Hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến to lớn, sức sản xuất được giải phóng, nhiều tiềm năng được khơi dậy, hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển mạnh với số lượng các doanh nghiệp trong cả nước tăng lên nhanh chóng, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N ). Loại hình doanh nghiệp này đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp và có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội.
Cùng với các DNV&N trong lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ, doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ là một trong những nhân tố đảm bảo sự ổn định và bền vững của nền kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động , khai thác và tận dụng có hiệu quả tiền năng về vốn, tay nghề và những nguồn lực còn tiềm ẩn trong dân cư, góp phần phân bố công nghiệp trên các địa bàn khác nhau, giữ vai trò bổ sung cho công nghiệp lớn, cân bằng những vấn đề kinh tế- xã hội; bảo tồn các làng nghề truyền thống, thể hiện bản sắc văn hoá dân tộc. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi mà nước ta đang trong quá trình tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước thì sự phát triển của các DNV&N nói chung và các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ nói riêng lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Tuy vậy, các doanh nghiệp này hiện dạng gặp rất nhiều khó khăn cả từ bên trong( như năng lực quản lý kinh doanh còn hạn chế, công nghệ lạc hậu, chất lượng sản phẩm thấp ) và từ môi trường kinh doanh bên ngoài. Để có thể tồn tại , phát triển và tiến hành họat động kinh doanh có hiệu quả, đóng góp nhiều hơn nữa vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, các doanh nghiệp này rất cần có sự quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ của toàn xã hội.
Nhận thức được vấn đề, qua thời gian thực tập tại phòng Công nghiệp Thành phố Thái Nguyên, được tận mắt thấy những khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở địa bàn này. Vận dụng những kiến thức đã được trang bị cộng với sự giúp đỡ của thầy giáo hướng dẫn, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: "Phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên - Thực trạng và một số giải pháp" để viết luận văn tốt nghiệp , với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc nhìn nhận thực trạng các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên và đưa ra một số ý kiến nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này phát triển.
Kết cấu luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận gồm có ba chương:
Chương I: Lý luận cơ bản về DNV&N.
Chương II: Thực trạng phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên
Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên.
78 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1128 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên - Thực trạng và một số giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Trang
Lời cảm ơn
1
Mục lục
2
Lời nói đầu
5
Chương I: Lý luận cơ bản về DNV&N
7
I. Khái quát về DNV&N
7
1. Khái niệm doanh nghiệp
7
2. Tính tất yếu khách quan của sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của DNV&N
7
3. Tiêu thức xác định DNV&N
9
3.1. Tiêu thức xác định
9
3.2. Các yếu tố tác động đến phân loại DNV&N
10
3.3. Tiêu thức xác định DNV&N theo quan điểm của một số nước trên thế giới
13
3.4. Khái niệm DNV&N ở Việt Nam
15
II. Vai trò của DNV&N trong phát triển kinh tế - xã hội
16
III. Các lợi thế và bất lợi của DNV&N
19
1. Một số lợi thế
19
2. Một số bất lợi
21
IV. Những nhân tố tác động đến sự phát triển DNV&N
21
1. Nhóm nhân tố vi mô
22
1.1. Thị trường
22
1.2. Vốn
23
1.3. Trình độ trang thiết bị – công nghệ của doanh nghiệp
23
1.4. Nhân tố nhà xưởng, mặt bằng sản xuất kinh doanh và kết cấu hạ tầng kỹ thuật khác của DNV&N
24
1.5. Kiến thức, trình độ quản lý kinh doanh của các chủ doanh nghiệp, tri thức và trình độ tay nghề của lực lượng lao động
24
1.6. Khả năng tiếp cận hệ thống thông tin
25
2. Nhóm nhân tố vĩ mô
25
2.1. Hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nước
25
2.2. Hệ thống tổ chức quản lý kiểm soát của nhà nước và các thiết chế cộng đồng xã hội nông thôn
26
2.3. Hệ thống các biện pháp và tổ chức hỗ trợ của nhà nước
27
Chương II: Thực trạng phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Thái Nguyên
29
I. Khái quát chung về đặc điểm kinh tế – xã hội của thành phố Thái Nguyên
29
1. Điều kiện tự nhiên
29
2. Điều kiện kinh tế – xã hội
30
II. Quá trình hình thành và phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh trên địa bàn thành phố Thái Nguyên
33
1. Giai đoạn trước khi ban hành Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty (ngày 21/12/1990)
33
2. Giai đoạn sau khi có Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty (1990)
34
III. Giới thiệu những nét cơ bản về tình hình phát triển công nghiệp trên địa bàn thành phố Thái Nguyên
36
1. Phát triển các doanh nghiệp
36
2. Tình hình phát triển một số nhóm ngành công nghiệp chủ yếu
40
2.1. Nhóm ngành nghề luyện kim, cơ khí
40
2.2. Nhóm ngành nghề sản xuất vật liệu xây dựng
41
2.3. Nhóm ngành chế biến nông lâm sản
43
IV. Thực trạng phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Thái Nguyên
44
1. Sự phân bố theo ngành nghề và địa bàn lãnh thổ
44
2. Thực trạng về vốn
46
3. Quy mô lao động và trình độ lao động
48
4. Tình hình công nghệ
49
5. Thực trạng về mặt bằng sản xuất kinh doanh
50
6. Quy mô sản xuất
50
7. Chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh
51
8. Hiệu quả sản xuất kinh doanh
52
V. Đánh giá chung về thực trạng phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Thái Nguyên
54
1. Những thành tích đạt được
54
2. Một số tồn tại cần khắc phục
56
Chương III: Một số giải pháp phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Thái Nguyên
59
I. Một số quan điểm định hướng
59
II. Một số giải pháp chính nhằm phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Thái Nguyên
65
1. Hệ thống các giải pháp liên quan đến nhóm các nhân tố bên trong tác động đến sự phát triển của các doanh nghiệp
65
1.1. Nâng cao năng lực tài chính
65
1.2. Tích cực đầu tư đổi mới công nghệ
67
1.3. Xúc tiến mở rộng thị trường
68
1.4. Nâng cao trình độ đội ngũ lao động
69
2. Hệ thống các giải pháp liên quan tới các nhân tố bên ngoài tác động đến sự phát triển của các doanh nghiệp
71
2.1. Đẩy mạnh cải cách hành chính
72
2.2. Tiến hành quy hoạch các khu công nghiệp tập trung
72
2..3. Hỗ trợ về vốn
73
2.4. Đổi mới chính sách thuế
74
2.5. Hỗ trợ kinh phí cho việc đào tạo đội ngũ lao động
75
2.6. Thành lập các tổ chức phi Chính phủ để hỗ trợ các DNV&N
76
Kết luận
78
Danh mục tài liệu tham khảo
79
Lời nói đầu
Hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến to lớn, sức sản xuất được giải phóng, nhiều tiềm năng được khơi dậy, hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển mạnh với số lượng các doanh nghiệp trong cả nước tăng lên nhanh chóng, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N ). Loại hình doanh nghiệp này đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp và có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội.
Cùng với các DNV&N trong lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ, doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ là một trong những nhân tố đảm bảo sự ổn định và bền vững của nền kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động , khai thác và tận dụng có hiệu quả tiền năng về vốn, tay nghề và những nguồn lực còn tiềm ẩn trong dân cư, góp phần phân bố công nghiệp trên các địa bàn khác nhau, giữ vai trò bổ sung cho công nghiệp lớn, cân bằng những vấn đề kinh tế- xã hội; bảo tồn các làng nghề truyền thống, thể hiện bản sắc văn hoá dân tộc. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi mà nước ta đang trong quá trình tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước thì sự phát triển của các DNV&N nói chung và các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ nói riêng lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Tuy vậy, các doanh nghiệp này hiện dạng gặp rất nhiều khó khăn cả từ bên trong( như năng lực quản lý kinh doanh còn hạn chế, công nghệ lạc hậu, chất lượng sản phẩm thấp ) và từ môi trường kinh doanh bên ngoài. Để có thể tồn tại , phát triển và tiến hành họat động kinh doanh có hiệu quả, đóng góp nhiều hơn nữa vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, các doanh nghiệp này rất cần có sự quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ của toàn xã hội.
Nhận thức được vấn đề, qua thời gian thực tập tại phòng Công nghiệp Thành phố Thái Nguyên, được tận mắt thấy những khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở địa bàn này. Vận dụng những kiến thức đã được trang bị cộng với sự giúp đỡ của thầy giáo hướng dẫn, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: "Phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên - Thực trạng và một số giải pháp" để viết luận văn tốt nghiệp , với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc nhìn nhận thực trạng các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên và đưa ra một số ý kiến nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này phát triển.
Kết cấu luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận gồm có ba chương:
Chương I: Lý luận cơ bản về DNV&N.
Chương II: Thực trạng phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên
Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên.
Chương I
Lý luận cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ
I. Khái quát về doanh nghiệp vừa và nhỏ ( DNV&N )
1. Khái niệm về doanh nghiệp
Để nhận diện DNV&N một cách có cơ sở khoa học chúng ta đi từ việc xác định doanh nghiệp nói chung. Có khá nhiều định nghĩa doanh nghiệp ở hình thức này hay hình thức khác.
Theo Viện thống kê và nghiên cứu kinh tế Pháp- INSEE " Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế mà chức năng chính là sản xuất ra các của cải vật chất hoặc dịch vụ để bán "
Luật công ty nước ta xác định : " Doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh", bao gồm doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, công ty.
Theo luật doanh nghiệp mới ban hành: " Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo qui định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh"
Doanh nghiệp phân theo cấp quản lý có doanh nghiệp Trung ương, doanh nghiệp địa phương; theo ngành kinh tế kĩ thuật có doanh nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp thương mại- dịch vụ, doanh nghiệp nông nghiệp. Cuối cùng nếu phân theo qui mô sản xuất kinh doanh thì có doanh nghiệp qui mô lớn, doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ.
2. Tính tất yếu khách quan của sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N)
Lịch sử ra đời và phát triển nền sản xuất hàng hoá gắn liền với sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp. Giai đoạn tiền sử ( C. Mác gọi là sản xuất hàng hoá giản đơn) không có sự phân biệt giữa giới chủ và người thợ. Người sản xuất hàng hoá là người sở hữu các tư liệu sản xuất, vừa là người lao động trực tiếp, vừa là người điều khiển (quản lý) công việc của mình (của gia đình), vừa là người trực tiếp mang sản phẩm của mình ra trao đổi trên thị trường. Đó là loại doanh nghiệp cá thể, doanh nghiệp gia đình, còn gọi là doanh nghiệp cực nhỏ. Trong thời kì hiện đại, thông thường đại đa số những người khi mới trưởng thành để làm việc được, đều muốn thử sức mình trong nghề kinh doanh. Với số vốn ít trong tay, với một trình độ tri thức nhất định lĩnh hội được trong các trường chuyên nghiệp, bắt đầu khởi nghiệp, phần lớn họ đều thành lập doanh nghiệp nhỏ chỉ của riêng mình, tự sản xuất- kinh doanh.
Trong sản xuất kinh doanh có một số người gặp vận may và đặc biệt là nhờ tài ba, biết chớp thời cơ, có sáng kiến cải tiến kĩ thuật, khéo điều hành và tổ chức xắp xếp công việc, cần cù, chịu khó, tiết kiệm...đã thành đạt, ngày càng giàu lên, tích luỹ được nhiều của cải, tiền vốn thường xuyên mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, đến một giai đoạn nào đó lực lượng lao động của gia đình không đảm đương hết công việc cần phải thuê người làm và trở thành ông chủ. Ngược lại, một bộ phận lớn người sản xuất hàng hoá khác, hoặc do không gặp vận may, hoặc do kém cỏi không biết chớp thời cơ, không biết sáng kiến cải tiến kĩ thuật hoặc thiếu cần cù chịu khó... đã dẫn đến thua lỗ triền miên, buộc phải bán tư liệu sản xuất đi làm thuê cho người khác. Những giai đoạn đầu các ông chủ và những người thợ cùng trực tiếp lao động với nhau và người thợ làm thuê thường là bà con họ hàng và láng giềng của ông chủ, về sau mở rộng ra đến những người ở xa đến. Các nhà nghiên cứu thường xếp những loại doanh nghiệp này vào phạm trù doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, một số người thành đạt đã phát triển doanh nghiệp của mình bằng cách mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, và như vậy nhu cầu về vốn đòi hỏi nhiều hơn. Nhu cầu về vốn sẽ ngày càng tăng, nhằm nâng cao công suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh đã thôi thúc các nhà doanh nghiệp hoặc là một số người góp vốn thành lập xí nghiệp liên doanh (xí nghiệp chung vốn), hoặc phát hành cổ phiếu thành lập công ty cổ phần. Bằng hình thức liên kết ngang, dọc hoặc hỗn hợp nhiều tập đoàn kinh tế, nhiều doanh nghiệp lớn hình thành và phát triển.
Nền kinh tế của một quốc gia là do tổng thể các doanh nghiệp lớn, bé tạo thành. Phần đông các doanh nghiệp lớn trưởng thành, phát triển từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua liên kết với các doanh nghiệp vừa và nhỏ khác. Qui luật đi từ nhỏ đến lớn là con đường tất yếu của sự phát triển bền vững mang tính phổ biến cuả đại đa số các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và trong quá trình công nghiệp hóa. Đồng thời, sự tồn tại đan xen và kết hợp các loại qui mô doanh nghiệp làm cho nền kinh tế của mỗi nước khắc phục được tính đơn điệu, sơ cứng tạo nên tính đa dạng, phong phú linh hoạt vừa đáp ứng các xu hướng phát triển đi lên lẫn những biến đổi nhanh chóng cuả thị trường trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đảm bảo tính hiệu quả chung của toàn nền kinh tế.
Để phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa không thể không có các doanh nghiệp qui mô lớn, vốn nhiều, kĩ thuật hiện đại làm nòng cốt trong từng ngành, nhằm tạo ra sức mạnh để cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ngoài việc xây đựng doanh nghiệp qui mô lớn cần thiết, chúng ta còn thực hiện các biện pháp tăng khả năng tích tụ và tập trung của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo điều kiện cho chúng nhanh chóng vươn lên trở thành các doanh nghiệp lớn. Sự kết hợp các loại qui mô doanh nghiệp trong từng ngành cũng như trong toàn nền kinh tế, trong đó nhấn mạnh đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là phù hợp với xu thế chung và thích hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay. Vì vậy phát triển mạnh các doanh nghiệp vừa và nhỏ với công nghệ hiện đại thích hợp nhằm thu hút nhiều lao động là phương hướng quan trọng của quá trình phát triển kinh tế- xã hội theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở Việt Nam.
3. Tiêu thức xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ
3.1. Vấn đề xác định tiêu thức
Việc đưa ra khái niệm chuẩn xác về DNV&N có ý nghĩa lớn để xác định đúng đối tượng hỗ trợ. Nếu phạm vi đối tượng hỗ trợ quá rộng sẽ không đủ sức bao quát và tác dụng hỗ trợ sẽ giảm đáng kể, vì hỗ trợ tất cả có nghĩa là không hỗ trợ ai. Còn nếu phạm vi đối tượng hỗ trợ quá hẹp thì sẽ không có ý nghĩa và ít tác dụng trong nền kinh tế. Chính vì vậy, ở hầu hết các nước người ta rất chú trọng nghiện cứu tiêu thức phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên không có tiêu thức thống nhất để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ cho tất cả các nước vì điều kiện kinh tế của các nước là khác nhau và ngay trong một nước, sự phân loại cũng khác nhau tuỳ theo từng thời kì, từng ngành nghề, từng vùng lãnh thổ.
Trên thực tế có hai tiêu thức phổ biến dùng để phân loại DNV&N là: tiêu thức định tính và tiêu thức định lượng.
Nhóm tiêu thức định tính dựa trên những đặc trưng cơ bản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ như : Không có vị thế độc quyền, chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp.... Các ưu thế này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế . Do đó nó thường làm cơ sở để tham khảo, kiểm chứng mà ít được sử dụng để phân loại trong thực tế.
Nhóm tiêu chí định lượng bao gồm các tiêu chí như số lượng lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó :
-Số lượng lao động có thể là lao động trung bình trong danh sách, lao động thường xuyên, lao động thực tế;
- Tài sản hoặc vốn có thể dùng tổng giá trị tài sản ( hay vốn ), tài sản ( hay vốn ) cố định, giá trị tài sản còn lại;
-Doanh thu có thể là tổng doanh thu/ năm, tổng giá trị gia tăng / năm ( hiện nay có xu hướng sử dụng chỉ số này ).
Trong thực tế mỗi nước có những quan niệm khác nhau và lựa chọn tiêu thức không hoàn toàn giống nhau, tuy vậy để tiện cho việc so sánh quốc tế, một khái niệm DNV&N dựa trên tiêu thức số lượng lao động được sử dụng có thể là thích hợp nhất, bởi vì nó không dễ dàng chịu ảnh hưởng của những khác biệt giữa các quốc gia về mức thu nhập cũng như những thay đổi trong gía trị của đồng tiền nội địa hiện hành qua các thời kì các nhau. Ngoài tiêu thức lao động , tiêu thức thứ hai là tổng vốn đầu tư cũng được nhiều người quan tâm sử dụng. Thông thường đơn vị đo lường là đồng tiền nội địa nhưng để khắc phục hạn chế của nó trong việc so sánh quốc tế, người ta qui đổi ra loại tiền thông dụng được sử dụng trong giao dịch quốc tế như đô la Mỹ.
Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước mà người ta còn quan tâm tới độ lớn của mỗi tiêu thức lao động hoặc vốn đầu tư trong các ngành, các nhóm ngành khác nhau.
3.2. Các yếu tố tác động đến phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ
Sự phân loại doanh nghiệp theo qui mô lớn, vừa, nhỏ mang tính chất tương đối cả về không gian và thời gian. Một doanh nghiệp" nhỏ" ở Mỹ, Nhật hay Đài loan chắc chắn sẽ lớn hơn một doanh nghiệp "nhỏ" ở Việt Nam. Và một doanh nghiệp nhỏ ở một nước nào đó trong hiện tại chắc chắn sẽ lớn hơn qui mô của doanh nghiệp nhỏ tại nước đó vào thời kỳ trước đó. Nguyên nhân dẫn đến những đặc tính này là do sự phân loại doanh nghiệp theo qui mô chịu tác động của nhiều yếu tố, các yếu tố chính tác động đến việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ của một nước có thể kể ra là:
- Trình độ phát triển kinh tế của một nước
Trình độ phát triển càng cao thì trị số các tiêu chí càng tăng lên. Như vậy, ở một nước có trình độ phát triển kinh tế thấp thì các chỉ số về lao động, vốn để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ thấp hơn so với các nước phát triển. Chẳng hạn ở Nhật Bản , doanh nghiệp có 300 lao động và 1 triệu USD tiền vốn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, còn ở Thái Lan với qui mô như vậy thì đó lại là doanh nghiệp lớn.
- Tính chất ngành nghề
Do đặc điểm của từng ngành nghề, có ngành sử dụng nhiều lao động (như dệt may ) có ngành sử dụng nhiều vốn nhưng ít lao động ( như hoá chất, điện ). Do đó, cần có các tính chất này để có sự so sánh sánh đối chứng trong phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ giữa các ngành khác nhau. Trên thực tế ở nhiều nước , người ta thường phân chia thành hai đến ba nhóm ngành với các tiêu thức phân loại khác nhau. Chẳng hạn các nghành sản xuất ( chỉ số các tiêu thức thường cao hơn ), các ngành dịch vụ ( chỉ số các tiêu thức thấp hơn ). Ngoài ra có thể dùng khái niệm hệ số ngành ( Ib ) để so sánh đối chứng giữa các ngành khác nhau.
- Vùng lãnh thổ
Do trình độ phát triển giữa các vùng khác nhau, nên số lượng và qui mô doanh nghiệp cũng khác nhau. Chẳng hạn một số doanh nghiệp ở thành phố được coi là nhỏ, nhưng nó lại lớn so với vùng miền núi , nông thôn. Do đó cần tính đến hệ số vùng( Ia ) để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh qui mô doanh nghiệp giữa các vùng khác nhau.
- Mục đích phân loại
Khái niện doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ khác nhau khi mục đích phân loại khác nhau. Chẳng hạn khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ với mục đích phân loại là hỗ trợ các doanh nghiệp yếu mới ra đời sẽ khác khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ với mục đích là để giảm thuế cho các doanh nghiệp có công nghệ sạch, hiện đại, không gây ô nhiễm môi trường.
- Tính lịch sử
Một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn, nhưng với qui mô như vậy hiện tại hoặc tương lai có thể là nhỏ hoặc vừa. Chẳng hạn ở Đài loan năm 1967 trong ngành công nghiệp doanh nghiệp có qui mô dưới 130.000 USD ( 5 triệu đô la Đài loan ) là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong khi đó năm 1989 tiêu chí này là 1,4 triệu USD ( 40 triệu đô la Đài loan ). Như vậy trong việc xác định qui mô doanh nghiệp, cần tính thêm hệ số tăng trưởng qui mô doanh nghiệp trung bình ( Id ) trong từng giai đoạn. Chỉ số này chỉ xác định qui mô doanh nghiệp cho các thời kỳ khác nhau.
Như vậy để xác định qui mô doanh nghiệp vừa và nhỏ của một nước, trước hết cần xác định qui mô trung bình chung, sau đó xác định hệ số Ib, Ia, Id
Có thể xác định qui mô doanh nghiệp làm căn cứ để tính số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các ngành nghề trên địa bàn khác nhau theo công thức:
Ia x Ib
F (Sba) = x Sa
Id
Trong đó :
F ( Sba): Qui mô doanh nghiệp thuộc ngành trên điạ bàn cụ thể
Ia ,Ib, Id : Tương ứng là hệ số vùng, ngành và hệ số phát triển qui mô doanh nghiệp;
Sa : Qui mô doanh nghiệp chung trong một nước.
Vấn đề đặt ra là cần xác định qui mô chung doanh nghiệp vừa và nhỏ (Sa) và các hệ số tương ứng như thế nào để việc phân loại đáp ứng đựơc các mục tiêu đặt ra.
3.3. Tiêu thức xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ theo quan điểm của một số nước trên thế giới
Hiện nay có rất nhiều các cách phân loại khác nhau về DNV&N. Các nước khác nhau với thực trạng kinh tế - xã hội và quan điểm khác nhau nên có cách phân loại khác nhau về DNV&N.
Đài loan
Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ bắt đầu được sử dụng trên vùng lãnh thổ này từ năm 1967. Ngay từ đầu doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đài loan được phân theo hai nhóm ngành : Nhóm ngành thứ nhất là công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và nhóm ngành thứ hai là thương mại, vận tải , và các dịch vụ khác. Từ năm 1977 Đài Loan lại tách thêm nhóm ngành thứ ba là ngành khai khoáng. Trong công nghiệp chế biến và khai thác người ta dùng tiêu chí vốn góp vào lao động; trong thương mại và dịch vụ khác dùng tiêu chí doanh thu và lao động. Hiện nay ở Đài Loan quy định:
- Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, doanh nghiệp có vốn góp dưới 40 triệu đôla Đài Loan ( khoảng 1,4 triêu đô la Mỹ ) số lao động thường xuyên dưới 300 người được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ,
- Trong khai khoáng, doanh nghiệp có vốn dưới 40 triệu đô la Đài loan ( khoảng 1,4 triệu đô la Mỹ) lao động thường xuyên dưới 500 người được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ,
- Trong thương mại, vận tải và dịch vụ, doanh nghiệp có tổng doanh thu hàng năm dưới 40 triệu đôla Đài Loan, lao động dưới 50 người được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hàn quốc
Theo sắc lệnh cơ bản của Hàn Quốc về doanh nghiệp vừa và nhỏ , việc phân loại theo qui mô được thực hiện theo hai nhóm ngành:
- Trong ngành chế tạo, khai thác, xây dựng, doanh nghiệp có vốn đầu tư dưới 600000 USD và số lao động thường xuyên từ 20 đến 300 người được coi là doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp có dưới 20 lao động thường xuyên được coi là doanh nghiệp nhỏ,
- Trong thương mại, doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có doanh thu dưới 250.000 USD/năm. Doanh nghiệp có lao động dưới 5 ngưòi đực coi là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp có từ 6 đến 20 người được coi là doanh nghiệp vừa.
Philipin
Trong sản suất doanh nghiệp được chia thành bốn loại:
- Doanh nghiệp cực nhỏ và hộ gia đình: Có vốn dưới 1,5 triệu pesos (khoảng 72.000 đô la Mỹ ),
-Doanh nghiệp nhỏ: có vốn từ 1,5 đến 15 triệu pesos ( khoảng 72.000 đến 720.000 đô la Mỹ ),
-Doanh nghiệp vừa : có vốn từ 15 đến 60 triệu pesos ( khoảng 720.000 đến 2,9 triệu đô la Mỹ ),
- Doanh nghiệp lớn: Có vốn trên 60 triệu pesos ( trên 2,9 triệu đô la Mỹ ).
Nhật Bản
Doanh nghiệp vừa và nhỏ được phân loại theo các khu vực:
- Trong lĩnh vực sản xuất, doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có dưới 300 lao động và 1 triệu đô la mỹ vốn đầu tư,
-Trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ, doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có vốn dưới 100 lao động ( đối với doanh nghiệp bán buôn ) hay 50 lao động (đối với doanh nghiệp bán lẻ và dịch vụ) vốn đầu tư dưới 300.000 đô la Mỹ ( đối với doanh nghiệp bán buôn) hay 100.000 đô la ( doanh nghiệp bán lẻ và dịch vụ).
Liên minh Châu Âu (EU)
Theo qui định của liên minh Châu Âu doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có dưới 250 lao động, doanh số không quá 40.000 ECU hoặc tổng số vốn hàng năm không quá 27 triệu ECU , có cổ phần không quá 25% ở một xí nghiệp lớn.
Việt nam
Ngày 20/6/1998 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành công văn số 681/CP-KTN quy định tiêu chí tạm thời xác định DNV&N là những doanh nghiệp có số vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và só lao động bình quân năm dưới 200 người.Tuy vậy, tiêu chí này chỉ có tính chất quy ước hành chính để xây dựng và thực thi cơ chế chính sách hỗ trợ.
Bên cạnh tiêu chí trên, ở nước ta hiện nay còn tồn tại khá nhiều các tiêu chí khác do một số địa phương, ngành, tổ chức đưa ra nhằm phục vụ cho mục tiêu và yêu cầu quản lý nội bộ của mình. Chẳng hạn, Ngân hàng Công thương quy định trong hoạt động tín dụng các doanh nghiệp có vốn từ 5 đến 10 tỷ đồng và sử dụng 500 đến 1000 lao động la DNV&N. Còn Hội đồng liên minh các hợp tác xã thì quy định doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có mức vốn từ 100 đến 300 triệu đồng và sử dụng 5 đến 50 lao động.Thành phố Hồ Chí Minh đề xuất: doanh nghiệp có vốn sản xuất kinh doanh trên 1 tỷ đồng, có doanh thu hàng năm trên 10 tỷ đồng và sử dụng tới 1000 lao động là doanh nghiệp vừa; mọi doanh nghiệp dưới ba tiêu chuẩn trên là doanh nghiệp nhỏ. Một số nhà kinh tế nước ta đề nghị doanh nghiệp nhỏ là có mức vốn đầu tư từ 100 đến 300 triệu đồng và sử dụng từ 5 đến 50 lao động, trên mức đó là doanh nghiệp vừa.
Từ cách phân loại qui mô doanh nghiệp của một số nước ở trên có thể rút ra nhận xét: Việc phân chia doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ ở các nước là theo ngành nghề và khác nhau trong từng thời kì. Các tiêu chí được sử dụng một cách phổ biến là số lao động thường xuyên, vốn đầu tư và doanh số. Trị số các tiêu chí thì rất khác nhau và phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi nước.
Từ cách phân loại qui mô doanh nghiệp của một số nước ở trên có thể rút ra nhận xét: Việc phân chia doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ ở các nước là theo ngành nghề và khác nhau trong từng thời kì. Các tiêu chí được sử dụng một cách phổ biến là số lao động thường xuyên, vốn đầu tư và doanh số. Trị số các tiêu chí thì rất khác nhau và phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi nước.
3.4. Khái niệm DNV&N ở Việt Nam
Cho đến nay, nước ta vẫn chưa có được một khái niệm thống nhất và hoàn chỉnh về DNV&N. Các khái niệm được sử dụng trên thực tế hiện nay chỉ là khái niệm của các ngành, địa phương, tổ chức tự đưa ra nhằm phục vụ cho mục đích riêng của mình.
Trong số các khái niệm về DNV&N hiện nay ở nước ta thì khái niệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư được áp dụng rộng rãi nhất. Khái niệm này phát biểu như sau:
" DNV&N ở Việt Nam là các chủ thể sản xuất kinh doanh được thành lập theo các qui định của pháp luật có qui mô về vốn và / hoặc số lao động phù hợp với qui định của Chính phủ".
Theo khái niệm này thì DNV&N ở Việt Nam không phân biệt thành phần kinh tế, bao gồm:
- Các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ thành lập và đăng kí theo Luật doanh nghiệp nhà nước.
- Các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ được thành lập và đăng kí theo Luật doanh nghiệp.
- Các hợp tác xã có qui mô vừa và nhỏ được thành lập và đăng kí hoạt động theo luật hợp tác xã.
- Cá nhân, nhóm sản xuất kinh doanh được thành lập và hoạt động theo Nghị định số 66- HĐBT ( nay là Chính phủ).
II. Vai trò kinh tế- xã hội của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Kinh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- sgfdfg.doc