Luận văn Phân tích và nhận diện chiến lược của công ty Imperial Tobacco

Imperial Tobaco được thành lập năm 1901 nhằm chống lại sự xâm nhập các công ty thuốc lá Mỹ vào thị trường Anh. Các công ty thuốc lá của Mỹ (ATC) cố gắng kiên cố hóa cổ phần của mình trong ngành công nghiệp thuốc lá Anh bằng việc mua lại nhà máy thuốc lá của Ogden.

Lúc này, các công ty thuốc lá của Anh được điều hành bởi các nhà sản xuất lớn như Willis, Player và Lambert & Bulter. Khi Imperial thành lập, ngài William Henry Willis được bầu làm Chủ tịch đầu tiên. Cuộc chiến về giá giữa ATC và Imperal vẫn tiếp tục cho đến những năm sau khi Imperial đe dọa thâm nhập vào thị trường thuốc lá Mỹ.

Năm 1902 ATC chấm dứt hoạt động kinh doanh của mình tại Anh và Ai-len và giao Ogden cho Imperial Tobacco trong một cuộc trao đổi với một lời hứa rằng Imperial sẽ không bán sản phẩm tại Hoa Kỳ. Hai công ty đã thành lập một liên doanh thuốc lá Anh-Mỹ (BAT), để bán các thương hiệu của cả hai công ty ở nước ngoài.

Năm 1911 ATC được phân tách thành nhiều công ty và Imperial đã tách ra để trở thành cổ đông chi phối của BAT. Vào năm 1950 Imperial đã kiểm soát 80% thị phần thuốc lá của Anh nhưng cùng lúc đó công ty lại bắt đầu nhận ra sự gia tăng cạnh tranh từ tập đoàn Gallaher mà sau này sẽ được mua lại bởi Japan Tobacco (JT).

Năm 1961, Công ty bắt đầu đa dạng hóa, mua các công ty như công ty thực phẩm Golden Wonder Crips và xưởng chế biến Courage & Barclay năm 1972.

Năm 1973 Imperial và BAT quyết định bán những thương hiệu riêng của họ đến Anh và Châu Âu và năm 1980 Imperial đã hoàn thành công việc này.

Năm 1986 đã chứng kiến việc Hanson tiếp quản Imperial Tobacco với giá 4,3 tỷ USD. Đây là một quyết định hết sức khó khăn vì Hanson đã mua Imperial ngay trong thời điểm sụt giảm về tiêu dùng thuốc lá. Hanson đã cắt giảm số lượng các nhãn hiệu của Imperial và sa thải nhân viên, đóng của các nhà máy hoạt động không hiệu quả.

Năm 1990 thị phần tại thị trường nội địa của Imperal đã giảm xuống còn 33%. Đối mặt một thị trường cạnh tranh gay gắt ở Anh, Imperial bắt đầu mở rộng kinh doanh sang những nước khác.

Imperial được tách ra từ Hanson và bắt đầu nhanh chóng một chuỗi các hoạt động mua lại nhằm có được vị trí tốt hơn trên thị trường nước ngoài. Việc mua lại những nhà sản xuất giấy đầu lọc thuốc lá và cắt giảm những nhà sản xuất thuốc lá tại Châu Âu năm 1997 và năm 1998 đã biến Imperial thành nhà sản xuất sở hữu thị trường thuốc lá.

Năm 1999 Imperial mua một số thương hiệu của Úc và Đan Mạch từ BAT và năm 2000 công ty đã mua các nhà sản xuất giấy và sản xuất thuốc lá tại Canada, Đức và Bỉ. Việc nắm quyền kiểm soát chủ yếu của Imperial là mua thuốc lá sợi, một công ty dẫn thuốc lá dẫn đầu tại Châu Phi.

Năm 2002 Imperial trả 5.1 tỉ USD cho Reemstra-một nhà sản xuất thuốc lá chính yếu của Đức và là công ty sở hữu quan trọng nhất của thương hiệu Davidoff. Một vài năm sau khi thống nhất và tái cấu trúc, gần đây Imperial tập trung vào mở rộng bằng việc mua lại thương hiệu Commonwealth năm 2007 với giá 1.9 tỉ USD. Đây là thương hiệu thuốc lá chủ chốt tại Mỹ.

Imperial trở thành nhà sản xuất thuốc lá lớn nhất khi nó quyết định mua công ty thuốc lá lớn thứ 5 toàn cầu là Altadis của Tây Ban Nha. Chi phí cho việc này đã lên đến 18.2 tỉ USD và sẽ củng cố vị trí của Imperial trên thị trường các nước, đặc biệt là tại các lục địa Châu Âu và Châu Phi.

 Trải qua gần 110 năm hình thành và phát triền, Imperial vẫn luôn trung thành với truyền thống kinh doanh thuốc lá của mình. Công ty đã không ngừng tăng trưởng trong một môi trường cạnh tranh khốc liệt, sự gia tăng quan niệm tiêu cực của cộng đồng về thuốc lá, và bây giờ là một môi trường của việc cắt giảm chi tiêu của người tiêu dùng và lòng tin cậy bị hạn chế. Ngày nay, Imperial Tobacco là công ty thuốc lá lớn thứ 4 toàn cầu với 5% thị phần. Công ty sản xuất và mua bán thuốc lá và những sản phẩm liên quan đến thuốc lá như: xì gà, giấy cuốn, ống điếu và sợi thuốc.

Theo báo cáo tài chính năm 2007, lợi nhuận của công ty đạt 24.3 tỉ USD và lợi nhuận ròng là 1.8 tỉ USD. Các sản phẩm của Imperial hiện có mặt tại 160 quốc gia và trọng tâm vẫn là thị trường tại Châu Âu, Châu Phi và Mỹ. Công ty đã có 58 nhà máy sản xuất thuốc điếu, sợi thuốc và giấy trên 25 quốc gia với 14,221 nhân viên.

 

doc68 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1095 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Phân tích và nhận diện chiến lược của công ty Imperial Tobacco, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- - - š & › - - - Luận Văn Phân tích và nhận diện chiến lược của công ty Imperial Tobacco MỤC LỤC TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY LỊCH SỬ HÌNH THÀNH IMPERIAL TOBACCO Imperial Tobaco được thành lập năm 1901 nhằm chống lại sự xâm nhập các công ty thuốc lá Mỹ vào thị trường Anh. Các công ty thuốc lá của Mỹ (ATC) cố gắng kiên cố hóa cổ phần của mình trong ngành công nghiệp thuốc lá Anh bằng việc mua lại nhà máy thuốc lá của Ogden. Lúc này, các công ty thuốc lá của Anh được điều hành bởi các nhà sản xuất lớn như Willis, Player và Lambert & Bulter. Khi Imperial thành lập, ngài William Henry Willis được bầu làm Chủ tịch đầu tiên. Cuộc chiến về giá giữa ATC và Imperal vẫn tiếp tục cho đến những năm sau khi Imperial đe dọa thâm nhập vào thị trường thuốc lá Mỹ. Năm 1902 ATC chấm dứt hoạt động kinh doanh của mình tại Anh và Ai-len và giao Ogden cho Imperial Tobacco trong một cuộc trao đổi với một lời hứa rằng Imperial sẽ không bán sản phẩm tại Hoa Kỳ. Hai công ty đã thành lập một liên doanh thuốc lá Anh-Mỹ (BAT), để bán các thương hiệu của cả hai công ty ở nước ngoài. Năm 1911 ATC được phân tách thành nhiều công ty và Imperial đã tách ra để trở thành cổ đông chi phối của BAT. Vào năm 1950 Imperial đã kiểm soát 80% thị phần thuốc lá của Anh nhưng cùng lúc đó công ty lại bắt đầu nhận ra sự gia tăng cạnh tranh từ tập đoàn Gallaher mà sau này sẽ được mua lại bởi Japan Tobacco (JT). Năm 1961, Công ty bắt đầu đa dạng hóa, mua các công ty như công ty thực phẩm Golden Wonder Crips và xưởng chế biến Courage & Barclay năm 1972. Năm 1973 Imperial và BAT quyết định bán những thương hiệu riêng của họ đến Anh và Châu Âu và năm 1980 Imperial đã hoàn thành công việc này. Năm 1986 đã chứng kiến việc Hanson tiếp quản Imperial Tobacco với giá 4,3 tỷ USD. Đây là một quyết định hết sức khó khăn vì Hanson đã mua Imperial ngay trong thời điểm sụt giảm về tiêu dùng thuốc lá. Hanson đã cắt giảm số lượng các nhãn hiệu của Imperial và sa thải nhân viên, đóng của các nhà máy hoạt động không hiệu quả. Năm 1990 thị phần tại thị trường nội địa của Imperal đã giảm xuống còn 33%. Đối mặt một thị trường cạnh tranh gay gắt ở Anh, Imperial bắt đầu mở rộng kinh doanh sang những nước khác. Imperial được tách ra từ Hanson và bắt đầu nhanh chóng một chuỗi các hoạt động mua lại nhằm có được vị trí tốt hơn trên thị trường nước ngoài. Việc mua lại những nhà sản xuất giấy đầu lọc thuốc lá và cắt giảm những nhà sản xuất thuốc lá tại Châu Âu năm 1997 và năm 1998 đã biến Imperial thành nhà sản xuất sở hữu thị trường thuốc lá. Năm 1999 Imperial mua một số thương hiệu của Úc và Đan Mạch từ BAT và năm 2000 công ty đã mua các nhà sản xuất giấy và sản xuất thuốc lá tại Canada, Đức và Bỉ. Việc nắm quyền kiểm soát chủ yếu của Imperial là mua thuốc lá sợi, một công ty dẫn thuốc lá dẫn đầu tại Châu Phi. Năm 2002 Imperial trả 5.1 tỉ USD cho Reemstra-một nhà sản xuất thuốc lá chính yếu của Đức và là công ty sở hữu quan trọng nhất của thương hiệu Davidoff. Một vài năm sau khi thống nhất và tái cấu trúc, gần đây Imperial tập trung vào mở rộng bằng việc mua lại thương hiệu Commonwealth năm 2007 với giá 1.9 tỉ USD. Đây là thương hiệu thuốc lá chủ chốt tại Mỹ. Imperial trở thành nhà sản xuất thuốc lá lớn nhất khi nó quyết định mua công ty thuốc lá lớn thứ 5 toàn cầu là Altadis của Tây Ban Nha. Chi phí cho việc này đã lên đến 18.2 tỉ USD và sẽ củng cố vị trí của Imperial trên thị trường các nước, đặc biệt là tại các lục địa Châu Âu và Châu Phi. à Trải qua gần 110 năm hình thành và phát triền, Imperial vẫn luôn trung thành với truyền thống kinh doanh thuốc lá của mình. Công ty đã không ngừng tăng trưởng trong một môi trường cạnh tranh khốc liệt, sự gia tăng quan niệm tiêu cực của cộng đồng về thuốc lá, và bây giờ là một môi trường của việc cắt giảm chi tiêu của người tiêu dùng và lòng tin cậy bị hạn chế. Ngày nay, Imperial Tobacco là công ty thuốc lá lớn thứ 4 toàn cầu với 5% thị phần. Công ty sản xuất và mua bán thuốc lá và những sản phẩm liên quan đến thuốc lá như: xì gà, giấy cuốn, ống điếu và sợi thuốc. Theo báo cáo tài chính năm 2007, lợi nhuận của công ty đạt 24.3 tỉ USD và lợi nhuận ròng là 1.8 tỉ USD. Các sản phẩm của Imperial hiện có mặt tại 160 quốc gia và trọng tâm vẫn là thị trường tại Châu Âu, Châu Phi và Mỹ. Công ty đã có 58 nhà máy sản xuất thuốc điếu, sợi thuốc và giấy trên 25 quốc gia với 14,221 nhân viên. TUYÊN BỐ VIỄN CẢNH VÀ SỨ MỆNH Sứ mệnh Chúng tôi là nhà lãnh đạo trên thị trường thuốc lá. Chúng tôi sản xuất thuốc lá với chất lượng cao đáp ứng sự mong đợi của khách hàng và người tiêu dùng. Chúng tôi tin rằng chính sách của chúng tôi trao quyền cho nhân viên được phát triển toàn diện. Sự đoàn kết nội bộ sẽ tạo động lực cho sự phát triển của công ty nhằm tạo ra sức mạnh cạnh tranh trên thị trường và tối đa hóa giá trị cho các cổ đông. Tuyên bố sứ mệnh trên thể hiện: Lĩnh vực kinh doanh: sản xuất và cung ứng thuốc lá Tham vọng: Giữ vị trí lãnh đạo thị trường thuốc lá Các giá trị cam kết: Cung cấp cho khách hàng: Sản phẩm chất lượng cao Cung cấp đúng sản phẩm vào đúng thời điểm và ở mức giá hợp lý Dịch vụ hỗ trợ khách hàng Tạo ra sự tự do cho người tiêu dùng khi thưởng thức các sản phẩm của chúng tôi. Cam kết nhân viên: Chăm sóc và tạo điều kiện cho nhân viên được phát triển toàn diện. Đối xử với nhau bằng sự tôn trọng, công bằng và sự hiểu biết Phát triển một nền văn hóa dựa trên sự cởi mở, tin cậy và mang tính toàn diện. Khuyến khích thông tin hai chiều xác thực xuyên qua cuộc tranh luận có tính xây dựng và trung thực, và đặt trọng tâm vào xây dựng các mối quan hệ và chia sẻ thông tin. Cam kết với cổ đông Đảm bảo tính bền vững, tăng trưởng lợi nhuận được ưu tiên hơn thị phần và tăng trưởng khối lượng Đạt được tối đa lợi nhuận chúng tôi có thể từ tất cả các khoản đầu tư của chúng tôi. Truyền đạt cho các cổ đông của chúng tôi và giữ lời hứa mà chúng tôi thực hiện. Bảo đảm rằng các nhân viên hiểu chiến lược và các mục tiêu kinh doanh của công ty, và mỗi cá nhân có thể đóng góp vào thành công chung của công ty như thế nào. Viễn cảnh UK: “We are the market leader in cigarettes, fine cut tobacco and rolling papers” "Chúng tôi sẽ là nhà dẫn đạo thị trường thuốc lá điếu, thuốc lá sợi và giấy cuốn thuốc lá." Tư tưởng cốt lõi của chúng tôi đó chính là sự tôn trọng cá nhân sâu sắc, tạo điều cho mỗi cá nhân phát huy tiềm năng, đem lại những sản phẩm chất lượng cao, luôn luôn gắn bó trách nhiệm với cộng đồng và tích hợp trách nhiệm của đoàn thể với mọi khía cạnh của công ty. Những thành công của chúng tôi là nhờ vào các giá trị mà chúng tôi đã đặt ra sau đây: “Chúng tôi làm việc như một đội cho lợi ích của toàn bộ doanh nghiệp” Chăm sóc các nhân viên của chúng tôi, tạo cơ hội cho họ phát triển cả bản thân và họ như là một phần của tổ chức. Đối xử với nhau bằng sự tôn trọng, công bằng và sự hiểu biết. Phát triển một nền văn hóa dựa trên sự cởi mở, tin cậy và tính toàn diện; khuyến khích thông tin hai chiều xác thực xuyên qua cuộc tranh luận có tính xây dựng và trung thực, và đặt trọng tâm vào xây dựng các mối quan hệ và chia sẻ thông tin. Ngành công nghiệp thuốc lá là một ngành thu hút nhiều sự chú ý và gây tranh cãi, luôn có nhiều mối quan tâm của xã hội đối với ngành, chúng tôi hiểu trách nhiệm của mình khi làm việc trong ngành. Chúng tôi tự hào, và sẽ bảo vệ danh tiếng của chúng tôi, cởi mở, trung thực, đề cao trách nhiệm của mình đối với cộng đồng và xã hội trong cách chúng tôi tiến hành kinh doanh. Mục đích cốt lõi: tạo nên sự tự do cho người tiêu dùng khi thưởng thức các sản phẩm của chúng tôi. Hình dung về tương lai của Imperial Tobacco PLC: Không chỉ lớn mạnh nhanh chóng ở vương quốc Anh mà là một công ty số 1 về thuốc lá trên toàn thế giới. PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG BÊN NGOÀI GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU Chúng tôi lựa chọn thời gian nghiên cứu là trong khoảng từ năm 1997 – 2008. Đây là khoảng thời gian mà Imperial thực hiện đa số các vụ mua lại của mình. Chúng tôi tập trung vào phân tích xem tại sao công ty lại thực hiện nhiều vụ mua lại quốc tế như vậy? Không gian nghiên cứu mà chúng tôi lựa chọn là khu vực Châu Âu, đặc biệt là các nước nằm trong Liên minh châu Âu (EU). PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ Có nhiều yếu tố của môi trường vĩ mô nhưng đối với ngành công nghiệp thuốc lá tại Châu Âu mà chúng tôi đang nghiên cứu chúng tôi chỉ tập trung vào những yếu tố có ảnh hưởng mạnh nhất tới ngành. Những yếu tố mà chúng tôi tập trung phân tích đó là: Môi trường công nghệ, môi trường kinh tế, môi trường văn hóa xã hội và cuối cùng là môi trường kinh tế. Những phân tích về sự thay đổi của yếu tố môi trường này sẽ được trình bày rõ hơn ở phần dưới đây. Môi trường công nghệ Xu hướng 1: Những tiến bộ về phương pháp chế tạo đầu lọc thuốc lá và công nghệ tạo ra những sản phẩm có khả năng giàm tác hại đến sức khỏe người tiêu dùng (PREPs). Một trong những xu hướng quan trọng của môi trường công nghệ là hướng vào sự tiến bộ của công nghệ trong việc tạo ra những sản phẩm có khả năng giảm tác hại (PREPs). Nghiên cứu khoa học đã chứng minh rằng các hợp chất hóa học, kể cả hy-đro-các-bua là chất gây ung thư đã được tìm thấy trong khói thuốc lá. Cùng với sự gia tăng nhận thức về những tác hại của nhựa khói thuốc và những hóa chất có trong thuốc lá, nhu cầu về những điếu thuốc có ít hoặc không có nhựa thuốc gia tăng. Vì lý do này mà các công ty thuốc lá đầu lọc đã xuất hiện với công nghệ mới làm giảm lượng chất gây ung thư hiệu quả nhờ đi qua đầu lọc thuốc lá. Điều này đặt ra một cơ hội cho ngành công nghiệp thuốc lá trong nỗ lực giải quyết những nhận thức tiêu cực về sức khỏe và những quy định hạn ngạch chặt chẽ đối với nhựa thuốc, nicotine và cacbon monixit. Các công ty thuốc lá gần đây đã phát triển những sản phẩm đòi hỏi giảm độc tố và chất gây ung thư, và có thể ít gây hại cho người hút. Sự phát triển của những sản phẩm mới này dựa trên công nghệ lọc sinh học và khả năng nhất định của các nhà máy trong việc ngăn chặn và xử lý khí thải. Lọc sinh học được phát triển lần đầu tiên vào những năm 1930 để xử lý nước nhưng chỉ mới được khám phá trong nghiên cứu lọc thuốc lá trong thập kỉ qua. Sản phẩm thuốc lá được thiết kế với công nghệ này tuyên bố có khả năng làm giảm bớt tác hại của khói thuốc lá bằng cách cho phép phổi duy trì cân bằng miễn dịch và do đó làm giảm nguy cơ mắc bệnh do hít phải khói thuốc lá. Sự tiến bộ của công nghệ này dẫn đến việc tạo ra các cảm nhận về sản phẩm “an toàn hơn” và “lành mạnh hơn” và mang đến cơ hội cho ngành. Một nghiên cứu cho thấy gần một nửa số người trưởng thành hút thuốc ở Mỹ (49.9%) muốn thử PREPs. Các nghiên cứu tương tự cũng cho thấy 84.2% tin rằng chính phủ cần phải đánh giá lại sự an toàn của PREPs trước khi họ được phép bán tại thị trường người tiêu dùng. Snus là một ví dụ về sản phẩm như vậy. Một sự đổi mới từ Thụy Điển, snus là một sản phẩm thuốc lá bột ẩm được tiêu dùng bằng cách đặt nó dưới môi trên trong một thời gian dài. Sản phẩm này được sản xuất thông qua một quá trình xử lý nhiệt để đảm bảo rằng các vi sinh vật bị vô hiệu hóa để đảm bảo độ tươi lâu dài. Snus chủ yếu được sản xuất và tiêu thụ chủ yếu tại Thụy Điển và Na Uy, nhưng hiện tại nó đang mở rộng sang thị trường một số nước khác. Chính phủ Thụy Điển đã rất vất vả để thử nghiệm nó nhiều năm và tìm thấy sản phẩm không có mối nguy hiểm lớn với sức khỏe những các bác sĩ tại các khi vực khác nói rằng thuốc lá vẫn còn chứa lượng cao nocotine gây ảnh hưởng sức khỏe nghiêm trọng. Điều này cho thấy sự cần thiết phải thử nghiệm thêm và có những bằng chứng khoa học chính xác về ảnh hưởng của các sản phẩm này trước khi chúng có thể được bán thuận lợi trên thị trường thuốc lá. Snus nói riêng, trong khi nó đang bị cấm ở một số thị trường thì nó được coi như là thuốc chữa bệnh tại Thụy Điển, nơi doanh số bán hàng của sản phẩm tăng tỉ lệ nghịch với việc tiêu thụ thuốc lá sụt giảm. Mặc dù vẫn còn có nhiều tranh luận liên quan đến phạm vi mà các tiến bộ công nghệ thực sự tạo ra giá trị sản phẩm như vậy, xu hướng này là dẫn đạo hướng đến một hướng tích cực mà tạo ta một cơ hội lớn cho ngành công nghiệp thuốc lá. Kết luận: Đây là một cơ hội cho ngành thuốc lá Xu hướng 2. Hệ thống kiểm soát chất lượng toàn diện Trong một thị trường cạnh tranh toàn cầu, các công ty thuốc lá đang tích hợp công nghệ kiểm soát chất lượng trong hoạt động sản xuất của họ để duy trì khả năng cạnh tranh. Sự phát triển của những công nghệ tiên tiến khác nhau có thể giúp kiểm soát sản xuất và đảm bảo chất lượng sản phẩm từ nguyên liệu đến sản phẩm cuối cùng đang được thực hiện. Một số trong những giải pháp kỹ thuật đã được phát triển gần đây bởi Hauni, một nhà cung cấp công nghệ và những giải pháp để chế biến thuốc lá, đầu lọc bao gồm: TOBACCOSCAN 5 dùng tia lade, sóng MIDAS dựa trên hệ thống kiểm soát, và hệ thống lọc MAX. Xu hướng này hướng đến sự hợp nhất hệ thống chất lượng toàn diện tạo cơ hội cho các công ty thuốc lá, như nhiều công nghệ có thể rút giảm chi phí cho công ty bằng cách nâng cao hiệu quả sản xuất và chế biến thuốc lá. Kết luận: Cơ hội trong việc gia tăng chất lượng của sản phẩm, làm giảm tác hại của thuốc lá đối với sức khỏe người sử dụng. Xu hướng 3: Sự tiến bộ trong công nghệ kiểm soát và vận tải. Một xu hướng khác khá quan trọng trong môi trường công nghệ là sự tiến bộ của hệ thống kiểm soát và vận tải đã tạo điều kiện nâng cao hiệu quả phân phối. Một trong những tiến bộ đáng kê gần đây là công nghệ kiểm soát được sự phát triển của việc nhận dạng tần số sóng vô tuyến (RFID), là một công nghệ nhận dạng tự động mà tích trữ và lấy dữ liệu với những chức năng tương tự như một mã vạch. Sự khác biệt chính giữa hai công nghệ là RFID: thiết bị quét thẻ bằng cách sử dụng tín hiệu RF trong khi quét mã vạch in nhãn thông qua công nghệ hình ảnh. Điều này có nghĩa rằng thẻ RFID có thể được quét thụ động, lưu giữ số lượng lớn thông tin và bền hơn. RFID có thể được gắn vào gói, thùng giấy để chống lại nạn buôn lậu thuốc lá đang nảy sinh nhanh chóng trên toàn cầu cũng như cung cấp cho các công ty thuốc lá và những nhà bán lẻ kiểm soát tồn kho tốt hơn và thu thập thông tin nhanh chóng hơn.. Hơn nữa với các thẻ RFID cũng sẽ giúp chống hàng giả vì nó có thể cung cấp xác nhận tính chính xác các sản phẩm ngay lập tức và kết quả là các thương hiệu gắn liền với hàng giả bị thiệt hại. Công nghệ RIFD đã được thực hiện ở một số ngành công nghiệp và chi phí sử dụng thẻ RIFD vẫn còn khá cao, và việc gắn nó vào các gói thuốc thì quá tốn kém. Như thẻ RFID giảm giá và các hình thức mới của công nghệ nổi lên, phương pháp này sẽ được chứng minh được ở thực tế hơn. Sự tồn tại của công nghệ RFID cho thấy một xu hướng tích cực trong khả năng kiểm soát có thể được sử dụng như một cơ hội cho các công ty thuốc lá tăng hiệu quả trong quá trình phân phối của nó, cũng như nhận dạng được các mối đe dọa tiềm năng của sản xuất hàng giả ở giai đoạn đầu. Toàn cầu hóa và gia tăng thương mại quốc tế đã gia tăng khả năng của hệ thống vận tải quốc tế và công nghệ. Từ những năm 1980, tính lưu động của các yếu tố sản xuất trở nên rộng rãi nhờ vào Container. Container được phép vận chuyển số lượng lớn hàng hóa và hành khách nhanh chóng và hiệu quả hơn. Điều này dẫn đến sự tăng trưởng của thương mại quốc tế mà từ đó tạo ra mạng lưới phức tạp liên quan đến dòng chảy thông tin, hàng hóa, thành phẩm. Kết quả là: hệ thống vận tải quốc tế đã trải qua những biến đổi ngày càng tăng để theo kịp với áp lực hỗ trợ nhu cầu tăng thêm trong số lượng các giao dịch quốc tế. Hiện nay, những thiết bị cảm biến báo cáo độ sâu của nước và phanh không khí chịu áp suất lớn được sử dụng trong tàu vận chuyển hàng hóa. Kiểm soát tàu gia tăng từ một loạt các cải tiến nhờ việc sử dụng hệ thống máy tính. Lưu lượng tăng trưởng đã cho phép gia tăng lượng xe lửa, tuyến đường sắt, và kích cỡ tàu, giảm chi phí và tăng hiệu quả sử dụng nhiên liệu. Sự cải tiến đã được thực hiện trong xử lý nguyên liệu tại các cảng và các tàu. Các nước nội địa và các cảng đã được nạo vét sâu hơn để cho phép các tàu lớn thả neo. Nhờ tất cả những tiến bộ trong công nghệ giao thông vận tải, chi phí/ đơn vị vận chuyển đã giảm mạnh. Và đây cũng là lý do làm cho hàng hóa và dịch vụ dịch chuyển qua biên giới giảm chi phí theo cấp số nhân cực kì có lợi cho các công ty thuốc lá có nguồn nguyên liệu phân bố ở nhiều khu vực xa hơn, củng cố sản xuất tại các địa điểm ít hơn và các sản phẩm xuất khẩu sang các thị trường mới. Xu hướng này hướng đến sự tiến bộ và sẵn có nhất của công nghệ giao thông vận tải như trình bày một cơ hội rõ ràng cho các công ty thuốc lá tận dụng khả năng phân phối của mình. Kết luận: Cơ hội trong việc phát triển mạng lưới phân phối trên diện rộng Xu hướng 4: Sự gia tăng tiếp cận nghệ thông tin rộng khắp. Một xu hướng quan trọng không kém trong môi trường công nghệ là sự hiện diện rộng khắp của công nghệ thông tin, đặc biệt là Internet. Mức tăng trưởng sử dụng công nghệ này đã gia tăng gần 305% trên toàn thế giới kể từ năm 2000. Điều này có nghĩa là có sự trao đổi và truy cập thông tin giữa mọi người trên thế giới nhanh chóng hơn. Do lệnh cấm bán các sản phẩm thuốc lá trên Internet trong hầu hết các thị trường, ngành công nghiệp thuốc lá đã không được hưởng lợi từ thương mại điện tử như trong cùng một cách mà những ngành công nghiệp tiêu dùng sản phẩm khác có. Mặc dù ngành công nghiệp thuốc lá đã không thể sử dụng Internet cho bán hàng trực tiếp, nhưng dòng chảy thông tin tự do trên toàn thế giới web đã ảnh hưởng đến các công ty thuốc lá. Internet mang đến cho người tiêu dùng truy cập nhanh chóng đến các nguồn thông tin rộng khắp. Những nguồn thông tin này không chỉ giới hạn tin tức chính thức hoặc những tài liệu của công ty, mà còn với xu hướng ngày càng tăng việc tạo ra những chương trình mà nội dung mang tính cá nhân của người sử dụng như : blog, wiki, postcard…Bằng nhiều cách khác nhau, những người sử dụng đã tạo ra những nội dung đáng tin cậy hơn trong tâm trí của người tiêu dùng khi họ được nhìn nhận như là những chủ thể mang đến những thông tin khách quan nhất cho những sản phẩm khác nhau. Chính điều này đã đặt ra cả cơ hội lẫn thách thức cho ngành công nghiệp thuốc lá. Thông tin và ý kiến về những ảnh hưởng của việc hút thuốc lá và những thiệt hại đến sức khỏe con người có thể ngăn chặn những người đang sử dụng hoặc những người tiêu dùng tiềm năng. Mặt khác, cùng một công cụ có thể được sử dụng bởi các công ty và người tiêu dùng để tạo ra những quảng cáo thổi phồng về những sản phẩm trong ngành công nghiệp. Theo xu hướng này, việc tiếp cận công nghệ truyền thông rộng rãi trở nên dai dẳng hơn, sự sẵn có của những thông tin không được kiểm soát trở nên áp đảo hơn. Hầu hết các thông tin về các sản phẩm thuốc lá sẽ bao gồm các quan điểm tiêu cực về sản phẩm. Ở một số nước, các công ty trong ngành công nghiệp thuốc lá bị hạn chế quảng cáo thông qua Internet. Điều này sẽ được thảo luận cho tiết hơn trong phần chính trị/pháp luật. Cũng chính vì lý do này mà mạng Internet không cung cấp nhiều cơ hội cho các công ty thuốc lá gia tăng tiến trình xâm nhập vào các thị trường tiềm năng. Cuối cùng, với những nhận xét này, Internet đặt ra một mối đe dọa hơn là những cơ hội cho ngành công nghiệp thuốc lá. Kết luận: Là một mối đe dọa khá lớn với ngành. Môi trường kinh tế Xu hướng 1: Sự suy giảm của nền kinh tế Do sự liên kết mạnh mẽ với thị trường nhà đất ở Mỹ hoặc trực tiếp hoặc thông qua các kênh đầu tư có cấu trúc, một số nước EU nhận ra được sự mất mát về vốn ngân hàng của họ như là kết quả của nền kinh tế Mỹ sút kém. Tăng trưởng trong nền kinh tế EU đã giảm xuống dưới mức tiềm năng, như được thấy trong hình 1.6. Ủy ban châu Âu dự báo tăng trưởng kinh tế tiếp tục có xu hướng đi xuống và giảm mạnh vào khoảng 0,2% trong năm 2009 và 1,1% vào năm 2010. Do đó, điều kiện tín dụng thắt chặt và những rủi ro đang tăng lên (Hình 1,7) và kết quả dự đoán tiêu cực đi kèm đối với nhu cầu trong nước là những yếu tố này làm sụt giảm lòng tin của người tiêu dùng. Bất cứ tác động nào thêm cho thị trường vốn sẽ có tác dụng kép như cho vay đối với các khoản đầu tư kinh doanh và nhà ở có khả năng sẽ bị hạn chế. Nhìn chung, các tập đoàn ở châu Âu phụ thuộc nhiều vào tài trợ của ngân hàng và việc cho vay chậm lại sẽ cản trở họ tiếp cận các nguồn vốn. Điều này cùng với sự suy thoái kinh tế có thể dẫn đầu khu vực đã hướng tới một số biến động tài chính, mà rõ ràng là một mối đe dọa cho nền kinh tế EU. Kết luận: Sự suy giảm của nền kinh tế tác động tới sức mua của người tiêu dùng. Cộng với những thông tin về tác hại của thuốc lá thì đây là một mối đe dọa thực sự với ngành. Xu hướng 2: Tỷ giá hối đoái có triển vọng tốt. Một xu hướng trong môi trường kinh tế của EU là sự gia tăng hiệu quả thực sự tỷ giá hối đoái của đồng Euro. Châu Âu dự báo tiếp tục đánh giá cao đối với loại tiền tệ khác và do đó cũng sẽ làm chậm tăng trưởng xuất khẩu. Điều này có thể chứng tỏ rằng hoặc là một mối đe dọa hay một cơ hội cho các công ty trong ngành công nghiệp thuốc lá như một số hãng sẽ dựa vào kinh nghiệm gia tăng trong việc điều chỉnh tăng lợi nhuận từ các hoạt động do đồng Euro mạnh hơn trong khi đối với những hãng khác là sự sụt giảm trong xuất khẩu. Tuy nhiên, vì nhiều công ty thuốc lá đã định hướng mở rộng kinh doanh sang thị trường quốc tế, việc tăng hiệu quả tỷ giá hối đoái thực được chứng minh là thuận lợi hơn cho ngành công nghiệp này và đó là một cơ hội. Kết luận: Cơ hội cho ngành vì các công ty đa số là đầu tư ra nước ngoài. Xu hướng 3: Sự gia tăng lạm phát theo gánh nặng chi phí của nhà sản xuất Một xu hướng quan trọng trong nền kinh tế quốc gia được nhận ra trong sự gia tăng của lạm phát. Như có thể thấy trong hình 1,9 dưới đây, trong khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) không có nhiều sự thay đổi theo hàng năm thì cho đến gần đây đã có một xu hướng gia tăng chỉ số giá sản xuất (PPI) và phần lớn, giá trị của nó cao hơn từ chỉ số CPI. Điều này có nghĩa rằng lạm phát đã được diễn ra theo gánh nặng chi phí của người sản xuất. Đây là một mối đe dọa cho các công ty, bao gồm cả những người trong ngành công nghiệp thuốc lá, vì nó hàm ý giá mua nguyên vật liệu cao hơn. Kết luận: Lạm phát gia tăng cũng làm ảnh hưởng tới nhu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm thuốc lá. Môi trường văn hóa xã hội Xu hướng 1: Số người chết liên quan đến thuốc lá tăng dẫn đến tỷ lệ người hút thuốc có xu hướng giảm. Xu hướng hút thuốc lá ở Châu Âu có thể được xác định từ hai đến ba thập kỷ trước bằng cách nhìn vào tỷ lệ tử vong bởi thuốc lá. Với tỷ lệ 1,19 người nhiễm bệnh và tử vong do hút thuốc lá. Tỷ lệ này ở nam giới cao hơn ở nữ giới nhưng khoảng cách giữa hai giới đang xích lại gần nhau hơn. Số người tử vong do hút thuốc lá đang tăng từ vài thập niên trở lại đây bởi vì số người nữ hút thuốc đang dần trở nên phổ biến hơn. Tuy nhiên tốc độ tăng này đang chậm lại. Xu hướng này chậm lại là kết quả của việc giảm số người hút thuốc do thông tin về tác hại của thuốc lá được phổ biến rộng rãi hơn. Điều này chính là một mối đe dọa cho ngành công nghiệp thuốc lá. Kết luận: Đây thực sự trở thành một mối đe dọa với ngành khi tỷ lệ người chết và mắc bệnh do thuốc lá tăng cao. Xu hướng 2: Sự phát triển của dân số EU và sự lão hóa Liên minh Châu Âu với 27 nước thành viên, dân số ước tính khoảng 450 triệu người (2007). Dân số của EU đã tăng trưởng 3,4% trong thập kỷ qua. Số dân của các thành viên rất khác nhau, có 4 nước đông dân nhất là: Đức, Pháp, Anh và Italia. Dân số của khu vực này đã tăng 0,9 triệu người trong năm 2009, tương ứng với tỷ lệ tăng thường niên là +2,7‰. Đây là kết quả của sự gia tăng tự nhiên 0,3 triệu người (+1,0‰) và do nhập cư 0,6 triệu (+1,8 ‰). Một điều được khẳng định là dân số của EU đang già hóa rất nhanh, dự kiến số người trên 65 tuổi tăng 30% vào năm 2060, với số lượng người trên 80 tuổi dự kiến sẽ tăng gấp 3 lần trong vài thập kỷ tới. Đây là một mối đe dọa với ngành công nghiệp thuốc lá khi mà tỷ lệ người hút thuốc trẻ tuổi là cao hơn những người lớn tuổi (đặc biệt tỷ lệ này càng thấp hơn ở người già). Một nghiên cứu năm 2006 của Liên minh châu Âu cho thấy rằng: tỷ lệ người hút thuốc phân bổ như sau: 35% số người ở độ tuổi 15 – 24, 40% ở những người từ 25 – 39 tuổi, 37% những người ở độ tuổi 40 -54 và 19% số người ở tuổi trên 55. Kết luận: Dân số già hóa nhưng tỷ lệ người hút thuốc lại tập trung vào những người trẻ vì thế điều này có thể làm giảm mạnh tới nhu cầu sử dụng thuốc lá trong thời gian tới. Xu hướng 3: Những cải tiến trong giáo dục ảnh hưởng xấu tới việc tiêu thụ thuốc lá Những người có thu nhập và mức độ giáo dục thấp là những người hút thuốc nhiều hơn ở EU. Vấn đề giáo dục và đào tạo ở EU đã được cải thiện rất nhiều trong những năm gần đây. Năm 2008 báo cáo thường niên về hệ thống giáo dục cho thấy khoảng 60% số người trong độ tuổi từ 5 – 29 tuổi đang theo đi học ở các trường đại học. Trong khi số sinh viên tốt nghiệp đại học đã tăng tới 13.000.000 vào năm 2000. Nếu xu hướng trong việc những người được giáo dục cao hơn sẽ hút thuốc ít hơn thì đây chính là một mối đe dọa với ngành công nghiệp thuốc lá. Kết luận: Người dân có trình độ nhận thức cao hơn sẽ hiểu rõ hơn tác hại của thuốc lá. Điều đó là một đe dọa cho sự sụt giảm nhu cầu trong tương lai. Môi trường chính

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docphan_tich_va_nhan_dien_chien_luoc_cua_cong_ty_imperial_tobacco_6051.doc