Ngày nay, vấn đề con người là một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu mà chúng ta cần phải phấn đấu để đảm bảo cho mục tiêu chiến lược phát triển bền vững của một quốc gia. Điều đó đòi hỏi mỗi chúng ta phải dành sự quan tâm xứng đáng cho con em mình bởi lẽ chính trẻ em sẽ làm chủ tương lai của đất nước: “Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”.
Mặt khác, khi đời sống xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu bảo đảm an toàn và điều kiện phát triển toàn diện cá nhân ngày càng cao. Đồng thời đi liền với nó là những biến cố rủi ro ngày càng nhiều thêm. Chúng tồn tại ngoài ý muốn của con người luôn đe doạ đến đời sống của họ. Nhân loại xưa và nay bằng những biện pháp khác nhau: cứu trợ, phòng tránh, tiết kiệm.nhằm hạn chế những tổn thất song xét trên một góc độ nào đó thì các biện pháp này còn nhiều hạn chế. Với những ưu điểm của mình bảo hiểm nhân thọ (BHNT) đã và đang góp phần tích cực vào việc giải quyết những vấn đề bức xúc nói trên.
Thực chất, BHNT là loại hình bảo hiểm con người mang tính rủi ro theo qui luật “Số đông bù số ít” đồng thời nó còn là một biện pháp tiết kiệm có kế hoạch. Mục đích của BHNT là trả số tiền rất lớn cho người tham gia bảo hiểm vào đúng lúc họ cần ngay cả khi họ mới tiết kiệm được một khoản tiền nhỏ dưới dạng đóng phí bảo hiểm. Mỗi người tham gia bảo hiểm sẽ định kỳ đóng phí bảo hiểm trong một thời gian đã thoả thuận trước (Thời hạn bảo hiểm) vào một quỹ lớn do công ty BH quản lý (Quỹ BH). Trong quá trình bảo hiểm, quỹ này tạo ra một khoản lời cho nhà bảo hiểm và công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả tiền BH cho người được bảo hiểm khi có sự cố xảy ra.
Mặc dù bảo hiểm nhân thọ ra đời ở nước ta gần 5 năm nhưng nước ta chưa thu hút được nhiều người tham gia. Do vậy, thực tế đặt ra ở Việt Nam là làm thế nào để thu hút được số đông người tham gia BHNT để cho quỹ này đủ lớn và hiệu quả sử dụng nó có ý nghĩa đối với đời sống xã hội. Đây là một vấn đề gặp nhiều khó khăn và cần được sự quan tâm của toàn xã hội.
Nhận thức được vấn đề đó, qua quá trình thực tập tại Công ty bảo hiểm nhân thọ Hà nội, được sự chỉ dẫn tận tình của các cán bộ trong công ty, em đã chọn đề tài “Phân tích tình hình triển khai và khả năng phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm an sinh giáo dục (BH ASGD) ở Công ty bảo hiểm nhân thọ Hà Nội”. Việc nghiên cứu đề tài này giúp đỡ em rất nhiều trong lĩnh vực bảo hiểm nói chung và BHNT nói riêng.
Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn gồm ba phần:
Phần I: Những vấn đề lý luận chung về BHNT.
Phần II: Giới thiệu chung về sản phẩm BH ASGD của Công ty bảo hiểm nhân thọ Hà Nội.
Phần III: Phân tích thực trạng và triển vọng của nhiệm vụ BH ASGD ở Công ty bảo hiểm nhân thọ Hà Nội.
Phần IV: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả BH ASGD ở công ty bảo hiểm nhân thọ Hà Nội.
74 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1427 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Phân tích tình hình triển khai và khả năng phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm an sinh giáo dục (BH ASGD) ở Công ty bảo hiểm nhân thọ Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Mở Đầu
Ngày nay, vấn đề con người là một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu mà chúng ta cần phải phấn đấu để đảm bảo cho mục tiêu chiến lược phát triển bền vững của một quốc gia. Điều đó đòi hỏi mỗi chúng ta phải dành sự quan tâm xứng đáng cho con em mình bởi lẽ chính trẻ em sẽ làm chủ tương lai của đất nước: “Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”.
Mặt khác, khi đời sống xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu bảo đảm an toàn và điều kiện phát triển toàn diện cá nhân ngày càng cao. Đồng thời đi liền với nó là những biến cố rủi ro ngày càng nhiều thêm. Chúng tồn tại ngoài ý muốn của con người luôn đe doạ đến đời sống của họ. Nhân loại xưa và nay bằng những biện pháp khác nhau: cứu trợ, phòng tránh, tiết kiệm...nhằm hạn chế những tổn thất song xét trên một góc độ nào đó thì các biện pháp này còn nhiều hạn chế. Với những ưu điểm của mình bảo hiểm nhân thọ (BHNT) đã và đang góp phần tích cực vào việc giải quyết những vấn đề bức xúc nói trên.
Thực chất, BHNT là loại hình bảo hiểm con người mang tính rủi ro theo qui luật “Số đông bù số ít” đồng thời nó còn là một biện pháp tiết kiệm có kế hoạch. Mục đích của BHNT là trả số tiền rất lớn cho người tham gia bảo hiểm vào đúng lúc họ cần ngay cả khi họ mới tiết kiệm được một khoản tiền nhỏ dưới dạng đóng phí bảo hiểm. Mỗi người tham gia bảo hiểm sẽ định kỳ đóng phí bảo hiểm trong một thời gian đã thoả thuận trước (Thời hạn bảo hiểm) vào một quỹ lớn do công ty BH quản lý (Quỹ BH). Trong quá trình bảo hiểm, quỹ này tạo ra một khoản lời cho nhà bảo hiểm và công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả tiền BH cho người được bảo hiểm khi có sự cố xảy ra.
Mặc dù bảo hiểm nhân thọ ra đời ở nước ta gần 5 năm nhưng nước ta chưa thu hút được nhiều người tham gia. Do vậy, thực tế đặt ra ở Việt Nam là làm thế nào để thu hút được số đông người tham gia BHNT để cho quỹ này đủ lớn và hiệu quả sử dụng nó có ý nghĩa đối với đời sống xã hội. Đây là một vấn đề gặp nhiều khó khăn và cần được sự quan tâm của toàn xã hội.
Nhận thức được vấn đề đó, qua quá trình thực tập tại Công ty bảo hiểm nhân thọ Hà nội, được sự chỉ dẫn tận tình của các cán bộ trong công ty, em đã chọn đề tài “Phân tích tình hình triển khai và khả năng phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm an sinh giáo dục (BH ASGD) ở Công ty bảo hiểm nhân thọ Hà Nội”. Việc nghiên cứu đề tài này giúp đỡ em rất nhiều trong lĩnh vực bảo hiểm nói chung và BHNT nói riêng.
Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn gồm ba phần:
Phần I: Những vấn đề lý luận chung về BHNT.
Phần II: Giới thiệu chung về sản phẩm BH ASGD của Công ty bảo hiểm nhân thọ Hà Nội.
Phần III: Phân tích thực trạng và triển vọng của nhiệm vụ BH ASGD ở Công ty bảo hiểm nhân thọ Hà Nội.
Phần IV: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả BH ASGD ở công ty bảo hiểm nhân thọ Hà Nội.
Phần I
Những vấn đề lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ
Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ.
BHNT là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm mà trong đó người tham gia bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người hưởng thụ quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra (người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất định) còn người tham gia bảo hiểm phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm các sự kiện có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người. Nó ra đời là một lẽ tự nhiên nhằm đáp ứng nhu cầu khách quan của con người.
Lịch sử ra đời của BHNT khá sớm.
Sự ra đời và phát triển của BHNT trên thế giới.
Đối với các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển BHNT không còn là vấn đề mới mẻ. Nó đã được triển khai một cách phổ biến. Hình thức BHNT đầu tiên ra đời năm 1583 ở Luân Đôn, khi một nhóm người tự nguyện góp tiền cho một người giữ và thoả thuận sẽ trả tiền cho ai đó trong nhóm chẳng may qua đời trong vòng một năm. Cho đến năm 1759 mô hình công ty BHNT đầu tiên ra đời ở Châu Mỹ nhưng công ty chỉ bán hợp đồng BHNT cho các con chiên trong nhà thờ của họ. Năm 1762 ở Anh, mô hình công ty BHNT hoàn thiện ra đời. Đây là công ty BHNT đầu tiên bán các hợp đồng BHNT rộng rãi cho nhân dân và áp dụng nguyên tắc phí BH không đổi trong suốt thời hạn BH.
Từ đó đến nay, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội nói chung, BHNTđã không ngừng phát triển và hoàn thiện. Mỗi công ty BHNT đều thiết kế cho mình những sản phẩm mang đặc thù riêng để đáp ứng nhu cầu tài chính đa dạng của từng khu vực dân cư và phù hợp với chính sách kinh tế - xã hội của từng quốc gia. Chính vì vậy, doanh số của BHNT luôn chiếm trên 50% doanh số của ngành BH; riêng ở Đông Nam á con số này đã lên tới 73,8%.
Bảng 1: Cơ cấu phí BHNT của 5 thị trường lớn nhất thế giới năm 1993
STT
Tên nước
Tổng DT phí BH(triệu $)
Cơ cấu phí
BH (%)
Nhân thọ
Phi nhân thọ
1
Mỹ
522,468
41,44
58,56
2
Nhật
320,14
73,86
26,14
3
Đức
107,403
39,38
60,62
4
Anh
102,360
64,57
35,43
5
Pháp
84,303
56,55
43,65
(Nguồn: Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam tháng 8/1996)
2. Sự ra đời và phát triển BHNT ở Việt Nam.
ở nước ta, BHNT còn là một lĩnh vực mới mẻ. Tuy rằng trước năm 1954 ở miền Bắc những người dân làm việc cho Pháp đã được bảo hiểm và một số gia đình đã được hưởng quyền lợi của các hợp đồng BHNT này. Các hợp đồng này đều do các công ty của Pháp thành lập.
Trong những năm đầu thập kỷ 70, ở miền Nam công ty Hưng Việt đã triển khai một số loại hình bảo hiểm: an sinh giáo dục (ASGD); bảo hiểm trường sinh; bảo hiểm tử kỳ 5, 10, 20 năm trong một thời gian ngắn (1-2 năm) nên người dân hầu như chưa biết về loại hình bảo hiểm này.
Năm 1987 Bảo Việt tổ chức nghiên cứu đề tài: “ Lý thuyết về BHNT và sự vận dụng thực tế ở Việt Nam”. Trong đề tài này, nhóm nghiên cứu đã tổng hợp lý thuyết cơ bản mà BHNT trên thế giới đã áp dụng, đồng thời phân tích những điều kiện kinh tế - xã hội để triển khai BHNT ở Việt Nam những năm cuối thập kỷ 80. Việc triển khai BHNT có lúc chưa thực hiện được bởi vì tình hình kinh tế - xã hội của nước ta còn gặp nhiều khó khăn. Bước sang thập kỷ 90, trong cơ chế đa dạng hoá loại hình kinh doanh bảo hiểm phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội đặc biệt là đảm bảo cho nền kinh tế thị trường được phát triển ổn định, góp phần khai thác mọi tiềm năng cho đầu tư phát triển . Bộ Tài chính cho phép Bảo Việt triển khai “Bảo hiểm sinh mạng cá nhân” thời hạn 1 năm. Đến cuối năm 1995 đã có trên 500.000 người tham gia bảo hiểm với tổng số phí trên 10 tỷ đồng. Ngày 20/3/1996 Bộ Tài chính đã ký quyết định số 281TC/TC-NH cho phép Bảo Việt triển khai 2 loại hình BHNT: BHNT có thời hạn 5 năm, 10 năm và bảo hiểm ASGD.
Để quản lý quỹ BHNT có hiệu quả, Bộ Tài chính đã ký quyết định số 568/QĐ/TC-CB ngày 22/6/1996 thành lập công ty BHNT trực thuộc Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam và là công ty BHNT duy nhất ở Việt Nam triển khai BHNT. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt mới trong sự phát triển của ngành BHNT. Kể từ đó đến nay, công ty BHNT không ngừng cải tiến và hoàn thiện những sản phẩm của mình nhằm phục vụ tốt hơn các khách hàng và nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. Năm 1999, khi Bộ Tài chính cho phép mở thị trường bảo hiểm Việt Nam để hội nhập với thị trường bảo hiểm khu vực và thế giới đã có nhiều công ty BHNT 100% vốn nước ngoài như: AIG, Prudential, Chinfon-Manulife được thành lập hay mở văn phòng đại diện tại Việt Nam và một công ty liên doanh giữa Bảo Minh-CMG (úc) xuất hiện đã chứng tỏ sự sôi động và phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian tới.
II. Sự cần thiết và tác dụng của BHNT.
1. Sự cần thiết của BHNT.
Hiện nay, xu hướng quốc tế hóa - xã hội hóa các lĩnh vực kinh tế - xã hội ngày càng được đẩy mạnh. Bên cạnh việc đáp ứng các nhu cầu của đời sống thì vấn đề bảo vệ con người một cách toàn diện là mối quan tâm của nhiều nước trong đó có Việt Nam nơi có những thành tựu tiến bộ không ngừng về kinh tế - xã hội mà đời sống và điều kiện con người ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, khi đời sống xã hội ngày càng phát triển thì vẫn khó tránh khỏi những vấn đề ngoài tầm kiểm soát của mỗi người như rủi ro về bệnh tật, tai nạn.... Mặc dù, con người đã áp dụng mọi biện pháp khác để phòng và giảm thiểu các nguy cơ rủi ro: cứu trợ, tiết kiệm. Song xét trên một góc độ nào đó các biện pháp này còn nhiều hạn chế. Với những ưu điểm của mình, BHNT đã và đang tích cực vào việc giải quyết vấn đề bức xúc nói trên.
Sau hơn 10 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu bước đầu khá quan trọng: nền kinh tế tăng trưỏng cao; đời sống nhân dân được nâng cao. Do đó nhu cầu về bảo hiểm của người dân ngày càng lớn và đa dạng hơn. Đặc biệt đã từ lâu người Việt Nam đã biết tiến hành các hoạt động bảo hiểm; ý thức bảo hiểm đã đi vào đời sống hàng ngày và trở thành truyền thống quý báu. Trong quá trình sản xuất người lao động luôn gặp phải những rủi ro về tai nạn, ốm đau.. làm mất khả năng lao động, mất nguồn sống, con cái mất nơi nương tựa hoặc lúc về già không còn khả năng lao động để có thu nhập đảm bảo cuộc sống. Do vậy, tất yếu người lao động phải lập quỹ bảo hiểm thích hợp đủ lớn để đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình sau này. Ngoài BHXH thông qua thị trường bảo hiểm người lao động còn có thể tham gia BHNT phòng khi gặp rủi ro bất ngờ hoặc lúc tuổi già về hưu.
BHNT là loại hình bảo hiểm vừa mang tính tiết kiệm có kế hoạch vừa đảm bảo phân tán rủi ro. Mục đích chính của BHNT là trả số tiền rất lớn ngay khi người tham gia bảo hiểm mới tiết kiệm được số tiền nhỏ. Quỹ bảo hiểm được hình thành trên cơ sở đóng góp chung của cộng đồng người tham gia, trong quá trình sử dụng nó tạo ra khoản lời cho nhà bảo hiểm và dùng để trả tiền bảo hiểm khi có sự cố xảy ra. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội BHNT đã góp phần vào tốc độ phát triển GDP. Khi kinh tế phát triển làm cho đời sống nhân dân tăng là nó cũng tạo nên 1 lớp người có thu nhập cao trong xã hội. Với mức thu nhập này, họ có thể tiến hành đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm phân tán rủi ro trong đó có BHNT.
Một trong những vấn đề lớn thu hút sự quan tâm rộng rãi của xã hội hiện nay là vấn đề xã hội hoá giáo dục. Đầu tư cho giáo dục được coi là đầu tư cho tương lai và có hiệu quả nhất. Vì vậy, đối với mỗi gia đình việc giảm chi tiêu hôm nay để lo lắng cho tương lai, cho việc giáo dục con cái mình là một biện pháp hết sức thiết thực và có ý nghĩa. Do đó, đòi hỏi cần phải có biện pháp tiết kiệm có kế hoạch để giúp mọi người thực hiện mục tiêu này. BHNT sẽ giúp các gia đình lo cho trẻ em đến khi trưởng thành có một khoản tiền lập nghiệp hoặc đi học đại học.
Hơn nữa, việc chăm sóc ngày càng tốt hơn những người về hưu, người già là trách nhiệm của toàn xã hội, nó vừa mang ý nghĩa đạo đức, văn hoá sâu sắc vừa thể hiện trình độ văn minh của xã hội. Xã hội càng phát triển thì xu hướng con cái tách khỏi bố mẹ càng tăng làm cho số lượng người cao tuổi không có chỗ dựa khi đến tuổi già ngày càng tăng. Do vậy, khi còn trẻ còn kiếm được tiền thì xu hướng giành một khoản tiền khi về già ngày càng tăng đặc biệt là những người đang làm việc tại những nơi mà chưa có BHXH; thậm chí rất nhiều người muốn bên cạnh chế độ BHXH họ còn có một khoản thu nhập thêm. BHNT đã đáp ứng được nhu cầu đó của họ.
Bên cạnh yếu tố tiết kiệm, BHNT còn mang tính rủi ro. Khoa học kỹ thuật phát triển; cuộc sống con người ngày càng được hiện đại nhưng bên cạnh đó nó cũng đem lại cho con người nhiều rủi ro hơn: ô nhiễm môi trường làm cho sức khoẻ giảm, khả năng mắc bệnh cao, chi phí cho thuốc men tăng; phương tiện giao thông nhiều trong khi đường sá không nâng cấp kịp thời làm tai nạn xảy ra nhiều. Mặt khác nền kinh tế thị trường tạo sự cuốn hút con người vào công việc làm cho họ ít quan tâm đến nhau. BHNT lúc này là chỗ dựa vững chắc để bù đắp những mất mát giúp người tham gia vượt qua những khó khăn.
Đối với mỗi gia đình, mỗi doanh nghiệp thì tính mạng của người chủ là quan trọng. Nó ảnh hưởng đến cuộc sống của gia đình thậm chí đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do đó nhu cầu bảo đảm cho sự ổn định của gia đình và doanh nghiệp ngày càng đặt lên hàng đầu và hợp đồng BHNT sẽ giúp họ thực hiện việc đó.
BHNT còn giúp gắn bó những người xa lạ với nhau, làm cho họ quan tâm chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau lúc hoạn nạn; thể hiện tính nhân đạo giữa con người với nhau. Trên thực tế, chính những người tham gia bảo hiểm đã giúp nhau thông qua một bên trung gian đó là nhà bảo hiểm. Người ta lên án cơ chế thị trường làm cho con người sống lạnh lùng, ích kỷ, xa rời các đạo đức truyền thống thì chính BHNT đã tạo ra một phong cách sống mới ở đó mọi người quan tâm đến nhau và giúp đỡ chính mình. Con cái lo lắng quan tâm đến cha mẹ; ông bà cha mẹ quan tâm tạo điều kiện cho con cháu khôn lớn và thành đạt. Điều đó vô hình chung đã làm cho mọi người quan tâm xích lại gần nhau; xã hội ổn định và văn minh hơn. Chính vì vậy, BHNT ra đời là cần thiết khách quan đối với cuộc sống mỗi người và nó có vai trò quan trọng trong việc phát triển và hỗ trợ cho nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
2. Tác dụng của BHNT.
BHNT ra đời bên cạnh ý nghĩa đối với từng cá nhân, từng gia đìng, nó còn có ý nghĩa như một giải pháp hữu hiệu góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược kinh tế - xã hội. Cụ thể như sau:
a. ý nghĩa đối với từng cá nhân và gia đình:
BHNT ra đời nhằm bảo vệ cho các cá nhân và gia đình chống lại sự bất
ổn về tài chính gây ra bởi các rủi ro bất hạnh :
Trường hợp chẳng may một thành viên gia đình gặp rủi ro qua đời hay người trụ cột của gia đình gặp rủi ro bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn, ốm đau, qua đời làm giảm (mất) thu nhập để lại gánh nặng nghĩa vụ chưa kịp hoàn thành như trách nhiệm nuôi dưỡng người thân, lo việc học hành cho con cái, trả nợ các khoản vay thế chấp.... thì BHNT sẽ luôn đứng bên cạnh “khách hàng” để giúp họ mau chóng ổn định cuộc sống đồng thời thay mặt người quá cố (là trụ cột gia đình) làm nốt nghĩa vụ của mình. Rõ ràng BHNT thực chất là sự san sẻ rủi ro giữa người tham gia bẩo hiểm đồng thời thể hiện sự quan tâm, lo lắng của người chủ gia đình đối với con cái hay người phụ thuộc.
Trong trường hợp rủi ro không xảy ra thì thông qua các sản phẩm BHNT như bảo hiểm trợ cấp hưu trí, ASGD.. người tham gia bảo hiểm sẽ nhận được số tiền bảo hiểm lớn hơn đã định. Số tiền này được sử dụng cho những mục đích khác nhau như: nâng cao mức sống lập nghiệp; cưới xin.. vào lúc đáo hạn hợp đồng và đương nhiên trong suốt thời gian hợp đồng họ đã được bảo hiểm. Như vậy, BHNT là một biện pháp để thực hiện tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch đối với từng gia đình.
b. ý nghĩa đối với xã hội.
BHNT là một hình thức quan trọng để huy động nguồn vốn nhàn dỗi trong nhân dân để đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nhằm giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất cao.
Để thực hiện chủ trương “Đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiên đại hóa vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, văn minh” thì nước ta cần nguồn vốn lớn để đầu tư và phát triển. Vì vậy, chúng ta cần khai thác tối đa nguồn vốn cho đầu tư phát triển song chúng ta phải thấu suốt tư tưởng chỉ đạo của Đảng: “Vốn trong nước là quyết định, vốn bên ngoài là quan trọng”. Bên cạnh các hình thức huy động vốn như: khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư trực tiếp để phát triển sản xuất kinh doanh, thu hút các nguồn vốn nước ngoài... thì BHNT cũng là một trong những biện pháp huy động tiền nhàn rỗi trong nhân dân có hiệu quả. Chính vì vậy, nếu huy động được mọi tầng lớp nhân dân tham gia BHNT một cách tự giác thì đây là nguồn vốn đầu tư dài hạn có hiệu quả góp phần giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất cao trong điều kiện khó khăn hiện nay.
Không những thế BHNT còn góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Do vốn đầu tư ban đầu cho một công ty BHNT rất lớn nên khi các công ty bảo hiểm nước ngoài vào hoạt động, nguồn vốn đầu tư của họ sẽ tham gia vào thị trường vốn của nước sở tại cung cấp vốn cho các dự án phát triển kinh tế. Hơn nữa, cũng do đặc thù của loại hình BHNT là thời hạn bảo hiểm dài vì vậy nguồn vốn do công ty BHNT cung cấp cho nước sở tại là nguồn vốn dài hạn. Như vậy, BHNT phát triển cũng là một hình thức thu hút vốn nước ngoài khá hiệu quả.
BHNT góp phần tạo lập nên một phong cách tập quán sống mới.Tham gia BHNT thể hiện một nét sống đẹp đó là biết tự lo lắng cho tương lai của mình và quan tâm đến tương lai của người thân đồng thời góp phần giáo dục con em mình về đạo đức tính tiết kiệm cần cù và sống có trách nhiệm đối với người khác.
BHNT góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội như: xóa đói giảm nghèo, bù đắp những tổn thất bất hạnh trong cuộc sống và góp phần giải quyết gánh nặng trách nhiệm xã hội đối với người lao động về hưu và người già.
BHNT góp phần việc làm cho những người lao động để góp phần phát triển kinh tế. Đây là những đóng góp rất đáng kể của BHNT cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay.
III. Giới thiệu chung về các sản phẩm BHNT.
Đặc trưng của sản phẩm BHNT.
- Sản phẩm BHNT là sản phẩm có định hình:
Sản phẩm BHNT trước hết là sự bảo đảm về mặt vật chất trước rủi ro cho khách hàng và kèm theo nó là các dịch vụ hỗ trợ có liên quan. Vào thời điểm bán sản phẩm chủ yếu mà các công ty bảo hiểm cung cấp là lời hứa lời cam kết bất thường hay trả tiền bảo hiểm của nhà bảo hiểm khi xảy ra sự cố bảo hiểm hay người người được bảo hiểm sống đến một độ tuổi nhất định. Đó là những sản phẩm vô hình mà người bán không thể cảm nhận được bằng giác quan và không thể chỉ ra được mầu sắc kích thước của nó. Người mua buộc phải tin vào lời hứa của người bán.
- Sản phẩm BHNT là sản phẩm có “hiệu quả xê dịch”.
Sản phẩm BHNT khác với các sản phẩm thông thường ở chỗ nó chỉ là một lời hứa, lời cam kết của nhà bảo hiểm đối với khách hàng khi xảy ra sự cố bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm sống đến một thời điểm xác định. Do vậy, lời hứa này cũng bấp bênh và xê dịch theo thời gian bởi vậy khi mua bảo hiểm khách hàng có muốn xảy ra sự cố có thiệt hại để hưởng số tiền bảo hiểm hay trả tiền bảo hiểm và từ thời điểm mua đến thời điểm biết thực sự “ giá sử dụng” của sản phẩm BHNT là khoảng thời gian có thể là khá dài: sản phẩm tiết kiệm và hưu trí
- Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm có “chu trình sản phẩm kinh doanh đảo
ngược”.
Các doanh nghiệp bảo hiểm không phải bỏ vốn trước mà họ nhận phí bảo hiểm trước của người tham gia bảo hiểm đóng góp và thực hiện nghĩa vụ sau với bên được bảo hiểm khi xảy ra sự cố bảo hiểm. Do vậy không tính toán được hiệu quả chính xác của một sản phẩm bảo hiểm vào thời điểm bán sản phẩm.
- Sản phẩm BHNT là sản phẩm dễ bắt chước.
Một hợp đồng BHNT dù là bản gốc cũng được cấp bằng phát minh sáng chế và không được bảo hộ về bản quyền. Về lý thuyết, mọi doanh nghiệp đều có thể bán một cách hợp pháp những hợp hợp đồng là bản sao của đối thủ cạnh tranh ngoài trừ tên và các tờ tuyên truyền quảng cáo.
2. Các sản phẩm BHNT:
BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác. Đối với nhữn người người tham gia mục đích chính của họ là bảo vệ tài chính cho gia đình và những người phụ thuộc khác tránh khỏi những nỗi bất hạnh về cái chết bất ngờ của họ hoặc tiết kiệm để đáp ứng các nhu cầu về tài chính trong tương lai ... Do vậy người bảo hiểm đã thực hiện đa dạng hoá các sản phẩm BHNT , thực chất là đa dạng hoá các loại hoạt động nhằm đáp ứng và thoả mãn mọi nhu cầu của người tham gia bảo hiểm. Trong thực tế, có bốn loại hình BHNT cơ bản.
- Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn:
Nhà bảo hiểm nhận bảo hiểm đối với người tham gia bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm chỉ được thanh toán trong trường hợp người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn bảo hiểm. Nếu người được bảo sống qua thời hạn bảo hiểm sẽ không được thanh toán bất cứ khoản nào. Độ dài của thời hạn bảo hiểm khác nhau. Tuy nhiên, ngày nay thời hạn bảo hiểm của các sản phẩm bảo hiểm sinh mạng có thời hạn ít khi dưới một năm. Đặc điểm cơ bản của loại sản phẩm này là:
+ Số tiền bảo hiểm trả một lần khi người được bảo hiểm chết trong thời hạn được bảo hiểm.
+ Phí bảo hiểm không đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm và đóng định kỳ.
+ Thời hạn bảo hiểm được xác định theo năm và theo tuổi.
+ Không có giá trị giải ước.
- BHNT trọn đời:
Đây là loại hình bảo hiểm có thời hạn không xác định và số tiền bảo hiểm chỉ được trả khi người được bảo hiểm chết. BHNT trọn đời kết hợp hai yếu tố tiết kiệm với rủi ro trong khi bảo hiểm sinh mạng có thời hạn chỉ bao gồm yếu tố rủi ro mà không trả thêm bất cứ quyền lợi bảo hiểm nào.
Một số đặc điểm chính của loại hình bảo hiểm này:
+ Số tiền bảo hiểm được trả một lần khi người được bảo hiểm chết.
+ Thời hạn bảo hiểm không xác định.
+ Phí bảo hiểm được đóng định kỳ và không thay đổi.
- BHNT hỗn hợp:
Hợp đồng BHNT hỗn hợp đảm bảo rằng số tiền bảo hiểm được trả mà không quan tâm đến việc người được bảo hiểm bị chết trong thời hạn bảo hiểm hay không với điều kiện người được bảo hiểm phải đóng phí theo quy định. Mỗi hợp đồng BHNT hỗn hợp đều quy định ngày hết hạn hợp đồng và vào ngày đó công ty bảo hiểm sẽ trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm nếu còn sống. Nếu người được bảo hiểm chết trước khi hết hạn hợp đồng thì số tiền bảo hiểm sẽ được trả cho người hưởng thụ quyền lợi bảo hiểm vào ngày người được bảo hiểm chết.
Một số đặc điểm cơ bản của loại hình bảo hiểm này:
+ Số tiền bảo hiểm trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết trong thời hạn bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm còn sống.
+ Thời hạn bảo hiểm xác định thường là 5 năm, 10 năm, 20 năm ...
+ Phí bảo hiểm thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời gian đóng phí.
+ Có giá trị giải ước.
- Bảo hiểm trợ cấp hưu trí:
Công ty BHNT có trách nhiệm trả trợ cấp định kỳ hàng tháng hay quí cho người được bảo hiểm cho đến khi chết.
Đặc điểm cơ bản của loại hình bảo hiểm này là:
+ Thời hạn bảo hiểm không xác định
+ Phí bảo hiểm đóng 1 lần.
+ Trả trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm từ khi ký hợp đồng cho đến khi chết.
3. Tính ưu việt của các sản phẩm BHNT:
- Thứ nhất: Tính đa mục đích của BHNT.
Đối với các loại hình bảo hiểm khác; người tham gia bảo hiểm chỉ có mục đích là khi xảy ra rủi ro được trả một số tiền đủ lớn để bù đắp các khoản chi phí. Còn khi tham gia BHNT, ngoài mục đích trên người tham gia chắc chắn sẽ nhận lại được một khoản tiền đã định trước khi hết hạn hợp đồng hoặc là vào đúng lúc họ cần nhất. BHNT tạo ra khoản thu nhập cho gia đình người tham gia bảo hiểm trong trường hợp người tham gia bảo hiểm là người trụ cột gia đình bị tử vong. Hơn nữa, hợp đồng BHNT còn là vật thế chấp để người được bảo hiểm có thể vay của ngân hàng khi tiến hành hoạt động kinh doanh ... Chính vì đáp ứng được nhiều mục đích khác nên loại hình này có thị trường ngày càng rộng và được nhiều người quan tâm.
- Thứ hai: BHNT là loại hình bảo hiểm duy nhất cho phép bảo hiểm hai sự kiện trái ngược nhau trong cùng một hợp đồng (sống và chết).
- Thứ ba: BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro. Đây là một đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT và bảo hiểm phi nhân thọ. Thật vậy, mỗi người mua BHNT sẽ định kỳ nộp một khoản tiền nhỏ (phí bảo hiểm) cho người bảo hiểm, ngược lại người bảo hiểm có trách nhiệm trả một số tiền lớn (số tiền bảo hiểm) cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thoả thuận trước khi có sự kiện xảy ra. Số tiền BH này được trả cho người được bảo hiểm đạt đến một độ tuổi nhất định được ấn định trong hợp đồng hoặc số tiền này được trả cho thân nhân và gia đình người được BH khi không may họ mất sớm ngay cả khi họ mới tiết kiệm được một khoản tiền rất nhỏ qua việc đóng phí bảo hiểm. Chính vì vậy, BHNT vừa mang tính bảo hiểm vừa mang tính rủi ro.
- Thứ tư: Trong BHNT không áp dụng nguyên tắc bồi thường mà áp dụng nguyên tắc khoán.
Nguyên tắc khoán trong BHNT có một lợi thế đặc biệt đối với người được bảo hiểm. Bởi vì, cùng một người được bảo hiểm có thể tham gia BHNT trong nhiều nghiệp vụ và nhiều hợp đồng khác. Khi sự kiện bảo hiểm xảy ra mà những sự kiện này được bảo hiểm ở tất cả các hợp đồng; các nghiệp vụ thì số tiền chi trả cho người được BH hay người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm sẽ được cộng lại. ở đây không có sự kiếm lời từ bảo hiểm vì các khoản chi trả tỉ lệ với các khoản phí phải nộp.
- Thứ năm: Phí BHNT chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố vì vậy quá trình định phí khá phức tạp:
Trong một nền kinh tế động, phí BHNT phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố: số tiền bảo hiểm, thời hạn tham gia bảo hiểm; lãi suất đầu tư; độ tuổi của người được BH ... Thế nhưng, khi định giá phi bảo hiểm nhân thọ , một số yếu tố nêu trên phải giả định như tỉ lệ chết; tỉ lệ huỷ bảo hiểm; tỉ lệ lạm phát... Vì thế quá trình định phí ở đây rất phức tạp, đòi hỏi phải nắm vững đặc trưng của mỗi loại sản phẩm; phân tích dòng tiền tệ; phân tích chiều hướng tăng của một sản phẩm trên thị trường nói chung.
- Thứ sáu: BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
Hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng cơ sở chủ yếu để BHNT ra đời và phát triển là điều kinh tế xã hội phải phát triển.
IV. Quy trình triển khai sản phẩm BHNT:
Năm 2000, là năm đánh dấu sự hình thành và phát triển của thị trường BHNT Việt Nam bởi sự xuất hiện của nhiều công ty BHNT nước ngoài: AIG, Prudential, Chinfon-Manulife và liên doanh: Bảo Minh - CMG (ú
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100601.doc