Luận văn Phát huy vai trò giáo dục pháp luật của chính quyền cấp xã cho đồng bào Khơme ở tỉnh Trà Vinh hiện nay

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật là một nhiệm vụ rất nặng nề, khó khăn, phức tạp, song vấn đề quan trọng không kém đó là làm như thế nào để đưa pháp luật vào cuộc sống, để pháp luật được mọi người tôn trọng và chấp hành đầy đủ. Trong bài phát biểu tại Hội nghị cán bộ thảo luận dự thảo luật Hôn nhân gia đình ngày 10/10/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Công bố đạo luật này, chưa phải mọi việc đều xong, mà phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt”[36, tr.54]. Do đó, tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân, tìm tòi những hình thức và biện pháp thiết thực, xây dựng một cơ chế để mọi người dân đều có điều kiện tiếp cận với pháp luật, thực thi quyền được thông tin về pháp luật và được hưởng dịch vụ tư vấn pháp lý là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân là mục tiêu được Nhà nước ta khẳng định tại Điều 2 Hiến pháp 1992. Để thực hiện được mục tiêu đó, Nhà nước ta phải đổi mới toàn diện, trong đó pháp luật là phương tiện quan trọng bảo đảm cho sự thực hiện thắng lợi mục tiêu đã đặt ra. Pháp luật là phương tiện mà thông qua đó chủ trương, chính sách của Đảng được thể chế hoá nhằm quản lý xã hội. Để pháp luật đi vào cuộc sống không chỉ có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, minh bạch dễ hiểu, thực thi và khoa học mà còn phải phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật cho mọi thành viên trong xã hội hiểu và thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật.

Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật là sự tác động có hệ thống, có mục đích của Nhà nước nói chung, của chính quyền các cấp, của các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp.nói riêng nhằm hình thành và nâng cao ý thức pháp luật và thói quen thực hiện hành vi phù hợp các quy định pháp luật của công dân. Với ý nghĩa đó, Chỉ thị 32/CT-TW của Ban Bí thư (khoá IX) ngày 09-12-2003 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã khẳng định:

Để đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật trong thực tế, Ban Bí thư yêu cầu cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp, các ngành thực hiện tốt các công tác sau: xác định rõ phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong những năm tới, cần tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện thật tốt công tác này để góp phần chuyển biến căn bản về ý thức tôn trọng pháp luật và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân [2].

Cấp xã là một cấp trong hệ thống hành chính Nhà nước Việt Nam, là nơi trực tiếp thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ của chính quyền cấp trên giao, chăm lo mọi sinh hoạt và đời sống của nhân dân, là cấp chính quyền gần dân nhất, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.

Chính quyền cấp xã đã góp phần không nhỏ trong việc trực tiếp phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân. Tuy nhiên, hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở cấp xã được tiến hành một cách thụ động, sơ sài, nội dung, hình thức chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra.

Trà Vinh, là một trong những tỉnh nghèo của nước ta, với khoảng 30% dân số của tỉnh là người dân tộc Khơme, công tác giáo dục pháp luật nói chung và công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động của chính quyền cấp xã nói riêng được các cấp uỷ đảng và chính quyền quan tâm, nội dung, hình thức, phương pháp thực hiện được đổi mới do vậy, cũng đã thu được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên trên thực tế, trong thời gian qua tại tỉnh Trà Vinh, vẫn còn một bộ phận nhân dân trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số là người Khơme trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế, vi phạm pháp luật còn xảy ra nhiều, thậm chí có nơi còn phổ biến. Vai trò giáo dục pháp luật của chính quyền cấp xã cho các tầng lớp nhân dân chưa được chú trọng, đặc biệt là giáo dục pháp luật cho người dân tộc Khơme.

 

doc105 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1249 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Phát huy vai trò giáo dục pháp luật của chính quyền cấp xã cho đồng bào Khơme ở tỉnh Trà Vinh hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở ĐầU 1. Lý do chọn đề tài Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật là một nhiệm vụ rất nặng nề, khó khăn, phức tạp, song vấn đề quan trọng không kém đó là làm như thế nào để đưa pháp luật vào cuộc sống, để pháp luật được mọi người tôn trọng và chấp hành đầy đủ. Trong bài phát biểu tại Hội nghị cán bộ thảo luận dự thảo luật Hôn nhân gia đình ngày 10/10/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Công bố đạo luật này, chưa phải mọi việc đều xong, mà phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt”[36, tr.54]. Do đó, tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân, tìm tòi những hình thức và biện pháp thiết thực, xây dựng một cơ chế để mọi người dân đều có điều kiện tiếp cận với pháp luật, thực thi quyền được thông tin về pháp luật và được hưởng dịch vụ tư vấn pháp lý là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân là mục tiêu được Nhà nước ta khẳng định tại Điều 2 Hiến pháp 1992. Để thực hiện được mục tiêu đó, Nhà nước ta phải đổi mới toàn diện, trong đó pháp luật là phương tiện quan trọng bảo đảm cho sự thực hiện thắng lợi mục tiêu đã đặt ra. Pháp luật là phương tiện mà thông qua đó chủ trương, chính sách của Đảng được thể chế hoá nhằm quản lý xã hội. Để pháp luật đi vào cuộc sống không chỉ có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, minh bạch dễ hiểu, thực thi và khoa học mà còn phải phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật cho mọi thành viên trong xã hội hiểu và thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật. Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật là sự tác động có hệ thống, có mục đích của Nhà nước nói chung, của chính quyền các cấp, của các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp...nói riêng nhằm hình thành và nâng cao ý thức pháp luật và thói quen thực hiện hành vi phù hợp các quy định pháp luật của công dân. Với ý nghĩa đó, Chỉ thị 32/CT-TW của Ban Bí thư (khoá IX) ngày 09-12-2003 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã khẳng định: Để đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật trong thực tế, Ban Bí thư yêu cầu cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp, các ngành thực hiện tốt các công tác sau: xác định rõ phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong những năm tới, cần tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện thật tốt công tác này để góp phần chuyển biến căn bản về ý thức tôn trọng pháp luật và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân [2]. Cấp xã là một cấp trong hệ thống hành chính Nhà nước Việt Nam, là nơi trực tiếp thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ của chính quyền cấp trên giao, chăm lo mọi sinh hoạt và đời sống của nhân dân, là cấp chính quyền gần dân nhất, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Chính quyền cấp xã đã góp phần không nhỏ trong việc trực tiếp phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân. Tuy nhiên, hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở cấp xã được tiến hành một cách thụ động, sơ sài, nội dung, hình thức chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Trà Vinh, là một trong những tỉnh nghèo của nước ta, với khoảng 30% dân số của tỉnh là người dân tộc Khơme, công tác giáo dục pháp luật nói chung và công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động của chính quyền cấp xã nói riêng được các cấp uỷ đảng và chính quyền quan tâm, nội dung, hình thức, phương pháp thực hiện được đổi mới do vậy, cũng đã thu được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên trên thực tế, trong thời gian qua tại tỉnh Trà Vinh, vẫn còn một bộ phận nhân dân trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số là người Khơme trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế, vi phạm pháp luật còn xảy ra nhiều, thậm chí có nơi còn phổ biến. Vai trò giáo dục pháp luật của chính quyền cấp xã cho các tầng lớp nhân dân chưa được chú trọng, đặc biệt là giáo dục pháp luật cho người dân tộc Khơme. Là một cán bộ công tác tại trường Chính trị tỉnh Trà Vinh tôi nhận thấy công tác giáo dục pháp luật cho đồng bào Khơme của chính quyền cấp xã ở Trà Vinh hiện nay là vấn đề cần quan tâm, nghiên cứu nên tôi chọn đề tài: “Phát huy vai trò giáo dục pháp luật của chính quyền cấp xã cho đồng bào Khơme ở tỉnh Trà Vinh hiện nay”. Đây là một đề tài rất cần thiết, có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn đối với tỉnh có đông đồng bào Khơme sinh sống như Trà Vinh hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề phát huy vai trò của chính quyền cấp xã và giáo dục pháp luật là những vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về hai vấn đề này như: - Công trình đã viết thành sách: TS Trần Nho Thìn, Đổi mới tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân xã, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000; Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ, Viện Khoa học tổ chức Nhà nước, Chính quyền cấp xã và quản lý nhà nước ở cấp xã, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002; Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ, Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã trong tiến trình cải cách hành chính, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002; Vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của quyền cấp xã, phường, Nxb Thống kê, 1999. Bàn về giáo dục pháp luật, của hai tác giả Trần Ngọc Đường và Dương Thị Thanh Mai, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; Xây dựng ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật do GS, TSKH Đào Trí úc chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính của TS Lê Đình Khiên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002; Tìm hiểu văn hoá dân tộc Khơ-me Nam Bộ, Nxb Tổng hợp Tiền Giang, 1998. - Các đề tài khoa học cấp Nhà nước và cấp Bộ nghiên cứu về phổ biến giáo dục pháp luật như: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phổ biến, giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới, đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 92-98-223 ĐT của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp. Tìm kiếm mô hình phổ biến giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít người, đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp, 1995; Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị ở nước ta hiện nay, đề tài khoa học cấp Bộ của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000; Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng chương trình quốc gia về phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn tới, đề tài khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp, 2004... Các luận án, luận văn nghiên cứu về công tác phổ biến giáo dục pháp luật: ý thức pháp luật và giáo dục ở Việt Nam, luận án PTS Luật học của tác giả Nguyễn Đình Lộc (bảo vệ ở Liên Xô), 1997; Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, luận án PTS Luật học của tác giả Trần Ngọc Đường (bảo vệ ở Liên Xô), 1998; Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam, luận án PTS Luật học của tác giả Dương Thị Thanh Mai, 1996; Giáo dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay, luận án PTS Luật học của tác giải Đinh Xuân Thảo, 1996; Giáo dục pháp luật cho người Khơ-me Nam Bộ (qua thực tiễn tỉnh An Giang), Luận văn Thạc sĩ Luật học của Lê Văn Bền, Hà Nội, 1998... và một số luận văn Thạc sĩ Luật học của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ sở đào tạo khác cũng đề cập đến vai trò của chính quyền cấp xã và chủ đề giáo dục pháp luật. Ngoài ra còn có nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, giảng dạy hay các cán bộ, công chức làm việc trong các tổ chức, cơ quan Nhà nước ... được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhìn chung các công trình nghiên cứu khoa học, các bài viết của tập thể và cá nhân đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền cấp xã và giáo dục pháp luật. Song cho đến nay chưa có công trình, luận văn, luận án, đề tài khoa học nào nghiên cứu, đi sâu về phát huy vai trò của chính quyền cấp xã trong hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật cho đồng bào Khơme. Tuy nhiên, các công trình, luận văn đã nghiên cứu tạo điều kiện cho tác giả tham khảo, kế thừa để tiếp tục nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng vai trò của chính quyền cấp xã trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật để đề ra được những phương hướng và giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của chính quyền cấp xã trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trong thời gian tới. Việc nghiên cứu đề tài được đặt trong bối cảnh cụ thể của Trà Vinh một tỉnh có nhiều công dân Khơme sinh sống và là nơi tác giả công tác. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích của luận văn Luận văn làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn vai trò của chính quyền cấp xã trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp để phát huy vai trò của chính quyền cấp xã trong hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật cho đồng bào Khơme ở Trà Vinh trong thời gian tới. * Nhiệm vụ của luận văn: - Phân tích cơ sở lý luận về vai trò của chính quyền cấp xã và hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. - Nghiên cứu vai trò của chính quyền cấp xã trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào Khơme ở Trà Vinh hiện nay. - Đánh giá thực trạng về phổ biến giáo dục pháp luật cho đồng bào Khơme của chính quyền cấp xã ở Trà Vinh hiện nay. - Đề xuất phương hướng giải pháp nhằm phát huy vai trò của chính quyền cấp xã trong phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào Khơme ở Trà Vinh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Chính quyền cấp xã thực hiện nhiều chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng luận văn chỉ nghiên cứu vai trò của cấp xã trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về giáo dục pháp luật. Phương pháp luận trong nghiên cứu là phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp khảo sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học. 6. Những đóng góp mới của luận văn - Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và có hệ thống về vai trò giáo dục pháp luật cho đồng bào Khơme của chính quyền cấp xã ở Trà Vinh hiện nay. - Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của chính quyền cấp xã ở Trà Vinh trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của chính quyền cấp xã trong phổ biến giáo dục pháp luật cho đồng bào Khơme ở Trà Vinh. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần vào việc nhận thức rõ tính đặc thù và thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật của chính quyền cấp xã ở Trà Vinh cho đồng bào Khơme, các giải pháp do luận văn đề xuất có khả năng ứng dụng trong thực tế nhằm phát huy hơn nữa vai trò của chính quyền cấp xã trong giáo dục pháp luật cho nhân dân nói chung và cho đồng bào Khơme nói riêng. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. Chương 1 Cơ sở lý luận về vai trò giáo dục pháp luật của chính quyền cấp xã cho đồng bào KhơMe Cơ sở lý luận về Vai trò giáo dục pháp luật của chính quyền cấp xã Quan niệm về chính quyền cấp xã Trong lịch sử hình thành, từ Nhà nước cát cứ đến Nhà nước thống nhất, việc phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính để thực hiện hoạt động quản lý, điều hành, cai trị luôn là vấn đề có tính tất yếu khách quan của các quốc gia trên thế giới. Ngay từ thế kỷ thứ X, với chính quyền tự trị đầu tiên, người Việt đã lấy làng xã truyền thống của mình làm đơn vị hành chính cơ sở của Nhà nước [31, tr.9-12]. Với nguồn gốc từ công xã nông thôn chuyển thành, làng, xã là hình ảnh thu nhỏ của xã hội với đầy đủ các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... nơi mà sinh hoạt xã hội diễn ra hàng ngày. Trải qua các thời kỳ lịch sử phát triển, đơn vị hành chính nhỏ nhất này vẫn giữ được vai trò quan trọng tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước đang từng bước được củng cố và hoàn thiện. Hiến pháp quy định xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là đơn vị hành chính lãnh thổ trong hệ thống tổ chức hành chính 4 cấp (trung ương, tỉnh, huyện, xã) của Nhà nước ta. Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, số lượng xã, phường, thị trấn trong những năm qua không ổn định, nhu cầu chia tách địa giới hành chính nhằm đảm bảo việc quản lý có hiệu quả các mặt của đời sống dân cư đã làm số lượng xã, phường, thị trấn tăng lên đáng kể. Tính đến cuối năm 2005, nước ta có 10.876 đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn, trong đó có 9069 xã, 1219 phường, 588 thị trấn [48, tr.15]. Với vị trí là cấp thấp nhất trong tổ chức bộ máy Nhà nước, cấp thực hiện, cấp đưa chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào đời sống, vai trò của chính quyền cấp xã được thể hiện ở các phương diện sau: - Là cấp thấp nhất nên chính quyền cấp xã là cấp triển khai thực hiện chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trực tiếp đến nhân dân. Vì vậy, cấp xã nói chung là cơ sở thực tiễn, nơi mà các chủ trương đường lối được thực hiện trên mọi mặt của cuộc sống. - Hoạt động của chính quyền cấp xã là thước đo đánh giá hiệu quả của hoạt động quản lý của bộ máy nhà nước. Với chức năng nhiệm vụ được giao và được cấp trên uỷ quyền, chính quyền cấp xã thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước trên mọi mặt của đời sống xã hội, là nơi giải quyết các vấn đề xã hội dựa trên cơ sở kết hợp hài hoà các lợi ích của Nhà nước với nhân dân và giữa các cá nhân với nhau. Đồng thời, chính quyền cấp xã tạo mọi điều kiện để phát huy hoạt động tự quản của nhân dân, chủ động kiểm tra, định hướng cho hoạt động này phát triển phù hợp với quy định của Hiến pháp và pháp luật. - Trong hệ thống chính trị cơ sở, chính quyền cấp xã là “trụ cột”, “trung tâm” trong tổ chức triển khai mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và bảo đảm cho nó đi vào thực tiễn. Thực tế cho thấy, nếu đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước có đúng đắn đến đâu đi nữa nhưng chính quyền cấp xã không tổ chức triển khai hoặc triển khai không đến nơi đến chốn thì chính sách, pháp luật đó không được thực hiện hoặc thực hiện không chính xác và hiệu quả tác động vào cuộc sống không cao, không bảo đảm lợi ích của nhân dân. - Chính quyền cấp xã là cơ quan trực tiếp tổ chức, chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân, giải quyết các nhu cầu phát sinh ở cơ sở. Chính quyền cấp xã giữ vai trò vô cùng to lớn trong đời sống xã hội, hoạt động của chính quyền cấp xã gắn liền với hoạt động sinh hoạt của nhân dân. Từ thực tế của một số địa phương như ở Thái Bình, Gia Lai, Đắk Lắk...trong thời gian qua cho thấy chính quyền cấp xã phải thường xuyên đi sâu, đi sát để nắm bắt nguyện vọng của nhân dân, để không xảy ra tình trạng nội bộ mâu thuẫn, bị kẻ xấu lợi dụng gây chia rẽ làm mất đoàn kết trong nhân dân, phá vỡ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, làm giảm sút uy tín của Đảng với nhân dân. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, một số yếu tố đã tác động tiêu cực đến đời sống ở nhiều nơi, nhưng làng, xã là nơi còn lưu giữ những giá trị văn hoá, truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của các dân tộc Việt Nam. Do đó, chính quyền cấp xã giữ vai trò nòng cốt trong công tác giáo dục, tuyên truyền, giữ gìn và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp, giàu bản sắc dân tộc, xây dựng đời sống văn hoá mới và thắt chặt tình đoàn kết trong nhân dân. Vậy để hiểu về chính quyền cấp xã trước hết phải tìm hiểu chính quyền là gì? Chính quyền nói chung: được hiểu là bộ máy điều khiển quản lý công việc hành chính Nhà nước với các phương pháp quản lý hoạt động mang tính chất quyền lực Nhà nước. Còn chính quyền cấp xã là cấp thực hiện bao gồm Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, trong đó Hội đồng nhân dân “là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên”[32, tr.7-8] còn Uỷ ban nhân dân “do Hội đồng nhân dân bầu ra, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan Hành chính Nhà nước ở địa phương chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan Nhà nước cấp trên" [32, tr.9]. Qua sự phân tích trên, có thể rút ra quan niệm về chính quyền cấp xã như sau: Chính quyền cấp xã (bao gồm xã, phường, thị trấn) là cấp thấp nhất trong hệ thống chính quyền bốn cấp của Nhà nước ta, bao gồm Hội đồng nhân và Uỷ ban nhân dân đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, quyết định và tổ chức thực hiện những vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đời sống của nhân dân địa phương theo quy định của Hiến pháp, pháp luật, các mệnh lệnh, quyết định và sự uỷ quyền của cơ quan Nhà nước cấp trên. Bên cạnh chính quyền cấp xã được coi là trung tâm, trụ cột, trong hệ thống chính trị cơ sở còn có các thiết chế chính trị khác như: Đảng uỷ thực hiện vai trò hạt nhân lãnh đạo ở cơ sở, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên (Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh) đại diện cho nhu cầu và lợi ích của các tầng lớp nhân dân địa phương cùng tham gia quản lý Nhà nước. Toàn bộ hoạt động của các thiết chế đó Đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc Việt Nam ở cơ sở tạo thành cơ chế vận hành của hệ thống chính trị cơ sở đảm bảo việc thực thi quyền lực của nhân dân và có tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp xã. * Đặc điểm của chính quyền cấp xã - Thứ nhất, chính quyền cấp xã là chính quyền cơ sở bởi dưới chính quyền cấp xã không có cấp chính quyền thấp hơn, mặc dù hiện nay có tổ chức thôn, buôn, làng, ấp, khóm, khu phố... song đây không phải là cấp chính quyền độc lập có ngân sách, con dấu cũng như tư cách pháp nhân mà là tổ chức tự quản trong cộng đồng dân cư, không được phép sử dụng quyền lực nhà nước trong hoạt động của mình. - Thứ hai, chính quyền cấp xã là cấp chính quyền gần dân, sát dân, trực tiếp tiếp xúc, chăm lo, giải quyết các vấn đề liên quan đến lợi ích của nhân dân, là cấp triển khai các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Ngoài việc sử dụng các biện pháp mang tính chất quyền lực, tuỳ vào thực tiễn và tính đặc thù của địa phương mà chính quyền của cấp xã nơi đó lựa chọn các biện pháp thích hợp như tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và vận động nhân dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. - Thứ ba, trong cơ cấu tổ chức của mình, chính quyền cấp xã chỉ bao gồm cơ quan quyền lực Nhà nước là Hội đồng nhân dân, cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân địa phương và Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành đồng thời là cơ quan hành chính Nhà nước địa phương. - Thứ tư, trên địa bàn dân cư, không chỉ có sự quản lý tổ chức của chính quyền cấp xã mà còn có hoạt động mang tính chất tự quản của cộng đồng dân cư. Ngoài ra hoạt động quản lý hành chính Nhà nước của chính quyền cấp xã còn chịu sự tác động của các mối quan hệ như huyết thống, dòng tộc, phong tục, tập quán của từng địa phương. Chính quyền cấp xã là cơ quan thực hiện chức năng quản lý hành chính Nhà nước, là cơ quan đưa đường lối chính sách vào cuộc sống, nhưng căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương để có biện pháp, phương pháp thích hợp. Niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước là thước đo hiệu quả công việc của chính quyền cấp xã, cấp sát dân, gần dân nhất. -Thứ năm, “Tuy cùng là cấp cơ sở nhưng phường so với xã và thị trấn có những điểm khác nhau về cơ sở hạ tầng, cơ sở kinh tế - kỹ thuật, kết cấu dân cư, trình độ dân trí” [16, tr.18]. Cùng là cấp chính quyền cơ sở nhưng tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn cũng khác so với phường. Chính quyền xã, thị trấn quản lý toàn bộ các hoạt động sản xuất, đời sống trên địa bàn dân cư cũng như xã thị trấn, phường còn có chức năng quản lý đô thị như quản lý thực hiện quy hoạch, quản lý đất đai, nhà ở, vệ sinh môi trường và trật tự đô thị. * Tổ chức bộ máy của chính quyền cấp xã Từ thế kỷ X, tổ chức xã đã trở thành đơn vị hành chính cơ bản trong hệ thống tổ chức hành chính Việt Nam. Phát triển theo sự phát triển của đất nước dù tên gọi có thay đổi theo từng triều đại phong kiến khác nhau, nhưng vai trò, chức năng của xã vẫn không thay đổi. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nhận thấy tầm quan trọng và vai trò to lớn của chính quyền địa phương nên ngay khi mới thành lập, Chính phủ lâm thời đã ban hành sắc lệnh 63/SL ngày 22/11/1954 về tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp. Sắc lệnh quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ của hệ thống chính quyền các cấp, hệ thống này gồm 4 cấp: kỳ, tỉnh, huyện, xã. Như vậy xã được coi là cấp cơ sở. Đây chính là cơ sở pháp lý đầu tiên đề cập đến chính quyền cấp xã và sau đó được hoàn thiện dần trong quy định của các Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và các văn bản có liên quan. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển đã có giai đoạn vai trò quản lý nhà nước ở cơ sở của chính quyền cấp xã hầu như bị tê liệt, thay cho cơ cấu đó là các hợp tác xã gần như làm thay các công việc của chính quyền. Để đáp ứng các yêu cầu của công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng, Hiến pháp 1992 được ban hành. Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy định chính quyền cấp xã gồm Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân và được tổ chức như sau: -Tổ chức Hội đồng nhân dân xã: Theo điều 119 Hiến pháp 1992, Hội đồng nhân dân vẫn được xác định là “cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương” [49, tr.245]. Khác với Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện, Hội đồng nhân dân cấp xã không có các ban chuyên môn giúp việc mà chỉ có Thường trực Hội đồng nhân dân. Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã gồm có Chủ tịch và Phó Chủ tịch. Thường trực Hội đồng nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra. Nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân mỗi khoá là 5 năm kể từ kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân khoá đó cho đến kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân khoá sau. Hình thức hoạt động của Hội đồng nhân dân chủ yếu thông qua các kỳ họp và hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân. Hội đồng nhân dân cấp xã họp thường lệ mỗi năm 2 kỳ. Ngoài kỳ họp thường lệ Hội đồng nhân dân còn tổ chức các kỳ họp chuyên đề hoặc kỳ họp bất thường theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp hoặc khi có ít nhất 2/3 đại biểu Hội đồng nhân dân cùng cấp yêu cầu. Kỳ họp Hội đồng nhân dân được tiến hành khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân tham gia. Hội đồng nhân dân họp công khai, trong trường hợp cần thiết có thể họp kín theo đề nghị của chủ toạ kỳ họp hoặc của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Để phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân, thường trực Hội đồng nhân dân được thành lập ở 3 cấp tỉnh, huyện, xã theo quy định của Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 2003. Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp được bầu cử căn cứ theo quy định của Luật bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân. Đối với cấp xã có từ 25 - 35 đại biểu, tuỳ theo vị trí địa lý, quy mô dân số, điều kiện kinh tế xã hội của từng vùng của địa phương. -Tổ chức Uỷ ban nhân dân cấp xã: “Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân” [49, tr.247]. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyết định các vấn đề quan trọng tại địa phương nhưng do hoạt động không thường xuyên nên các vấn đề như kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch ngân sách địa phương... chỉ có thể thực hiện được thông qua Uỷ ban nhân dân. Uỷ ban nhân dân hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân là năm năm. Thành viên của Uỷ ban nhân dân cấp xã có từ 3 - 5 thành viên gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các uỷ viên. Chủ tịch xã là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ở cơ sở chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của Uỷ ban nhân dân xã trước Hội đồng nhân dân xã và trước Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp. Theo quy định tại điều 8 của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, hoạt động của Uỷ ban nhân dân được thực hiện thông qua các phiên họp, các hoạt động của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, các bộ phận chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân xã. Phiên họp của Uỷ ban nhân dân được tổ chức 01 lần/tháng, đây là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của Uỷ ban nhân dân vì phần lớn nhiệm vụ của Uỷ ban nhân dân được thực hiện tại phiên họp này. Uỷ ban nhân dân xã có các bộ phận chuyên môn, giúp việc cho uỷ ban như: công an - quân sự, văn phòng - thống kê, địa chính - xây dựng, tài chính - kế toán, tư pháp - hộ tịch, văn hoá - xã hội. Các bộ phận chuyên môn này chịu trách nhiệm trước Uỷ ban nhân dân xã và các phòng, ban chuy

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doclv.doc
  • docMUC LUC.doc
Tài liệu liên quan