCTD mở rộng hình thức tài trợ này sẽ phát huy được những tác dụng sau: doanh nghiệp không có hoặc có tài sản thế chấp, cầm cố ít vẫn thuê được tài 90 sản để sử dụng cho quá trình sản xuất kinh doanh. Tiền thuê được trả dần theo nhiều năm, do đó không gây khó khăn tài chính cho doanh nghiệp đi thuê. doanh nghiệp có đủ điều kiện máy móc thiết bị đảm bảo kỹ thuật tiên tiến và công nghệ mới cho sản xuất kinh doanh để tạo ra sản phẩm đủ tiêu chuẩn cạnh tranh trên thị trường. Hình thức thuê mua này góp phần làm tăng mức cho vay tín chấp và đẩy mạnh tốc độ phát triển các dịch vụ ngân hàng phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để hình thức này thực sự có hiệu quả, các ngân hàng phải am hiểu nhu cầu của các doanh nghiệp cũng như thị trường máy móc thiết bị, công nghệ mà họ có nhu cầu, phải hoàn thiện được hệ thống văn bản qui định chặt chẽ quyền và nghĩa vụ giữa hai bên. Bên cạnh đó, cùng những hình thức tài trợ thông thường như cho vay theo dự án, cho vay bảo lãnh, góp vốn liên doanh, liên kết… Phát triển hơn nữa loại hình cho vay hợp vốn để tạo điều kiện cho NHTM có thề đồng tài trợ những dự án đầu tư qui mô lớn. Hình thức cung ứng tín dụng nữa mà NHTM cần phát triển là cung ứng tín dụng thông qua cho vay chiết khấu, cầm cố hay bảo lãnh thương phiếu. Có thể nói sự tham gia của các NHTM sẽ tạo đòn bẩy rất tích cực để thương phiếu nhanh chóng trở thành công cụ thanh toán cho nền kinh tế nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, giao lưu thương mại giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Tóm lại, các ngân hàng cần quan tâm cung cấp sản phẩm tín dụng cho các doanh nghiệp với những kỳ hạn, thể loại và mục đích khác nhau mà luật pháp không cấm, đảm bảo theo yêu cầu sao cho phù hợp với tình hình của các DNNQD. Cần đẩy mạnh, phát triển hoạt động cho thuê tài chính trên địa bàn thành phố vì đây là hình thức có thể khắc phục được tình trạng thiếu tài 91 sản thế chấp, thiếu vốn tự có tham gia lớn của các doanh nghiệp hiện nay và đồng thời giúp các NHTM thảo gỡ được tình trạng đóng băng vốn và giảm bớt rủi ro. Thứ năm, thay đổi quan điểm nhận thức của cán bộ tín dụng về các DNNQD và nâng cao trình độ thẩm định dự án Các ngân hàng cần có chính sách đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao kiến thức cho cán bộ nhân viên, chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, thấm nhuần chính sách nhà nước của đội ngũ cán bộ nghiệp vụ đặc biệt cần nâng cao trình độ thẩm định các dự án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chương trình đào tạo nhằm thay đổi nhận thức về DNNQD cho các NHTM là cần thiết để xoá đi mặc cảm về khu vực kinh tế đầy tiềm năng này và đồng thời trợ giúp cho việc xây dựng chiến lược hướng vào cho các DNNQD. Cán bộ thẩm định không chỉ tinh thông về nghiệp vụ chuyên môn mà còn hiểu biết rộng rãi, sâu sắc các nghiệp vụ bổ trợ như chuyên môn các ngành kỹ thuật và các ngành kinh tế khác. Đồng thời phải nắm bắt thông tin kịp thời, chính xác về các phương án, dự án vay vốn. Cán bộ tín dụng cần nắm chắc cơ chế tín dụng để họ vừa có đủ khả năng thẩm định dự án từ đó làm cơ sở cho vay vốn có hiệu quả, vừa có khả năng ứng xử bình đẳng trong việc giải quyết nhu cầu vay vốn, đảm bảo giải ngân vốn đúng tiến độ và làm tốt công tác tư vấn cho doanh nghiệp trong việc vay vốn, sử dụng vốn có hiệu quả đảm bảo khả năng trả nợ đầy đủ đúng thời hạn. Ngoài ra còn phải quan tâm đến đội ngũ kiểm tra, kiểm soát nội bộ, chất lượng kiểm tra, phương thức kiểm tra các khoản vay nhằm cung cấp thông tin kịp thời cho ban lãnh đạo 92 các ngân hàng từ đó có biện pháp khắc phục kịp thời hạn chế tối đa rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Vậy, ngân hàng có cán bộ tín dụng giỏi tư vấn giúp doanh nghiệp xây dựng các dự án phát triển kinh doanh đảm bảo tính khả thi cao để đầu tư vốn cho doanh nghiệp, kiểm tra giám sát việc thực hiện dự án, thu hồi vốn và lãi đúng hạn. Tư vấn tốt cho khách hàng về thủ tục vay vốn, quan hệ giao dịch với ngân hàng. Hạn chế tối đa những vướng mắc, lúng túng không cần thiết từ các doanh nghiệp khi quan hệ tín dụng với ngân hàng. Loại bỏ trung gian giao dịch gây phiền hà và tốn kém cho doanh nghiệp. Có biện pháp giảm thiểu tối đa tình trạng hình sự hoá quan hệ tín dụng sẽ là điều kiện để các ngân hàng tăng cường cho các đối tượng của KTTN vay vốn có thế chấp hay tín chấp. Thứ sáu, phát triển các dịch vụ ngân hàng Các NHTM cần phải đẩy mạnh tốc độ phát triển các dịch vụ ngân hàng như: dịch vụ thanh toán với tiện ích ngày cao, nhanh chóng chính xác an toàn, thủ tục thuận tiện, dịch vụ tư vấn về pháp lý, thị trường, cung cấp thông tin để khách hàng hiểu rõ về qui chế cho vay, lập phương án, dự án đầu tư, thông tin về thị trường sản phẩm nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thực hiện thủ tục vay vốn, qua đó thu hút nhiều khách hàng thuộc KTTN đến với ngân hàng ngày càng nhiều. Tuỳ theo điều kiện cụ thể, mỗi ngân hàng có biện pháp thu hút khách hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán, tài khoản cá nhân, tạo điều kiện để phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, đồng thời hỗ trợ cho hoạt động tín dụng, nắm bắt khách hàng tốt hơn. Ngoài ra cũng để tiếp cận rộng hơn, ngân hàng cũng cần triển khai việc giới thiệu các loại hình tín dụng, các 93 dịch vụ ngân hàng trên mạng kết hợp với cả việc giải đáp thắc mắc cho khách hành về những vấn đề liên quan đến thể lệ tín dụng. Vậy, các ngân hàng cần đa dạng và nâng cao chất lượng dịch vụ đến các DNNQD. Điều này vừa tạo nên sự tiện ích cho khách hàng cũng như tạo mối dây liên hệ giữa ngân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf43792.pdf
Tài liệu liên quan