Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, là chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc đòi hỏi phải có sự hy sinh gian khổ, phải có sức khoẻ và sự sáng tạo. Thanh niên là độ tuổi sung sức về thể chất và phát triển về trí tuệ, thanh niên luôn năng động, sáng tạo và muốn khẳng định mình. Song do còn trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm nên thanh niên cần được sự giúp đỡ, chăm lo bồi dưỡng của thế hệ đi trước và toàn xã hội. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thường xuyên quan tâm, chăm lo, giáo dục, rèn luyện thanh niên để họ trở thành những người có đủ đức, đủ tài, có thể gánh vác được tương lai của Tổ quốc, của nhân dân. Trong Di chúc của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết".
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo hơn hai mươi năm qua đã giành được nhiều thành tựu to lớn. Toàn Đảng, toàn dân ta đang phấn đấu để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Để đạt được mục tiêu này thì sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ kỹ thuật là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, sự tiến bộ kỹ thuật, sự tăng trưởng kinh tế không thể tách rời sự tiến bộ về văn hoá - xã hội, sự phát triển con người. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã nêu rõ:
Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp, ý thức cội nguồn và lòng tự hào dân tộc; khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn. Tiếp thu tinh hoa văn hoá các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hoá Việt Nam [13, tr.11].
Tinh thần này tiếp tục được Đảng ta khẳng định tại Đại hội lần thứ IX, lần X của Đảng, rằng văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Điều đó đòi hỏi mỗi người Việt Nam, trong đó có đội ngũ sinh viên phải hiểu biết sâu sắc những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc mình, của các thế hệ thanh niên, để tiếp tục phát huy những giá trị này trong cuộc sống hôm nay.
Chúng ta đang tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ và tiếp xúc với văn hoá, lối sống hiện đại của thế giới. Những nhân tố này tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có đạo đức. Các giá trị nói chung, các giá trị đạo đức nói riêng, đang vận động liên tục và ngày càng phức tạp. Nền kinh tế thị trường đã tỏ rõ những ưu thế của nó trong đời sống hiện thực, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, công nghệ, đồng thời tạo ra điều kiện để con người bộc lộ khả năng của mình, con người trở nên năng động hơn, sáng tạo hơn, nhạy bén hơn, tự chủ hơn. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường cũng làm nảy sinh các phản giá trị, tạo ra một bộ phận dân cư sống thực dụng, cá nhân hẹp hòi, bất chấp đạo lý, sống gấp, lừa đảo
Thế hệ thanh niên, trong đó có đội ngũ sinh viên, cũng đang hàng ngày hàng giờ bị tác động bởi những nhân tố trên. Đáng lưu ý, sinh viên là lực lượng đặc biệt quan trọng và trong tương lai gần họ sẽ là lực lượng lao động có trình độ, là bộ phận sẽ tham gia vào đội ngũ trí thức góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, sinh viên đang phải đối mặt với nhiều áp lực sau khi ra trường về việc làm, về năng lực chuyên môn, ngoại ngữ, tin học mà sự phát triển của xã hội hiện đại đòi hỏi. Trong khi đó, hàng ngày sinh viên đang gặp nhiều khó khăn về kinh tế, điều kiện học tập, nhà ở Một bộ phận sinh viên thiếu kiên trì, nản chí, mất niềm tin, mất phương hướng đã mắc vào các tệ nạn xã hội, thậm chí là phạm tội.
Đại học Thái Nguyên là một trường Đại học vùng, có số lượng sinh viên đông (năm 2008 là 69.174 người). Sinh viên của Trường cũng đang đứng trước những thách thức mà sinh viên cả nước đang phải đối mặt.
Điều đó đặt ra yêu cầu bức thiết là phải nhận thức đúng đắn vai trò của việc xây dựng đạo đức mới và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên nói chung và sinh viên Đại học Thái Nguyên nói riêng.
124 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1501 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ph¸t huy gi¸ trÞ ®¹o ®øc truyÒn thèng cña thanh niªn trong viÖc x©y dùng ®¹o ®øc míi cho sinh viªn ®¹i häc th¸i nguyªn hiÖn nay
Hµ Néi - 2009
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA THANH NIÊN ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN HIỆN NAY
7
1.1. Giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên Việt Nam - Một số vấn đề lý luận
7
1.2. Vai trò của giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay
31
1.3. Phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay là yêu cầu khách quan
47
Chương 2: PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA THANH NIÊN TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
62
2.1. Thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay
62
2.2. Nguyên nhân của những thành công và hạn chế của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay
86
2.3. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay
92
KẾT LUẬN
113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
115
PHỤ LỤC
119
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, là chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc đòi hỏi phải có sự hy sinh gian khổ, phải có sức khoẻ và sự sáng tạo. Thanh niên là độ tuổi sung sức về thể chất và phát triển về trí tuệ, thanh niên luôn năng động, sáng tạo và muốn khẳng định mình. Song do còn trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm nên thanh niên cần được sự giúp đỡ, chăm lo bồi dưỡng của thế hệ đi trước và toàn xã hội. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thường xuyên quan tâm, chăm lo, giáo dục, rèn luyện thanh niên để họ trở thành những người có đủ đức, đủ tài, có thể gánh vác được tương lai của Tổ quốc, của nhân dân. Trong Di chúc của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết".
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo hơn hai mươi năm qua đã giành được nhiều thành tựu to lớn. Toàn Đảng, toàn dân ta đang phấn đấu để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Để đạt được mục tiêu này thì sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ kỹ thuật là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, sự tiến bộ kỹ thuật, sự tăng trưởng kinh tế không thể tách rời sự tiến bộ về văn hoá - xã hội, sự phát triển con người. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã nêu rõ:
Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp, ý thức cội nguồn và lòng tự hào dân tộc; khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn. Tiếp thu tinh hoa văn hoá các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hoá Việt Nam [13, tr.11].
Tinh thần này tiếp tục được Đảng ta khẳng định tại Đại hội lần thứ IX, lần X của Đảng, rằng văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Điều đó đòi hỏi mỗi người Việt Nam, trong đó có đội ngũ sinh viên phải hiểu biết sâu sắc những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc mình, của các thế hệ thanh niên, để tiếp tục phát huy những giá trị này trong cuộc sống hôm nay.
Chúng ta đang tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ và tiếp xúc với văn hoá, lối sống hiện đại của thế giới. Những nhân tố này tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có đạo đức. Các giá trị nói chung, các giá trị đạo đức nói riêng, đang vận động liên tục và ngày càng phức tạp. Nền kinh tế thị trường đã tỏ rõ những ưu thế của nó trong đời sống hiện thực, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, công nghệ, đồng thời tạo ra điều kiện để con người bộc lộ khả năng của mình, con người trở nên năng động hơn, sáng tạo hơn, nhạy bén hơn, tự chủ hơn. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường cũng làm nảy sinh các phản giá trị, tạo ra một bộ phận dân cư sống thực dụng, cá nhân hẹp hòi, bất chấp đạo lý, sống gấp, lừa đảo…
Thế hệ thanh niên, trong đó có đội ngũ sinh viên, cũng đang hàng ngày hàng giờ bị tác động bởi những nhân tố trên. Đáng lưu ý, sinh viên là lực lượng đặc biệt quan trọng và trong tương lai gần họ sẽ là lực lượng lao động có trình độ, là bộ phận sẽ tham gia vào đội ngũ trí thức góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, sinh viên đang phải đối mặt với nhiều áp lực sau khi ra trường về việc làm, về năng lực chuyên môn, ngoại ngữ, tin học… mà sự phát triển của xã hội hiện đại đòi hỏi. Trong khi đó, hàng ngày sinh viên đang gặp nhiều khó khăn về kinh tế, điều kiện học tập, nhà ở… Một bộ phận sinh viên thiếu kiên trì, nản chí, mất niềm tin, mất phương hướng… đã mắc vào các tệ nạn xã hội, thậm chí là phạm tội.
Đại học Thái Nguyên là một trường Đại học vùng, có số lượng sinh viên đông (năm 2008 là 69.174 người). Sinh viên của Trường cũng đang đứng trước những thách thức mà sinh viên cả nước đang phải đối mặt.
Điều đó đặt ra yêu cầu bức thiết là phải nhận thức đúng đắn vai trò của việc xây dựng đạo đức mới và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên nói chung và sinh viên Đại học Thái Nguyên nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phát huy giá trị truyền thống, trong đó có giá trị đạo đức và vấn đề xây dựng đạo đức mới nói chung, xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ nói riêng đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau. Đáng chú ý là các chuyên khảo của các nhà triết học, văn hoá học Xô Viết như:“Tính kế thừa trong sự phát triển văn hoá” (Matxcơva, 1969) của E.A.Bale, “Nguyên lý đạo đức cộng sản” (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1961) của A.Si-Skin, “Đạo đức học” Tập I và II (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1985) của G.Bandzeladze…
Ở nước ta, nhiều nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng đời sống văn hoá (trong đó có đời sống đạo đức) và con người Việt Nam thời đại mới như: “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” của G.S. Trần Văn Giàu (Nxb Khoa học xã hội, 1980), “Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và đạo đức trong đổi mới tư duy” của GS.TS Nguyễn Ngọc Long (Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 2/1987), “Đến hiện đại từ truyền thống” của GS.Trần Đình Hựu (Nxb Văn hoá, Hà Nội 1995), “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế thị trường trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay” của TS Nguyễn Thế Kiệt (Tạp chí Triết học, 6/1996), “Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý” của PGS.TS Nguyễn Tĩnh Gia (Tạp chí Nghiên cứu lý luận 2/1997), “Giá trị truyền thống, nhân lõi và sức sống bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc” của PGS. Nguyễn Văn Huyên (Tạp chí Triết học 4/1998),“Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay” do PGS.TS Nguyễn Chí Mỳ chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999), “Từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh” của PGS.TS. Nguyễn Hùng Hậu (tạp chí triết học, 9/2005), “Từ đạo đức truyền thống đến đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh” của PGS. TS. Nguyễn Thế Kiệt (Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 7/2006).
Vấn đề giữ gìn và nâng cao giá trị đạo đức truyền thống cũng thu hút được sự quan tâm nghiên cứu như: Vũ Thị Huệ với luận văn thạc sỹ Triết học “Quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường với việc giữ gìn và nâng cao những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1997, Cao Thu Hằng với luận văn thạc sỹ Triết học “Giá trị đạo đức truyền thống và sự phát triển nhân cách con người Việt Nam hiện nay”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002… Có những tác giả cũng đã đi sâu nghiên cứu việc xây dựng đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay như: Luận văn thạc sỹ triết học của Phan Văn Ba, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 1998 “Vấn đề giáo dục truyền thống dân tộc cho thế hệ trẻ hiện nay - thực trạng và giải pháp”, Luận văn tiến sỹ triết học của Trần Sỹ Phán, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 1999 “Giáo dục đạo đức và sự hình thành phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sỹ Triết học của Nguyễn Đình Quế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2000 “Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay (Qua thực tế ở Tỉnh Kiên Giang)”, Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Nghiên cứu lý luận 1/1995 với bài: “Văn hoá và sự phát triển nhân cách thanh niên”; “Mô hình nhân cách thanh niên năm 2000” của Phạm Hoàng Gia, Hà Nội, 1990.
Vấn đề kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc và xây dựng đạo đức mới ở nước ta hiện nay đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, nhưng vấn đề phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên ở một Trường Đại học cụ thể như Đại học Thái Nguyên chưa có sự nghiên cứu mang tính chuyên đề chuyên sâu. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Triết học.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Qua thực tế ở một số Trường, Khoa thành viên trực thuộc Đại học Thái Nguyên, phân tích thực trạng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên, từ đó đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên Việt Nam
Thứ hai, phân tích vai trò của giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay.
Thứ ba, làm rõ việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay là yêu cầu khách quan.
Thứ tư, phân tích thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại họcThái Nguyên hiện nay.
Thứ năm, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Những giá trị đạo đức truyền thống tích cực của thanh niên cần được đội ngũ sinh viên kế thừa và phát huy .
- Luận văn chủ yếu tập trung phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến đạo đức của sinh viên hiện nay, nảy sinh từ khi Đảng chủ chương tiến hành công cuộc đổi mới đất nước đến nay (1986- 2009). Qua khảo sát thực tế ở một số sinh viên chính quy của các Trường, Khoa trực thuộc Đại học Thái Nguyên.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận chủ yếu của luận văn là dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan tới nội dung được đề cập trong luận văn.
Luận văn vận dụng tổng hợp các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như sự thống nhất giữa lôgíc và lịch sử, giữa lý luận và thực tiễn…Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, phương pháp điều tra xã hội học…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Phân tích tầm quan trọng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên, những yêu cầu và thực trạng về việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống của sinh viên Đại học Thái Nguyên, từ đó đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của việc xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ sinh viên nói chung và sinh viên Đại học Thái Nguyên nói riêng.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Góp phần làm sảng tỏ sự cần thiết phải phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay trong đó có sinh viên Đại học Thái Nguyên.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các tổ chức, các đoàn thể trực tiếp làm công tác thanh niên.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA THANH NIÊN
ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN HIỆN NAY
1.1. GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
Khái niệm giá trị xuất hiện từ rất sớm. Thời kỳ cổ đại, khái niệm giá trị gắn chặt với Triết học. Từ nửa sau thế kỷ XIX, khái niệm giá trị trở thành khái niệm trung tâm của giá trị học. Hiện nay, khái niệm giá trị được sử dụng trong nhiều bộ môn khoa học xã hội và nhân văn khác nhau, như triết học, xã hội học, tâm lý học, đạo đức học, kinh tế học…
Trong kinh tế học, khái niệm giá trị gắn với hàng hoá hay vật phẩm, là sự kết tinh của lao động xã hội trong hàng hoá hay vật phẩm đó. Hàng hoá có giá trị và giá trị sử dụng. Theo cách tiếp cận triết học, khái niệm giá trị được xác định trong mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể, là bản thân sự vật với những thuộc tính bản chất khách quan của nó và sự nhận thức (đánh giá) của chủ thể con người với khách thể đó. Giá trị là “giá trị của đối tượng”, mang tính khách quan, nhưng lại là kết quả của sự đánh giá của chủ thể về những phẩm chất, thuộc tính, bản chất vốn có của sự vật.
Theo Từ điển Bách khoa Triết học của Liên Xô (cũ) giá trị được định nghĩa là: “Khái niệm triết học và xã hội học dùng để chỉ, thứ nhất tầm quan trọng có tính khẳng định hoặc phủ định một khách thể nào đó, khác với đặc tính tồn tại và chất lượng của khách thể này…; thứ hai, khía cạnh chuẩn mực, mệnh lệnh – đánh giá của các hiện tượng ý thức của xã hội” [16, tr.7].
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Xô Viết định nghĩa:
Giá trị là một sự khẳng định hay phủ định ý nghĩa của các đối tuợng thuộc thế giới xung quanh đối với con người, giai cấp, nhóm hoặc toàn bộ xã hội nói chung. Giá trị được xác định không phải bởi bản tính các thuộc tính tự nhiên mà bởi tính chất cuốn hút (lôi cuốn) của các thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động sống của con người, phạm vi các hứng thú và nhu cầu, các mối quan hệ xã hội, các chuẩn mực và phương thức đánh giá ý nghĩa nói trên được biểu hiện trong các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức, trong lý tưởng, tâm thế và mục đích [56, tr.51-52].
Trong việc định hướng giá trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay, Ban thanh niên trường học cho rằng: “Giá trị là những cái thuộc về sự vật, hiện tượng và những thuộc tính của chúng, mà có ý nghĩa đối với xã hội, một nhóm người và cá nhân, với tư cách là phương tiện thoả mãn những nhu cầu và lợi ích, đồng thời biểu thị niềm tin của con người về những mục đích và phương thức ứng xử lý tưởng” [2, tr.11].
Giá trị là phạm trù gắn với sự nhận thức đánh giá của chủ thể, do đó, trên thực tế, từ góc độ các cá nhân do những nguyên nhân chủ quan và khách quan, sự đánh giá một sự vật hiện tượng nào đó về giá trị có thể có tình trạng không thống nhất. Ở đây cần khẳng định, tuy giá trị biểu thị tác dụng và ý nghĩa của một khách thể đối với cuộc sống con người, nhưng giá trị không phải là sản phẩm được tạo ra từ hoạt động đánh giá của con người. Bản thân hoạt động đánh giá không tạo ra giá trị mà chỉ góp phần phát hiện giá trị trên cơ sở con người nhận thức về mức độ phù hợp, khả năng thoả mãn nhiều hay ít của khách thể đối với hệ thống những yêu cầu, đòi hỏi về vật chất cũng như tinh thần của đời sống xã hội. Do vậy, không thể phủ nhận, có những giá trị có ý nghĩa trên phạm vi rộng, mang tính thực tiễn - lịch sử, mang tính xã hội. Nghĩa là có những giá trị có tác dụng, có ý nghĩa với cả cộng đồng xã hội, được xã hội thừa nhận, nó cũng giữ ý nghĩa chuẩn mực xã hội. Mang ý nghĩa như chuẩn mực xã hội, giá trị có tác dụng tích cực, nó định hướng phương thức ứng xử chung, phổ biến cho mọi cá nhân trong cộng đồng, điều tiết, thẩm định đánh giá hành vi của các cá nhân, của xã hội (về nhu cầu, sở thích, niềm tin, lẽ sống, lý tưởng…). Như thế, giá trị là những gì hữu ích gắn với chân, thiện, mỹ.
Hệ thống giá trị xã hội vận động, biến đổi theo trình độ nhận thức, nhu cầu phát triển của cá nhân và cộng đồng. Mỗi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng xã hội có những quan niệm giá trị khác nhau. Những giá trị khi đã trở thành tài sản văn hoá tinh thần chung của nhân loại và cộng đồng, thì có ý nghĩa trường tồn. Lịch sử phát triển của loài người là quá trình không ngừng tìm kiếm, nhận thức các chân giá trị, tích luỹ, chọn lọc thành giá trị truyền thống, giá trị phổ quát, từ đó nó kế thừa và tìm ra các giá trị mới phù hợp hơn với sự phát triển của con người và xã hội.
Từ đó, có thể nhấn mạnh các nội dung chủ yếu của phạm trù giá trị trên các khía cạnh:
- Giá trị là ý nghĩa của những hiện tượng vật chất hay tinh thần, có khả năng thoả mãn nhu cầu tích cực của con người, là tất cả những gì đem lại sự phát triển, sự tiến bộ, sự tốt đẹp cho con người và xã hội. Nội dung này của giá trị bao hàm trong nó sự phân biệt với cái “phản giá trị”, “vô giá trị” đi ngược lại xu thế phát triển của lịch sử, ngăn cản sự tiến bộ của xã hội.
- Giá trị có tính lịch sử, tính khách quan, nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi của một giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, mà do yêu cầu của từng thời đại lịch sử, trong đó con người sống và hoạt động. Ở mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử, con người không ngừng tìm kiếm, nhận thức các chân giá trị, tích luỹ, chọn lọc tìm ra các giá trị mới phù hợp hơn cho sự phát triển của con người và xã hội. Do đó, bên cạnh hệ giá trị truyền thống luôn song hành các hệ giá trị mới.
- Giá trị chứa đựng các yếu tố nhận thức, tình cảm, hành vi của chủ thể (cá nhân, giai cấp, tộc người, cộng đồng quốc gia dân tộc…) trong quan hệ với các sự vật hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự đánh giá, lựa chọn của chủ thể.
- Giá trị được xác định trong mối quan hệ thực tiễn của con người, được xác định bởi sự đánh giá đúng đắn của con người xuất phát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm. Thực tiễn “vừa là tiêu chuẩn của chân lý về bản chất của khách thể, vừa là tiêu chuẩn của chân lý về giá trị của khách thể” [8, tr.129]. V.I.Lênin viết: "… Toàn bộ thực tiễn của con người - thực tiễn này vừa với tính cách là tiêu chuẩn của chân lý vừa với tính cách là kẻ xác định một cách thực tế mối liên hệ giữa sự vật với những điều cần thiết đối với con người, cần phải được bao hàm trong "định nghĩa" đầy đủ của sự vật" [28, tr.364].
- Giá trị đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống của con người. Nó là cái con người dựa vào để xác định mục đích, phương hướng cho hoạt động của mình. Là cái con người mong muốn được theo đuổi.
Tóm lại: “Nói đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp có khả năng thôi thúc con người hành động và sự nỗ lực vươn tới” [7, tr.16-19].
Hình thức biểu hiện của giá trị là đa dạng, phụ thuộc vào tính đa dạng của các hoạt động và các mối quan hệ của con người. Trong nghiên cứu, ở cấp độ chung nhất, giá trị được chia thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
Giá trị đạo đức là một yếu tố cấu thành của hệ thống các giá trị tinh thần trong đời sống xã hội, được xác định là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và chuẩn hóa hành vi của con người trên cơ sở tự nguyện tự giác. Giá trị đạo đức “được đánh giá là có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xã hội, được lương tâm đồng tình, dư luận biểu dương. Giá trị đạo đức, vì thế, có ý nghĩa thiết yếu đối với đời sống xã hội" [25, tr.51].
Giá trị đạo đức xét theo chiều thời gian (lịch đại) có thể phân thành giá trị đạo đức truyền thống và giá trị đạo đức hiện đại. Mỗi dân tộc đều có các giá trị đạo đức truyền thống được hình thành trong suốt quá trình hình thành và phát triển của dân tộc. Mỗi dân tộc khác nhau có truyền thống khác nhau, cùng một dân tộc, qua từng giai đoạn lịch sử khác nhau truyền thống cũng biểu hiện và có cách lý giải khác nhau.
Đặc trưng của truyền thống là, thứ nhất, có tính ổn định và bền vững tương đối, lặp đi lặp lại qua các thế hệ, trở thành những đức tính, thói quen, những phong tục tập quán trong xã hội, trong cộng đồng. Truyền thống có sức sống dai dẳng, tồn tại lâu dài. Cái nhất thời không phải là truyền thống; thứ hai là, truyền thống mang tính cộng đồng, được cộng đồng thừa nhận ở nhiều cấp độ và hình thức khác nhau; thứ ba là, truyền thống mang tính lưu truyền từ đời này sang đời khác, góp phần quy định những chuẩn mực giá trị, chuẩn mực ứng xử... trong cộng đồng, trong xã hội [46, tr.384]. Giá trị truyền thống là cái thể hiện bản chất nhất, đặc trưng nhất cốt lõi văn hóa dân tộc, bởi nó được kết tinh trong suốt quá trình lịch sử dân tộc [23, tr.8-11].
Truyền thống là sản phẩm của lịch sử, nên không thể ngay lập tức thay đổi, xoá bỏ. Nhận thức này sẽ quy định thái độ của hiện tại đối với truyền thống. Sùng bái truyền thống hoặc coi thường truyền thống đều dẫn đến những hậu quả tai hại. Sùng bái một cách mù quáng đối với truyền thống, không phân biệt những giá tích cực với những gì là lạc hậu, tiêu cực trong truyền thống, không tính đến những biến đổi khách quan trong hiện đại mà đề cao thái quá truyền thống sẽ dẫn đến trì trệ, bảo thủ, cản trở tiến bộ. Ngược lại, nếu coi thường truyền thống trong giải quyết các vấn đề của hiện tại và tương lai, đoạn tuyệt với truyền thống sẽ dẫn đến sự phá huỷ tính kế thừa, tính liên tục trong sự phát triển của xã hội. Thực tiễn lịch sử cho thấy, dân tộc nào dung hoà được các giá trị truyền thống với các giá trị hiện đại, tìm được phương thức biểu hiện mới của giá trị truyền thống trong thời hiện đại thì sẽ phát triển. Nghĩa là các giá trị truyền thống phải được biến đổi phù hợp với tinh thần thời đại. Trong quá trình đó, các giá trị truyền thống được gạn lọc, được kết hợp với các giá trị mới để tao nên hệ giá trị mới mang tinh thần thời đại, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống nhưng lại có đặc điểm dân tộc.
Trong lịch sử dân tộc ta, giá trị truyền thống đã có những lần đối mặt với thách thức của những hệ giá trị khác. Trong thời kỳ Bắc thuộc, phong kiến phương Bắc đã thực hiện chính sách áp đặt hệ giá trị nhằm đồng hoá văn hoá, nô dịch nhân dân ta. Khi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược nước ta, hệ giá trị truyền thống lại bị thách thức bởi hệ giá trị của nền văn minh kỹ thuật phương Tây. Do yêu cầu đấu tranh giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc, các giá trị truyền thống đã có sự biến đổi sâu sắc. Tuy vậy, vẫn có những giá trị tiếp tục được thừa nhận và phát huy, kết hợp với những giá trị mới phù hợp với yêu cầu phát triển xã hội. Từ khi lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng chủ trương xây dựng nền văn hoá dân tộc, đại chúng, hiện đại, tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Khi bàn đến các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta, giáo sư Nguyễn Hồng Phong cho rằng: "tính cách dân tộc gần như là tất cả nội dung của giá trị đạo đức truyền thống bao gồm: tính thập thể - cộng đồng, trọng đạo đức, cần kiệm, giản dị, thực tiễn; tinh thần yêu nước bất khuất và lòng yêu chuộng hòa bình, nhân đạo, lạc quan” [45, tr.453-454].
Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam bao gồm: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa [19, tr.94].
Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, trong những truyền thống quý báu của dân tộc nổi bật lên nhất là truyền thống đạo đức và khẳng định truyền thống đạo đức cao đẹp của dân tộc ta gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động, cần cù, sáng tạo; tinh thần nhân đạo, lòng yêu thương quý trong con người, trong đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc [24, tr.74-86].
Kết quả nghiên cứu của Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước “Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội” (KX - 07), cũng đã bước đầu khẳng định: cốt lõi của các giá trị truyền thống là đạo đức, phẩm chất nhân cách con ng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV.doc