Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất, là yếu tố hàng đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội, mà hơn thế nữa, con người còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động của mọi quá trình lịch sử. Là sản phẩm của lịch sử, con người còn là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính mình. Chính vì vậy, Đảng ta luôn xác định con người Việt Nam vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ngay từ Đại hội lần thứ III năm 1960, Đảng ta đã khẳng định: "Con người là vốn quý nhất" [9, tr. 77], Đại hội IV năm 1976, Đảng ta đưa ra luận điểm về "Con người mới - con người làm chủ tập thể" [17, tr. 64]. Kế tiếp các kỳ Đại hội VI, VII, VIII trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta khẳng định: "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững" [14, tr. 85]. Và Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Con người và nguồn lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa" [16, tr. 201]. Điều đó cho thấy, tư tưởng, quan điểm của Đảng ta về con người, về vai trò của nhân tố con người (NTCN) là nhất quán. Song, trong thực tiễn không phải thời kỳ nào chúng ta cũng thực hiện đầy đủ tư tưởng trên. Trước đổi mới, chúng ta xem xét đánh giá con người, NTCN có phần chung chung, trừu tượng. Từ Đại hội VI năm 1986 đến nay, con người mới được xem xét một cách cụ thể hơn. Các chủ trương, chính sách để phát huy NTCN ngày càng rõ ràng, thiết thực hơn. Cho nên, trong sự nghiệp đổi mới đất nước việc phát huy NTCN Việt Nam đã có bước chuyển biến đáng kể về mọi mặt, góp phần đưa sự nghiệp đổi mới đất nước phát triển.
Hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) có sự phát triển mới. Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) nói chung và lực lượng vũ trang (LLVT) địa phương thành phố Cần Thơ nói riêng, không chỉ sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ) và chiến đấu chống vũ trang xâm lược của kẻ thù mà còn là lực lượng chính trị trung thành và tin cậy để bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ nhân dân trong cuộc đấu tranh chống "Diễn biến hòa bình" (DBHB), bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc. Cho nên, vấn đề phát huy NTCN nhằm nâng cao vai trò chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ lại đặt ra hết sức cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn như hiện nay.
Sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), những năm qua đã bổ sung cho quân đội - LLVT Quân khu 9 và LLVT thành phố Cần Thơ nhiều cán bộ, chiến sĩ có chất lượng cao và tạo ra môi trường xã hội thuận lợi để thúc đẩy cán bộ, chiến sĩ yên tâm công tác, phấn khởi phát huy tinh thần tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ. Bên cạnh đó, đã có những tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường, làm cho một số cán bộ, chiến sĩ LLVT nói chung và cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành phố Cần Thơ nói riêng nhận thức chưa đầy đủ về nhiệm vụ xây dựng quân đội, nhiệm vụ BVTQ, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ và sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Nhiệm vụ BVTQ của nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh cuộc đấu tranh chính trị thế giới hết sức phức tạp. Các thế lực phản động, thù địch tìm mọi cách chống phá cách mạng nước ta, chống phá công cuộc xây dựng CNXH của nhân dân ta bằng chiến lược "DBHB" và bạo loạn lật đổ, kết hợp răn đe quân sự với các loại hình chiến tranh xâm lược có tính chất, quy mô khác nhau, mà mũi nhọn chống phá của chúng là lĩnh vực chính trị, tư tưởng, quân đội ta được coi là một trong những đối tượng chủ yếu nhằm "phi chính trị hóa lực lượng vũ trang". Đúng như nhận định của nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu: "Sự thách thức đối với quân đội nhân dân lớn nhất là sự thách thức trên mặt trận chính trị, tư tưởng" [53, tr. 61]. Tình hình đó, đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ quân đội phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, cảnh giác mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, SSCĐ và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống. Quân đội ta không chỉ là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu, là lực lượng chính trị đặc biệt trung thành và tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân, mà còn là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD) và chiến tranh nhân dân (CTND), sẵn sàng chống vũ trang xâm lược của kẻ thù, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ chế độ và tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước. Với yêu cầu, chức năng, nhiệm vụ mới, đòi hỏi quân đội nói chung và LLVT địa phương thành phố Cần Thơ nói riêng, không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu mới. Đó là, thiện chiến trong chiến đấu, thiện chiến trong đấu tranh chính trị, tư tưởng.
Cần Thơ là thành phố có vị trí đặc biệt quan trọng, không những là trung tâm về kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học - kỹ thuật. mà còn là địa bàn chiến lược quân sự quan trọng của đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Cần Thơ là đầu mối giao thông thuận tiện về đường thủy và đường bộ nối với các tỉnh miền Tây sông Hậu và thành phố Hồ Chí Minh. Đảng bộ, dân và quân thành phố Cần Thơ đã và đang dồn hết sức xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, xứng đáng là thành phố trực thuộc Trung ương. Trong nhiệm vụ BVTQ, thành phố Cần Thơ là nơi trực tiếp xây dựng tiềm lực, thế trận QPTD, là nơi trực tiếp ngăn ngừa và đánh bại chiến lược "DBHB", bạo loạn lật đổ ở khu vực này. Khi có chiến tranh, thành phố Cần Thơ là khu vực phòng thủ quan trọng vừa là tiền tuyến chiến đấu, vừa là hậu phương chi viện sức người, sức của để BVTQ.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ BVTQ trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhiều vấn đề đặt ra đối với LLVT địa phương thành phố Cần Thơ, nhưng suy cho cùng yếu tố quyết định là con người. Chăm lo bồi dưỡng, đào tạo con người, phát huy nguồn lực con người không những có ý nghĩa quyết định đối với nhiệm vụ trước mắt, mà còn có ý nghĩa chiến lược lâu dài trong nhiệm vụ quốc phòng nói chung, quân sự địa phương (QSĐP) nói riêng.
108 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1499 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Phát huy nhân tố con người trong lực lượng vũ trang địa phương Thành phố Cần Thơ hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất, là yếu tố hàng đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội, mà hơn thế nữa, con người còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động của mọi quá trình lịch sử. Là sản phẩm của lịch sử, con người còn là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính mình. Chính vì vậy, Đảng ta luôn xác định con người Việt Nam vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ngay từ Đại hội lần thứ III năm 1960, Đảng ta đã khẳng định: "Con người là vốn quý nhất" [9, tr. 77], Đại hội IV năm 1976, Đảng ta đưa ra luận điểm về "Con người mới - con người làm chủ tập thể" [17, tr. 64]. Kế tiếp các kỳ Đại hội VI, VII, VIII trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta khẳng định: "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững" [14, tr. 85]. Và Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Con người và nguồn lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa" [16, tr. 201]. Điều đó cho thấy, tư tưởng, quan điểm của Đảng ta về con người, về vai trò của nhân tố con người (NTCN) là nhất quán. Song, trong thực tiễn không phải thời kỳ nào chúng ta cũng thực hiện đầy đủ tư tưởng trên. Trước đổi mới, chúng ta xem xét đánh giá con người, NTCN có phần chung chung, trừu tượng. Từ Đại hội VI năm 1986 đến nay, con người mới được xem xét một cách cụ thể hơn. Các chủ trương, chính sách để phát huy NTCN ngày càng rõ ràng, thiết thực hơn. Cho nên, trong sự nghiệp đổi mới đất nước việc phát huy NTCN Việt Nam đã có bước chuyển biến đáng kể về mọi mặt, góp phần đưa sự nghiệp đổi mới đất nước phát triển.
Hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) có sự phát triển mới. Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) nói chung và lực lượng vũ trang (LLVT) địa phương thành phố Cần Thơ nói riêng, không chỉ sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ) và chiến đấu chống vũ trang xâm lược của kẻ thù mà còn là lực lượng chính trị trung thành và tin cậy để bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ nhân dân trong cuộc đấu tranh chống "Diễn biến hòa bình" (DBHB), bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc. Cho nên, vấn đề phát huy NTCN nhằm nâng cao vai trò chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ lại đặt ra hết sức cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn như hiện nay.
Sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), những năm qua đã bổ sung cho quân đội - LLVT Quân khu 9 và LLVT thành phố Cần Thơ nhiều cán bộ, chiến sĩ có chất lượng cao và tạo ra môi trường xã hội thuận lợi để thúc đẩy cán bộ, chiến sĩ yên tâm công tác, phấn khởi phát huy tinh thần tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ. Bên cạnh đó, đã có những tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường, làm cho một số cán bộ, chiến sĩ LLVT nói chung và cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành phố Cần Thơ nói riêng nhận thức chưa đầy đủ về nhiệm vụ xây dựng quân đội, nhiệm vụ BVTQ, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ và sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Nhiệm vụ BVTQ của nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh cuộc đấu tranh chính trị thế giới hết sức phức tạp. Các thế lực phản động, thù địch tìm mọi cách chống phá cách mạng nước ta, chống phá công cuộc xây dựng CNXH của nhân dân ta bằng chiến lược "DBHB" và bạo loạn lật đổ, kết hợp răn đe quân sự với các loại hình chiến tranh xâm lược có tính chất, quy mô khác nhau, mà mũi nhọn chống phá của chúng là lĩnh vực chính trị, tư tưởng, quân đội ta được coi là một trong những đối tượng chủ yếu nhằm "phi chính trị hóa lực lượng vũ trang". Đúng như nhận định của nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu: "Sự thách thức đối với quân đội nhân dân lớn nhất là sự thách thức trên mặt trận chính trị, tư tưởng" [53, tr. 61]. Tình hình đó, đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ quân đội phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, cảnh giác mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, SSCĐ và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống. Quân đội ta không chỉ là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu, là lực lượng chính trị đặc biệt trung thành và tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân, mà còn là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD) và chiến tranh nhân dân (CTND), sẵn sàng chống vũ trang xâm lược của kẻ thù, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ chế độ và tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước. Với yêu cầu, chức năng, nhiệm vụ mới, đòi hỏi quân đội nói chung và LLVT địa phương thành phố Cần Thơ nói riêng, không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu mới. Đó là, thiện chiến trong chiến đấu, thiện chiến trong đấu tranh chính trị, tư tưởng.
Cần Thơ là thành phố có vị trí đặc biệt quan trọng, không những là trung tâm về kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học - kỹ thuật... mà còn là địa bàn chiến lược quân sự quan trọng của đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Cần Thơ là đầu mối giao thông thuận tiện về đường thủy và đường bộ nối với các tỉnh miền Tây sông Hậu và thành phố Hồ Chí Minh. Đảng bộ, dân và quân thành phố Cần Thơ đã và đang dồn hết sức xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, xứng đáng là thành phố trực thuộc Trung ương. Trong nhiệm vụ BVTQ, thành phố Cần Thơ là nơi trực tiếp xây dựng tiềm lực, thế trận QPTD, là nơi trực tiếp ngăn ngừa và đánh bại chiến lược "DBHB", bạo loạn lật đổ ở khu vực này. Khi có chiến tranh, thành phố Cần Thơ là khu vực phòng thủ quan trọng vừa là tiền tuyến chiến đấu, vừa là hậu phương chi viện sức người, sức của để BVTQ.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ BVTQ trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhiều vấn đề đặt ra đối với LLVT địa phương thành phố Cần Thơ, nhưng suy cho cùng yếu tố quyết định là con người. Chăm lo bồi dưỡng, đào tạo con người, phát huy nguồn lực con người không những có ý nghĩa quyết định đối với nhiệm vụ trước mắt, mà còn có ý nghĩa chiến lược lâu dài trong nhiệm vụ quốc phòng nói chung, quân sự địa phương (QSĐP) nói riêng.
Từ những vấn đề nêu trên, việc phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ, cần phải có một số giải pháp đồng bộ, phù hợp đối với LLVT địa phương thành phố Cần Thơ. Cả về lý luận và thực tiễn đang đặt ra một cách cấp thiết, đòi hỏi phải được nghiên cứu sâu sắc, có hệ thống để lý giải đúng, kịp thời vấn đề góp phần xây dựng LLVT thành phố Cần Thơ chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới. Từ tính cấp thiết trên, tác giả chọn vấn đề: " Phỏt huy nhõn tố con người trong lực lượng vũ trang địa phương thành phố Cần Thơ hiện nay " làm đề tài luận văn thạc sĩ triết học.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong các tác phẩm kinh điển mác-xít, đặc biệt là những tác phẩm của Hồ Chí Minh, vấn đề con người, về xây dựng LLVT được đề cập đến một cách toàn diện, có hệ thống mang ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp xây dựng và BVTQ trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay.
Thời gian qua, vấn đề con người, NTCN nói chung và NTCN trong lĩnh vực quân sự nói riêng đã và đang có sự quan tâm, thu hút nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới như: "Nhân tố tinh thần và chính trị trong chiến tranh hiện đại" (của Học viện Quân chính Lênin, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1960); "Học thuyết Mác-Lênin về chiến tranh và quân đội" (của D.A.Vôn-cô-gô-nốp, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1987); "Hệ thống con người và kỹ thuật quân sự" (của giáo sư, tiến sĩ triết học A.B.Pypco, Nxb Quân đội nhân dân, 1976). Và đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước ở Việt Nam, vấn đề con người, NTCN được Đảng, Nhà nước ta chú ý quan tâm. Những kết quả thu được bằng nhiều công trình của tập thể và cá nhân có liên quan đến các khía cạnh khác nhau đã được công bố như:
"Con người - những ý kiến mới về một đề tài cũ" (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987); "Bàn về chiến lược con người" (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989); "Con người Việt Nam trong công cuộc đổi mới" (Đề tài KX.07); "Mối quan hệ biện chứng giữa con người và vũ khí trong sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam" (của tác giả Phạm Thanh Sơn, Luận án PTS triết học, 1994); "Nâng cao chất lượng của nhân tố con người trong sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân hiện nay" (của tác giả Hoàng Quang Đạt, Luận án PTS triết học, 1995); "Tích cực hóa nhân tố con người của đội ngũ sĩ quan trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" (của tác giả Nguyễn Văn Tài, Luận án tiến sĩ triết học, 1998); "Phát huy nhân tố con người bộ đội pháo binh Việt Nam trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay" (của tác giả Nguyễn Đức Khang, Luận án tiến sĩ triết học, 2002); "Nâng cao vai trò nhân tố chủ quan trong việc xây dựng sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" (tác giả Phạm Khắc Ninh, Luận văn thạc sĩ triết học, 1997).
Và một số công trình nghiên cứu được công bố trên các tạp chí, báo chí như: "Các Mác với vấn đề con người và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa" (tác giả Lê Thi, tạp chí triết học, số 4, tháng 12/1983); "Mấy vấn đề về "trồng người" trong tư tưởng Hồ Chí Minh" (tác giả Lê Sỹ Thắng, tạp chí triết học, số 2, tháng 6/1995); "Về con người Việt Nam trước và sau 10 năm đổi mới" (tác giả Lê Hữu Tầng, tạp chí triết học, số 4, tháng 8/1997); "Nhân tố con người và những giá trị văn hóa" (tác giả Trường Lưu, tạp chí triết học, số 1, tháng 3/1993); "Nâng cao năng lực trí tuệ-một công việc cấp bách xây dựng Quân đội nhân dân trong giai đoạn cách mạng mới" (tác giả Đặng Vũ Hiệp, tạp chí Quốc phòng toàn dân, tháng 4/1995)...
Những công trình nghiên cứu trên của các tác giả đã đề cập đến nhiều khía cạnh, nhiều cấp độ khác nhau về con người, NTCN nói chung và con người, NTCN trong quân đội nói riêng. Chưa có công trình nào nghiên cứu về con người, NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ. Tác giả luận văn kế thừa những kết quả nghiên cứu của các công trình trên để đi sâu vào đề tài "Phát huy nhân tố con người trong lực lượng vũ trang địa phương thành phố Cần Thơ" dưới góc độ một luận văn triết học.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở vạch ra thực trạng việc phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ, luận văn chỉ ra những vấn đề phát sinh và đưa ra những giải pháp để phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ trong tình hình mới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Luận văn tập trung giải quyết các vấn đề sau:
- Làm sáng rõ đặc điểm và vai trò của NTCN, phát huy NTCN trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ, nhiệm vụ quốc phòng, QSĐP hiện nay.
- Đánh giá thực trạng việc phát huy NTCN, đồng thời đặt ra những vấn đề của việc phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ.
- Đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ đối với việc thực hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu quá trình hoạt động thực tiễn của LLVT địa phương thành phố Cần Thơ: Xây dựng, huấn luyện và SSCĐ. Dựa vào kết quả điều tra, khảo sát thực tế về thực trạng NTCN, cũng như việc phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ ở một số cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ chỉ huy quân sự thành phố.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương, chính sách và đường lối của Đảng và Nhà nước ta; các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng ủy quân sự Trung ương, Tổng Cục chính trị, Đảng ủy quân sự Quân khu 9, Thành ủy Cần Thơ và Đảng ủy quân sự thành phố Cần Thơ.
- Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp các phương pháp khác: lịch sử và lôgíc, điều tra xã hội học, so sánh, đối chiếu...
6. Những đóng góp và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Làm sáng tỏ đặc điểm, vai trò NTCN trong LLVT, đặc biệt ở thành phố Cần Thơ, cũng như những bài học kinh nghiệm để phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ.
- Phân tích thực trạng NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ, đề ra một số vấn đề nảy sinh trong việc phát huy NTCN của LLVT địa phương thành phố Cần Thơ.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ đối với nhiệm vụ BVTQ; nhiệm vụ quốc phòng, công tác QSĐP trong tình hình mới.
Luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo trong giảng dạy ở Trường quân sự Quân khu 9, Trường QSĐP thành phố Cần Thơ cũng như trong hoạt động thực tiễn của các cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương. Mặt khác, luận văn góp phần làm phong phú đường lối quân sự của Đảng ta trên vấn đề NTCN trong xây dựng LLVT địa phương là nâng cao NTCN và tích cực phát huy NTCN của LLVT nói chung, LLVT địa phương thành phố nói riêng. Từ đó, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình hình hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
yêu cầu cấp bách Của Việc Phát HUY NHÂN Tố CON Người TRONG Lực Lượng Vũ TRANG Địa PHƯƠNG Thành Phố Cần THƠ Hiện NAY
1.1. Khái Niệm: CON Người, NHÂN Tố CON Người, NHÂN Tố CON Người TRONG Lực Lượng Vũ TRANG
1.1.1. Khái niệm con người
Vấn đề con người là một vấn đề tưởng là cũ nhưng rất mới, vì lẽ, con người còn chứa đựng rất nhiều tiềm năng và giá trị nhưng chưa được phát hiện và khai thác triệt để. Con người còn tồn tại thì vấn đề con người vẫn được đặt ra và các nhà tư tưởng, các trường phái triết học quan tâm nghiên cứu. Suy cho cùng, chính từ con người, vấn đề cơ bản của triết học mới được xác định, cũng như những vấn đề về thế giới quan và phương pháp luận mới được đặt ra. Không phải C. Mác là người đầu tiên phát hiện vấn đề con người là vấn đề trung tâm của thế giới để đặt ra vấn đề giải phóng xã hội loài người; mà trước đó, các trường phái triết học cũng đề cập vấn đề này trên nhiều bình diện khác nhau. Nhưng chỉ có C. Mác mới xem xét vấn đề con người một cách cụ thể, sâu sắc và toàn diện trên quan điểm duy vật biện chứng bằng sự kế thừa rất biện chứng những giá trị khoa học đã có trong lịch sử triết học về con người. Các nhà triết học trước C. Mác do hạn chế về thế giới quan, hoặc do hạn chế về điều kiện lịch sử nên vấn đề con người giải thích theo hướng duy tâm thần bí, siêu hình.
Sai lầm của các nhà triết học duy tâm khi coi bản chất con người là sản phẩm của các đấng siêu nhiên tối cao, là hiện thân của "tinh thần tuyệt đối", là kết quả của sự "tha hóa" của tinh thần tuyệt đối mà có, hoặc là sản phẩm của ý thức chủ quan của chính bản thân con người. Còn quan điểm của các nhà triết học duy vật trước C. Mác cho rằng, con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của sự phát triển của tự nhiên. Họ còn cho rằng, con người bẩm sinh là một sinh vật có tính xã hội. Họ chỉ thấy sự tồn tại hiện thực của con người trong mối quan hệ với tự nhiên mà không hề xét đến mối quan hệ chi phối cuộc sống của họ. Cách khác, họ thừa nhận tác động của môi trường đối với sự cải biến con người, mà họ giải thích không đúng với bản chất con người và vai trò của con người trong thực tiễn cách mạng, cũng như vai trò của thực tiễn đối với việc hình thành và phát triển con người.
Chỉ có C. Mác và Ph. Ăngghen nghiên cứu, nhận thức về con người mới có sự thay đổi căn bản về chất so với các nhà triết học khác.
Xuất phát từ con người hiện thực, C. Mác vận dụng phép biện chứng duy vật vào việc phân tích các mối quan hệ xã hội và chỉ ra rằng, con người tồn tại với tư cách là người khi nó gắn với thế giới xung quanh, với cộng đồng và với người khác. Hoạt động thực tiễn của con người tạo thành hệ thống các mối quan hệ xã hội. C. Mác viết trong Luận cương về Feuerbach: "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội" [38, tr. 11]. Điều đó có nghĩa là, những quan hệ xã hội đó được thể hiện trong toàn bộ hoạt động cụ thể của con người. Chỉ có những con người sống, hoạt động trong một xã hội nhất định, một thời đại nhất định, trong những điều kiện lịch sử nhất định chứ không có những con người trừu tượng. Con người chỉ có thể bộc lộ và thực hiện được bản chất của mình trong toàn bộ những quan hệ xã hội cụ thể mà thôi. Chúng ta không thể dừng lại ở mối quan hệ chật hẹp giữa cơ thể con người và môi trường, mà muốn hiểu được nó - Con người hiện thực, đời sống hiện thực của con người thì phải xem xét toàn diện các mối quan hệ. Đó chính là mối quan hệ của con người với tự nhiên và xã hội.
Tự nhiên, xã hội và con người là một chỉnh thể thống nhất, có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể sáng tạo ra tự nhiên và xã hội ở trình độ cao hơn. Cho nên, không có xã hội và tổng hòa các mối quan hệ xã hội thì sẽ không có con người đúng theo nghĩa của nó. Bản chất của con người hiện thực được quy định bởi các quan hệ xã hội. Tự nhiên sinh ra con người, là cái có trước con người, nên con người phụ thuộc vào tự nhiên và các quy luật của tự nhiên. Con người trở thành chính mình là vì không lệ thuộc thụ động vào tự nhiên như những sinh vật khác. Chính nhờ lao động, thông qua lao động con người thích nghi với tự nhiên, hoàn cảnh, môi trường và cải tạo tự nhiên, làm ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu của chính mình mà tự nhiên không có. Quá trình cải tạo tự nhiên là quá trình con người tự hoàn thiện chính mình, tự khẳng định mình trước tự nhiên.
Con người có trước xã hội. Xã hội loài người hiểu theo đúng nghĩa của nó khi tính cộng động và những mối quan hệ xã hội con người được hình thành và thiết lập vững chắc. Chỉ có trong đời sống thực tiễn, con người mới được hình thành và ngày càng hoàn thiện. C. Mác và Ph.Ăngghen nghiên cứu sâu sắc những thành tựu của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và chỉ ra rằng: Con người không do ai sáng tạo ra mà là sản phẩm cao nhất trong quá trình phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Đây là bước ngoặt cách mạng trong nhận thức về bản chất con người do hai ông đem lại.
C. Mác chỉ rõ rằng, mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều gắn với một phương thức sản xuất vật chất nhất định, khi phương thức sản xuất vật chất biến đổi thì lực lượng sản xuất cũng biến đổi theo. Nhân tố quyết định sự biến đổi đó chính là hai yếu tố: người lao động và tư liệu sản xuất. Con người cùng với công cụ lao động do con người tạo ra đã quyết định sự phát triển của xã hội. Ngược lại, sự phát triển của xã hội đến lượt nó lại quyết định sự hoàn thiện và phát triển chính bản thân con người. Đây là luận điểm có ý nghĩa quan trọng mà C. Mác đã vạch ra, là cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu con người, NTCN trong xã hội hiện nay. C. Mác và Ph.Ăngghen đã viết:
Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do họ hoạt động của chính họ tạo ra [38, tr. 28-29].
Chính việc đưa quan điểm thực tiễn vào việc nghiên cứu con người, C. Mác và Ph.Ăngghen đã chuyển từ những suy luận tư biện về con người sang những giải pháp có cơ sở vững chắc trong đời sống xã hội. Hai ông đã tiếp thu tư tưởng hợp lý của Hêghen một cách sáng tạo khi cho rằng, con người là sản phẩm của chính họ, cái gọi là tính người chính là sản phẩm của hoạt động lao động của con người. Hai ông đã khẳng định rằng, hoạt động là phương thức tồn tại của con người. Mặt khác, hai ông phê phán Feuerbach và các nhà triết học duy vật trước kia, rằng họ chỉ thấy giới tự nhiên như là khách thể mà không nhìn thấy trong giới tự nhiên có hoạt động thực tiễn của con người. Trong hoạt động thực tiễn, con người đã tạo ra thiên nhiên thứ hai chính từ thiên nhiên thứ nhất. Con người đã khách thể hóa bản chất của mình vào tự nhiên thuần túy để tạo nên thiên nhiên thứ hai cho mình. Đây là phát hiện mới của hai ông: con người có khả năng cải tạo thế giới và cải tạo bản thân mình thông qua hoạt động thực tiễn.
Xuất phát điểm từ thực tiễn, C. Mác đã xây dựng lý luận về vai trò tích cực của con người-Con người là chủ thể của sự vận động lịch sử, của sự phát triển trong mỗi cá nhân con người. Nói cách khác, hoạt động thực tiễn trở thành yếu tố quyết định đến sự hình thành nhân cách, làm con người trở thành người thực sự, bản chất con người chính là nhân cách. Nhân cách đó được thể hiện trong các mối quan hệ xã hội. Quá trình lao động sáng tạo chính là quá trình con người nhập thân vào các quan hệ xã hội, tạo ra những giá trị xã hội. Mặt khác, chính những giá trị này tác động trở lại hình thành và phát triển nhân cách con người, bản chất xã hội của con người.
Khác hẳn quan niệm con người ý thức của chủ nghĩa duy tâm, con người sinh vật của chủ nghĩa nhân bản Feuerbach, quan niệm của C. Mác rất khoa học:
Nếu như tính cách con người là do hoàn cảnh tạo nên thì do đó phải làm cho hoàn cảnh hợp với tính người. Nếu như con người bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội thì do đó con người chỉ có thể phát triển bản tính chân chính của mình trong xã hội và cần phải phán đoán lực lượng của bản tính anh ta, không phải căn cứ vào lực lượng của cá nhân riêng lẻ mà căn cứ vào lực lượng của toàn xã hội [37, tr. 200].
Con người tồn tại, phát triển và tham gia vào các hoạt động đời sống hiện thực cần phải thỏa mãn những tiền đề về nhu cầu tự nhiên như một cá thể sinh vật, xã hội. Và chính hoạt động sáng tạo trong đời sống hiện thực đã đem lại sự hoàn thiện NTCN. Theo C. Mác, giải phóng con người chính là hoàn thiện NTCN, hình thành nên những cá nhân tự do, làm phong phú và lành mạnh các quan hệ xã hội của con người. Xét về bản chất, phát triển con người là quá trình giải phóng NTCN để hoàn thiện năng lực người. Con người mang bản chất người nhiều hơn. Qua mỗi giai đoạn cách mạng, con người được hình thành và hoàn thiện từng bước, khắc phục sự tha hóa của con người, để con người hoạt động với tư cách là chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo vì sự phát triển xã hội.
Tóm lại, triết học Mác đã góp phần thực hiện mục tiêu giải phóng con người khỏi áp bức bất công, xây dựng cuộc sống con người văn minh, hạnh phúc. C. mác đã nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề con người; đồng thời đặt ra những điều kiện cần thiết để con người phát triển toàn diện, hài hòa và đạt tới tự do khi đã nhận thức được cái tất yếu. Chính lý luận của chủ nghĩa Mác về con người và bản chất con người đã đem lại phương pháp tiếp cận mới trong việc giáo dục, xây dựng con người, phát huy NTCN.
1.1.2. Khái niệm nhân tố con người
NTCN là một khái niệm rộng được các nhà khoa học Việt Nam và các quốc gia trên thế giới tiếp cận nghiên cứu dưới nhiều lĩnh vực khác nhau, góc độ khác nhau. Họ tìm kiếm con đường, giải pháp để phát huy tính tích cực xã hội của con người trong đời sống thực tiễn. Quan niệm về NTCN của một số tác giả như sau:
Thứ nhất, NTCN là toàn bộ những dấu hiệu đặc thù nói lên vai trò của con người, trong hệ thống các mối quan hệ xã hội. Đó là tất cả những gì liên quan đến con người như một chủ thể hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội [29, tr. 28].
Thứ hai, NTCN với tư cách là một phạm trù triết học xã hội nói lên vai trò, vị trí và những ảnh hưởng của con người trong hoạt động thực tiễn nhằm cải biến hiện thực, tự biểu hiện, tự khẳng định những sức mạnh tiềm tàng của bản thân con người trong quá trình phát triển và hoàn thiện bản chất xã hội của nó (nhóm tác giả PGS.TS Hoàng Chí Bảo, TS. Nguyễn Văn Nhớn...).
Như vậy, ở quan niệm thứ nhất, nêu lên được con người là chủ thể trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội và vai trò của nó trong các quan hệ xã hội. ở quan niệm thứ hai, cho thấy những sức mạnh tiềm tàng của NTCN thông qua hoạt động thực tiễn và vai trò của NTCN có ảnh hưởng đến việc cải biến thế giới hiện thực. Còn theo GS.TS Phạm Minh Hạc, trong sự phát triển kinh tế, xã hội, NTCN giữ vị trí trung tâm, quyết định. NTCN chẳng những là nhân lực, mà trở thành nguồn lực sinh ra các nguồn lực khác và được gọi là nguồn nhân lực hay nguồn lực con người [22, tr. 11]. ở đây, tác giả đề cập đến vai trò NTCN, nhấn mạnh đến vai trò quyết định của NTCN trong chuỗi hệ thống nhân tố tác động đến sự phát triển xã hội.
Nhìn chung, khi xây dựng khái niệm NTCN, các tác giả đều nhấn mạnh đến mặt hoạt động thực tiễn của con người. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với quan niệm cho rằng: "Nhân tố con người chính là tổng hòa các đặc trưng xã hội quy định vai trò chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người trong một quá trình lịch sử, xã hội". Do vậy, khi nghiên cứu NTCN, tùy theo mục đích, phạm vi nghiên cứu và các quan hệ xác định để sử dụng, nhưng không được sử dụng chúng với tư cách như là công cụ nhận thức khoa học.
1.1.3. Khái niệm nhân tố con người trong lực lượng vũ trang
NTCN trong LLVT là sự vận dụng khoa học đối với khái niệm chung về NTCN nhằm mục đích nghiên cứu một chủ thể xác định là LLVT nói chung và LLVT địa phương thành phố Cần Thơ nói riêng nhằm khai thác chiều sâu về những đặc trưng