Luận văn Phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bến Tre - Thực trạng và giải pháp

Công nghiệp đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Do vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đề ra chủ trương đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước. Đại hội IX tiếp tục đề ra mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

Bến Tre là một tỉnh thuộc đồng bằng sông cửu long, rất có tiềm năng phát triển nông nghiệp và công nghiệp (như điều kiện thiên nhiên ưu đãi, sản lượng dừa, thủy sản, cây ăn quả, nguồn lao động dồi dào ). Thực tiễn cho thấy, hơn 20 năm tập trung phát triển nông nghiệp, Bến Tre cũng chỉ “đủ ăn” và bước đầu xóa được đói nghèo; thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt khoảng 600 USD/năm (2007); chưa tạo được sự phát triển mạnh mẽ, đột phá. Bài học ban đầu là muốn phát triển kinh tế phải quan tâm nhiều hơn cho phát triển công nghiệp trên cơ sở tiềm năng và thế mạnh của tỉnh.

Vì thế, từ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII (2000-2005), tỉnh đã xác định hai lợi thế là kinh tế vườn (với trọng tâm là cây dừa và cây ăn trái) và kinh tế biển (trọng tâm là đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản), và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII (2005-2010) đã xác định tập trung phát triển công nghiệp trên cơ sở hai lợi thế nêu trên để đẩy mạnh phát triển kinh tế của tỉnh ngang bằng với các tỉnh trong khu vực và cả nước.

Để thực hiện quyết tâm trên, công nghiệp Bến Tre cần phát triển theo hướng nào? Với những ngành công nghiệp chủ lực gì? Cần có bước đi, chính sách và giải pháp như thế nào? Đó là vấn đề bức thiết và là câu hỏi lớn đối với những nhà lãnh đạo, quản lý của tỉnh.

Với mong muốn góp một phần vào việc tìm ra lời giải cho câu hỏi trên, tôi quyết định chọn đề tài “Phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bến Tre - Thực trạng và giải pháp” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý kinh tế.

 

doc96 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1174 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bến Tre - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU  1. Tính cấp thiết của đề tài Công nghiệp đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Do vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đề ra chủ trương đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước. Đại hội IX tiếp tục đề ra mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Bến Tre là một tỉnh thuộc đồng bằng sông cửu long, rất có tiềm năng phát triển nông nghiệp và công nghiệp (như điều kiện thiên nhiên ưu đãi, sản lượng dừa, thủy sản, cây ăn quả, nguồn lao động dồi dào… ). Thực tiễn cho thấy, hơn 20 năm tập trung phát triển nông nghiệp, Bến Tre cũng chỉ “đủ ăn” và bước đầu xóa được đói nghèo; thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt khoảng 600 USD/năm (2007); chưa tạo được sự phát triển mạnh mẽ, đột phá. Bài học ban đầu là muốn phát triển kinh tế phải quan tâm nhiều hơn cho phát triển công nghiệp trên cơ sở tiềm năng và thế mạnh của tỉnh. Vì thế, từ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII (2000-2005), tỉnh đã xác định hai lợi thế là kinh tế vườn (với trọng tâm là cây dừa và cây ăn trái) và kinh tế biển (trọng tâm là đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản), và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII (2005-2010) đã xác định tập trung phát triển công nghiệp trên cơ sở hai lợi thế nêu trên để đẩy mạnh phát triển kinh tế của tỉnh ngang bằng với các tỉnh trong khu vực và cả nước. Để thực hiện quyết tâm trên, công nghiệp Bến Tre cần phát triển theo hướng nào? Với những ngành công nghiệp chủ lực gì? Cần có bước đi, chính sách và giải pháp như thế nào? Đó là vấn đề bức thiết và là câu hỏi lớn đối với những nhà lãnh đạo, quản lý của tỉnh. Với mong muốn góp một phần vào việc tìm ra lời giải cho câu hỏi trên, tôi quyết định chọn đề tài “Phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bến Tre - Thực trạng và giải pháp” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Ở cấp quốc gia, đã có những công trình, đề tài liên quan như: - Kenichi Ohno (chủ biên): Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005. - Phạm Xuân Nam (chủ biên): Quá trình phát triển công nghiệp ở Việt Nam – Triển vọng công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994. - Bộ Công nghiệp (1999), Chiến lược phát triển công nghiệp đến năm 2010, Hà Nội. - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1996), Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng thời kỳ 1996-2010, Hà Nội. Ở các tỉnh, thành phố trong nước: đã có nhiều nghiên cứu về thực trạng và giải pháp phát triển công nghiệp trên địa bàn như: Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Đồng Nai, Bình Dương, Thanh Hóa… và các quy hoạch phát triển công nghiệp, các ngành công nghiệp chủ lực trên địa bàn từng tỉnh, thành phố. Ở trong tỉnh, tính tới thời điểm này chưa có một công trình nghiên cứu, đề tài nào nghiên cứu một cách hệ thống về định hướng và giải pháp phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bến Tre. Thời gian qua, Ủy ban nhân dân tỉnh và các ngành liên quan có đề ra một số chính sách như: Chính sách phát triển ngành chế biến dừa, Chính sách ưu đãi đầu tư, Quy hoạch đất phát triển công nghiệp. Hiện tại, Ủy ban nhân dân tỉnh đang chỉ đạo xây dựng Quy hoạch phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh đến năm 2020, Chương trình phát triển sản phẩm chủ lực của tỉnh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu: Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn; đề xuất định hướng, giải pháp phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bến Tre đến năm 2020. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa một số lý luận cơ bản về công nghiệp và phát triển công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. - Phaân tích, ñaùnh giaù thöïc traïng phaùt trieån coâng nghieäp treân ñòa baøn tænh Beán Tre töø naêm 2000-2007. - Ñeà xuaát một soá định hướng, giaûi phaùp phaùt trieån coâng nghieäp treân ñòa baøn tænh Beán Tre ñeán naêm 2020. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Các nhân tố tác động đến phaùt trieån coâng nghieäp cuûa tỉnh, trong đó trọng tâm là nhân tố quản lý nhà nước của chính quyền địa phương. 4.2. Phaïm vi nghieân cöùu: Taäp trung nghieân cöùu quá trình phát triển công nghiệp, các nhân tố tác động bên trong tỉnh đến phát triển công nghiệp treân ñòa baøn tænh Beán Tre töø naêm 2000-2007, trong đó nhân tố quản lý nhà nước của chính quyền địa phương là chủ yếu. Phần định hướng và giải pháp phát triển công nghiệp chủ yếu tập trung luận chứng đến năm 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; các quan điểm, chính sách, biện pháp của Tỉnh ủy và UBND tỉnh Bến Tre. Luận văn còn kế thừa một cách có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học, các đề tài của các cơ quan, các nhà khoa học trong và ngoài tỉnh có liên quan đến nội dung của luận văn. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Ngoaøi nhöõng phöông phaùp truyeàn thoáng mang tính phöông phaùp luaän, trong luaän vaên naøy söû duïng phöông phaùp phaân tích thöïc chöùng, so saùnh toång hôïp, thoáng keâ, phöông phaùp chuẩn taéc. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Luận văn tập trung phân tích, đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh, sự tác động của các nhân tố đối với phát triển công nghiệp; xác định ngành công nghiệp chủ lực của tỉnh và đề xuất định hướng, giải pháp phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Luận văn có thể được dùng như tài liệu tham khảo cho các cơ quan, các nhà lãnh đạo tỉnh Bến Tre trong hoạch định chiến lược, chính sách phát triển kinh tế, phát triển công nghiệp trong những năm tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phầu mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 03 chương, 9 tiết. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NỀN KINH TẾ 1.1. CÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm 1.1.1.1. Khái niệm công nghiệp Theo Từ điển Bách khoa toàn thư, công nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế, là lĩnh vực sản xuất hàng hóa vật chất mà sản phẩm được “chế tạo, chế biến” cho nhu cầu tiêu dùng hoặc phục vụ hoạt động kinh doanh tiếp theo. Đây là hoạt động kinh tế, sản xuất quy mô lớn, được sự hỗ trợ thúc đẩy mạnh mẽ của các tiến bộ công nghệ, khoa học và kỹ thuật. Theo Từ điển tiếng Việt, công nghiệp (hoặc kỹ nghệ) là toàn thể những hoạt động kinh tế nhằm khai thác các tài nguyên và các nguồn năng lượng, và chuyển biến các nguyên liệu - gốc động vật, thực vật hay khoáng vật thành sản phẩm. Từ hai khái niệm trên cho thấy, công nghiệp bao gồm những hoạt động sản xuất, bắt đầu từ hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên, tách đối tượng lao động ra khỏi thiên nhiên và hoạt động chế biến các tài nguyên có được từ khai thác, làm thay đổi hoàn toàn về chất các nguyên liệu ban đầu để biến chúng thành những sản phẩm tương ứng hoặc nguồn nguồn nguyên liệu tiếp theo để sản xuất ra các sản phẩm khác phục vụ nhu cầu đa dạng của con người. Ở đây, chúng ta chưa thấy đề cập đến ngành công nghiệp sửa chữa, khôi phục giá trị sử dụng của sản phẩm được tiêu dùng trong quá trình sản xuất và trong sinh hoạt; đây là hoạt động không thể thiếu khi đề cập đến công nghiệp, nó xuất hiện sau công nghiệp khai thác và công nghiệp chế biến. Chính vì vậy, tác giả đồng quan điểm với các tác giả cuốn “Kinh tế và quản lý công nghiệp” (1997), công nghiệp gồm ba loại hoạt động chủ yếu: Khai thác tài nguyên tạo ra nguồn nguyên liệu nguyên thủy (khoáng sản, động thực vật); sản xuất và chế biến sản phẩm của công nghiệp khai thác và của nông nghiệp thành nhiều loại sản phẩm nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác nhau của xã hội; các ngành sửa chữa, khôi phục giá trị sử dụng của sản phẩm được tiêu dùng trong quá trình sản xuất và trong sinh hoạt [20, tr.5]. Trong ba loại hoạt động trên, hoạt động khai thác là hoạt động khởi đầu của toàn bộ quá trình sản xuất công nghiệp, tác động của quá trình này là tách đối tượng lao động ra khỏi môi trường tự nhiên. Hoạt động chế biến là hoạt động thứ hai có đặc điểm lam thay đổi hoàn toàn về chất các nguyên liệu nguyên thủy và có thể tạo ra sản phẩm tương ứng hoặc có thể từ nhiều loại nguyên liệu khác nhau để sản xuất ra một sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong sinh hoạt hoặc trong sản xuất. Hoạt động sửa chữa là hoạt động thứ ba, không thể thiếu được nhằm khôi phục, kéo dài thời gian sử dụng các thiết bị, máy móc, tư liệu phục vụ cho lao động sản xuất và các sản phẩm dùng trong sinh hoạt; công nghiệp sửa chữa là hoạt động có sau công nghiệp khai thác và công nghiệp chế biến. 1.1.1.2. Đặc điểm Công nghiệp là ngành kinh tế chủ lực thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất, là một hệ thống bao gồm nhiều ngành sản xuất chuyên môn hóa hợp thành từ những đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc nhiều loại hình tổ chức sản xuất khác nhau. Với tư cách là ngành sản xuất vật chất, công nghiệp khác các ngành sản xuất vật chất khác ở các đặc điểm về mặt kỹ thuật - sản xuất và mặt kinh tế - xã hội của sản xuất. - Mặt kỹ thuật - sản xuất của công nghiệp được thể hiện ở những khía cạnh sau: đặc trưng về công nghệ sản xuất, về sự biến đổi của các đối tượng lao động sau mỗi chu kỳ sản xuất, là hoạt động sản xuất chủ yếu tạo ra các sản phẩm thực hiện chức năng là các tư liệu sản xuất và tư liệu lao động trong các ngành kinh tế (đặc trưng này quy định vị trí chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân). Đặc trưng về mặt kỹ thuật - sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tổ chức quá trình sản xuất và chế biến, ứng dụng khoa học - công nghệ, khai thác và sử dụng tổng hợp nguyên liệu. - Mặt kinh tế - xã hội của công nghiệp thể hiện là ngành có điều kiện phát triển về tổ chức. Lực lượng sản xuất trong công nghiệp có thể phát triển nhanh ở trình độ cao, nhờ đó quan hệ sản xuất có tính tiên tiến hơn. Trong quá trình sản xuất công nghiệp, hình thành nên đội ngũ lao động có tính tổ chức, tính kỷ luật cao; công nghiệp phát triển, phân công lao động ngày càng sâu, tạo điều kiện phát triển sản xuất hàng hóa ở trình độ cao. Đặc trưng này có ý nghĩa thiết thực trong việc tổ chức sản xuất, trong việc phát huy vai trò chủ đạo của công nghiệp đối với các ngành kinh tế quốc dân. 1.1.2. Phân loại công nghiệp - Dựa vào công dụng kinh tế của sản phẩm: người ta có thể chia công nghiệp thành công nghiệp sản xuất tư liệu tiêu dùng và công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất; và theo đó có 2 nhóm ngành tương ứng là công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Đối với các nước đang phát triển, việc phân chia này rất có ý nghĩa đối với việc tính tỷ trọng nhập khẩu tư liệu sản xuất so với tư liệu tiêu dùng và tỷ trọng xuất khẩu so với nhập khẩu, đặc biệt đối với các nền kinh tế theo đuổi chiến lược thay thế hàng nhập khẩu hay sản xuất hàng xuất khẩu. - Dựa vào tính biến đổi của đối tượng lao động: người ta chia công nghiệp thành công nghiệp khai thác và công nghiệp chế biến. Việc phân loại này có ý nghĩa đối với việc phân bổ các ngành công nghiệp; trong điều kiện nguồn tài nguyên thiên nhiên hạn chế thì việc giảm tỷ trọng công nghiệp khai thác, ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến là điều cần thiết, đảm bảo cho sự phát triển bền vững. - Dựa vào các đặc điểm kỹ thuật – công nghệ sản xuất: người ta chia công nghiệp thành những ngành có cùng đặc trưng kỹ thuật – công nghệ, hoặc cùng phương pháp công nghệ, hoặc sản phẩm có công dụng cụ thể tương tự nhau. Cách phân chia này có ý nghĩa đối với việc quy hoạch các ngành công nghiệp dưa trên cân đối liên ngành. - Dựa vào quan hệ sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất: người ta chia công nghiệp thành công nghiệp quốc doanh, công nghiệp ngoài quốc doanh, công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc phân chia này có ý nghĩa cho việc xây dựng chính sách để phát triển các thành phần kinh tế phù hợp với chiến lược chung của mỗi quốc gia. - Dựa vào quy mô doanh nghiệp: người ta chia công nghiệp thành công nghiệp lớn, công nghiệp vừa và công nghiệp nhỏ. Việc phân chia này là cơ sở cho việc hoạch định chính sách và có hình thức quản lý phù hợp nhằm hỗ trợ, phát triển công nghiệp vừa và nhỏ. 1.1.3. Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân - Công nghiệp đóng vai trò chủ đạo đối với sự phát triển của nền kinh tế: công nghiệp là ngành sản xuất vật chất chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân, vừa tạo ra tư liệu tiêu dùng, vừa tạo ra tư liệu sản xuất; trình độ phát triển công nghiệp là một trong những tiêu chí để đánh trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia. Công nghiệp là ngành có năng suất lao động cao, có giá trị gia tăng lớn do có kỷ luật lao động chặt chẽ và có điều kiện ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ phổ biến nên nó có vai trò dẫn dắt cả về kinh tế lẫn kỹ thuật đối với các ngành khác trong nền kinh tế. - Công nghiệp thúc đẩy nông nghiệp và dịch vụ phát triển theo hướng CNH-HĐH: công nghiệp tạo đầu ra và điều kiện cho nông nghiệp phát triển, đồng thời thu hút lao động từ khu vực nông thôn, góp phần cơ cấu lại lao động, nâng thu nhập và trình độ cho lao động nông thôn. Khi thu nhập từ nông nghiệp, công nghiệp tăng lên sẽ khuyến khích tiêu dùng, là điều kiện để công nghiệp và dịch vụ phát triển. - Quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa: Trong quá trình công nghiệp hóa đất nước, công nghiệp ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của nền kinh tế và có vai trò quyết định đối với quá trình tăng trưởng kinh tế. Công nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong việc đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững, giúp giải quyết các mục tiêu kinh tế - xã hội, tạo tiền đề và môi trường đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hóa nền kinh tế theo hướng hiện đại. - Góp phần phát triển lực lượng sản xuất: công nghiệp là ngành có lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ cao hơn các ngành khác; đội ngũ lao động có tính kỷ luật cao, trình độ tiên tiến và với phẩm chất sáng tạo không ngừng của mình lực lượng này luôn tiếp cận với những tiến bộ khoa học – công nghệ hiện đại, chế tạo ra các công cụ lao động mới làm cho quá trình sản xuất công nghiệp - sản xuất của cải vật chất xã hội không ngừng phát triển. - Đảm bảo tăng cường tiềm lực quốc phòng: với đặc điểm kỹ thuật của mình, công nghiệp trực tiếp sản xuất ra các khí tài, phương tiện phục vụ công tác đảm bảo an ninh quốc phòng. Công nghiệp với tư cách là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế sẽ tạo ra tăng trưởng và phát triển kinh tế, giúp mỗi quốc gia có thêm nguồn lực để tăng cường tiềm lực quốc phòng. Công nghiệp cũng góp phần đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa lĩnh vực an ninh quốc phòng. 1.1.4. Quan điểm phát triển công nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam 1.1.4.1. Nhận thức về công nghiệp hoá, hiện đại hoá Theo Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hiệp Quốc (UNIDO), CNH là quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới sự tiến bộ về kinh tế - xã hội [19, tr.2]. Quan niệm này cho thấy quá trình CNH bao trùm toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm đạt tới không chỉ sự phát triển kinh tế mà cả sự tiến bộ về mặt xã hội. Ở nước ta, qua các thời kỳ khác nhau cũng có những quan điểm khác nhau về CNH. Đối với nước ta là nước nông nghiệp kém phát triển, nếu không tập trung phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng mọi năng lực sản xuất thì không thể nói đến việc xây dựng một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại. Vì vậy, CNH được xem là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội xuyên suốt các nghị quyết Đại hội Đảng. Từ Đại hội III đến Đại hội X, Đảng ta luôn xác định CNH là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, qua các thời kỳ phát triển kinh tế, quan đểm về CNH có những thay đổi cơ bản. Trước Đại hội VII, quan niệm phổ biến về CNH ở nước ta là quá trình thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện sự phân công mới về lao động xã hội và là quá trình tích lũy XHCN để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng; đường lối CNH được xác định là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Tuy nhiên, từ Đại hội giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng ta đã có quan niệm mới về CNH, gắn với HĐH. CNH thực chất là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của XHCN, là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới cơ bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nghị quyết Hội nghị IX của Đảng nêu rõ: “Đẩy mạnh CNH-HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCH” [9, tr.89]. Từ những định hướng trên, có thể hiểu CNH hiện nay là một quá trình chuyển nền sản xuất từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng lao động có kỹ thuật cùng với công nghệ tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội ngày càng cao; là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp và khai thác tài nguyên là chủ yếu sang cơ cấu mới có công nghiệp đóng vai trò chủ đạo, tỷ trọng công nghiệp trong GDP ngày càng tăng, tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa thành thị và nông thôn trên cơ sở khai thác hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và lợi thế các mặt của quốc gia cũng như của từng vùng, miền của quốc gia. Trong khi đó, theo Phạm Kim Ích (1994), HĐH là một quá trình mà nhờ đó các nước đang phát triển tìm cách đạt được sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, tiến hành cải cách chính trị và củng cố cơ cấu xã hội của họ, nhằm tiến tới một hệ thống kinh tế - xã hội và chính trị giống hệ thống của những nước phát triển [15, tr.14]. CNH phải gắn với HĐH, xem HĐH là cái đích cần vươn tới trong quá trình CNH. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy BCH trung ương Đảng khóa VII chỉ rõ: CNH-HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đó là một quá trình lâu dài [11, tr.65]. CNH gắn với HĐH là phương hướng chủ đạo của các nước đang phát triển hiện nay. Điểm then chốt nhất là phải CNH, HĐH thì các nước đang phát triển mới đuổi kịp các nước phát triển, tránh được nguy cơ tụt hậu. Ở đây, cần nhận thức rằng CNH không đồng nhất với quá trình phát triển công nghiệp. CNH là quá trình rộng lớn và phức tạp, không chỉ là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân mà còn là quá trình xây dựng xã hội văn minh công nghiệp và cải biến các ngành kinh tế, tác động làm cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội đạt mức nhanh và ổn định, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư, thu hẹp dần chênh lệch trình độ kinh tế - xã hội của đất nước với các nước phát triển. 1.1.4.2. Quan điểm phát triển công nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Từ những kinh nghiệm thực tiễn của quá trình xây dựng và phát triển đất nước và những bài học kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới, Đảng ta đã quan tâm và ngày càng sang tỏ hơn về đường lối, quan điểm, chủ trương phát triển công nghiệp theo hướng CNH-HĐH, phù hợp với mục tiêu chiến lược kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn mới. Đại hội IX của Đảng đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI “Chiến lược đẩy mạnh CNH-HĐH theo định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” [9, tr.148]. Mục tiêu tổng quá của Chiến lược 10 năm là: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [9, tr.159]. Như vậy, đến năm 2020, được chia thành 2 chặng: - Từ 2000-2020: đẩy nhanh quá trình CNH, đưa đất nước vượt qua giai đoạn trung bình của quá trình CNH; là giai đoạn chuẩn bị cất cánh. GDP bình quân đầu người đạt khoảng 1000 USD vào năm 2010 (theo giá 1990). Hoàn chỉnh đồng bộ một bước cơ bản các kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội để đáp ứng yêu cầu phát triển trước mắt và chuẩn bị tiền đề cho bước sau – xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp. Hình thành một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, mũi nhọn. Cơ cấu kinh tế theo ngành và lĩnh vực tạo được hiệu quả cao và bền vững; cơ cấu kinh tế theo vùng tạo được sự hài hòa giữa vùng phát triển động lực và các vùng khác. Tiếp tục thực hiện bước quan trọng trong việc hình thành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. - Từ 2010-2020: đẩy nhanh HĐH, là giai đoạn đã hội đủ điều kiện mang tính tiền đề về kết cấu hạ tầng, khung thể chế, nguồn nhân lực, năng lực nội sinh, sức cạnh tranh và khả năng hội nhập quốc tế… để đẩy mạnh CNH-HĐH, xây dựng nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Việc phát triển công nghiệp cần quán triệt những quan điểm sau: - Tăng tốc độ phát triển công nghiệp với tốc độ cao, nâng cao tỷ trọng công nghiệp trong nền kinh tế. Phát triển nhanh các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, phát triển mạnh các ngành công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử, tự động hóa, đồng thời phát triển rộng khắp các cơ sở sản xuất công nghiệp nhỏ và vừa với ngành nghề đa dạng, vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao, chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế nội bộ công nghiệp theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp chế tạo, chủ yếu là các ngành chế biến, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. - Về cơ cấu thành phần, các thành phần sở hữu trong công nghiệp được khuyến khích phát triển bình đẳng. Các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp quốc doanh… đều có sân chơi bình đẳng. Tuy nhiên, ở một số ngành trọng điểm có vai trò quyết định đến cơ cấu kinh tế, đòi hỏi vốn nhiều, thời gian thu hồi vốn lâu, hiệu quả kinh tế ngắn hạn không cao, khó thu hồi vốn thì kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo. - Trong phát triển công nghiệp, cơ cấu ngành cần kết hợp với cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần để thực hiện các mục tiêu phát triển. Kết hợp hướng ngoại với hướng nội, trong đó hướng ngoại là chủ yếu. Chú ý hiệu quả kinh tế - xã hội, định hướng và tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn phát triển. Khi nghiên cứu CNH-HĐH ở Việt Nam, cần chú ý ba nội dung sau: Một là, cần rút ngắn thời gian và đẩy mạnh CNH. Các chuyên gia Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tính rằng: nếu Việt Nam và các nước ASEAN giữ được tốc độ tăng trưởng bình quân của giai đoạn 1991-1998 thì Việt Nam muốn đuổi kịp Indonesia phải mất 19 năm, 22 năm đối với Philipinnes, 91 năm với Thái Lan và 108 năm với Malaysia. Do vậy, muốn đuổi kịp các nước thì Việt Nam chỉ có con đường là phải tăng trưởng và phát triển với tốc độ cao. Muốn vậy, bên cạnh việc phát triển tuần tự phải có bước đột phá, đi tắt đón đầu, đi ngay vào các ngành, lĩnh vực khoa học – công nghệ hiện đại, tiên tiến, đầu tư vào những ngành công nghiệp trọng điểm có sức thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh. Để làm được việc đó, Việt Nam phải thực hiện con đường CNH rút ngắn thời gian so với các nước đi trước. Đại hội IX của Đảng khẳng định: con đường CNH-HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức [9, tr.25]. Bài toán tốc độ CNH đối với các nước CNH muộn là vấn đề không mới. Nếu trước đây Anh, Mỹ, Nhật Bản… mất hàng trăm năm để hoàn thành CNH thì các nước công nghiệp mới (NICs) chỉ cần vài chục năm đã hoàn thành quá trình đó. Càng về sau thì thời gian CNH càng rút ngắn và điều đó có tính quy luật. Khoa học - công nghệ là nền tảng của sự rút ngắn đó; các nước đi sau như Việt Nam có điều kiện tận dụng những thành tựu khoa học - công nghệ cho quá trình CNH. Việc rút ngắn thời gian CNH nhắm tới mục tiêu chung là sớm đạt tới trình độ cao trong phát triển kinh tế, khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu bức xúc về phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Đối với nước ta, điều quan trọng nhất là có

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van ThS.doc
  • docbia ngoai.doc
Tài liệu liên quan