Luận văn Phân tích lợi nhuận và một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh tại Tổng công ty Thép Việt Nam

Lợi nhuận là mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Với những điều kiện cụ thể khác nhau, cơ chế vận hành hoạt động kinh doanh khác nhau thì kết quả lợi nhuận cũng khác nhau. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp Nhà nước được Nhà nước cấp phát vốn, cung ứng vật tư, nguyên vật liệu và bao tiêu sản phẩm, lãi nộp Nhà nước, lỗ Nhà nước chịu. Lợi nhuận đó chưa phản ánh đầy đủ các chi phí sản xuất và yêu cầu thực tế nghiêm khắc của thị trường, chưa kích thích được tính chủ động sáng tạo của người quản lý và công nhân trực tiếp sản xuất. Do đó có tình trạng lãi giả, lỗ thật. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ kéo dài trở thành gánh nặng cho nền kinh tế, gây lãng phí nguồn lực.

Thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ban hành các chế độ chính sách, sắp xếp lại các doanh nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp chủ động sáng tạo, tự chịu trách nhiệm lãi lỗ về các hoạt động của mình. Từ khi có quyết định 90/TTg và 91/TTg ngày 07/03/1994 của Thủ tướng Chính phủ, các doanh nghiệp được sắp xếp lại theo mô hình Tổng công ty 90 và Tổng công ty 91, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp được cải thiện. Nhiều doanh nghiệp bắt đầu làm ăn có lãi tạo điều kiện mở rộng và phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho người lao động.

Tổng công ty Thép Việt Nam được thành lập theo mô hình Tổng công ty 91. Nhiệm vụ chính yếu của Tổng công ty là sản xuất thép, lưu thông sản phẩm thép trên thị trường trong cả nước, nhập khẩu một số sản phẩm thép trong nước chưa sản xuất được, cân đối cung và cầu các mặt hàng sản phẩm thép cho nền kinh tế. Từ khi được sắp xếp lại, nhiệm vụ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tập trung vào một đầu mối quản lý, mở rộng liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài và trong nước, Tổng công ty đã từng bước ổn định sản xuất, đảm bảo cung cấp ổn định các sản phẩm thép cho nền kinh tế, làm ăn có lãi.

Trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại Tổng công ty Thép Việt Nam, vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế hoạt động kinh doanh của Tổng công ty, em nghiên cứu vấn đề lợi nhuận của Tổng công ty và hoàn thành Luận văn tốt nghiệp với đề tài “Phân tích lợi nhuận và một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh tại Tổng công ty Thép Việt Nam”. Ngoài lời nói đầu và kết luận, Luận văn tốt nghiệp gồm ba chương:

 

Chương I: Tổng quan về lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.

 

Chương II: Thực trạng lợi nhuận của Tổng công ty Thép Việt Nam.

 

Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận của Tổng công ty Thép Việt Nam.

 

Trên cơ sở thực trạng kinh doanh của Tổng công ty trong những năm qua, trên cơ sở định hướng của Tổng công ty, Luận văn tốt nghiệp đã mạnh dạn đưa ra các giải pháp, kiến nghị với Nhà nước và với Tổng công ty Thép Việt Nam nhằm nâng cao lợi nhuận của Tổng công ty trong năm 2000 và những năm tiếp theo.

 

Để thực hiện Luận văn tốt nghiệp, em sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, và diễn dịch để hệ thống lại số liệu, các chỉ tiêu đánh giá của Tổng công ty nhằm làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu, đề cập trong Luận văn tốt nghiệp.

 

doc34 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1163 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Phân tích lợi nhuận và một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh tại Tổng công ty Thép Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần II: thực trạng kế toán kết quả kinh doanh và phân phối kết quả kinh doanh trong các doanh nghiệp thương mại. Những ý kiến để xuất nhằm hoàn thiện kế toán kết quả kinh doanh và phân phối kết quả kinh doanh I. Đánh giá tình hình kế toán kết quả kinh doanh và phân phối kết quả kinh doanh trong các doanh nghiệp Kể từ khi chúng ta chuyển sang cơ chế thị trường đã xuất hiện thêm rất nhiều hình thức tổ chức kinh doanh mới: cá thể, tập thể, nhà nước. Càng nhiều thành phần kinh tế công tác quản lý càng trở nên phức tạp, hoạt động sản xuất ngày càng diễn ra gay gắt. Bất kỳ doanh nghiệp nào tham gia vào hoạt động sản suất kinh doanh đều với mục tiêu thu được lợi nhuận tối đa do đó không thể tránh khỏi những thiếu xót, sai lầm. Mọi người cố tìm kiếm những khe hhở để tham ô, chiếm đoạt của công thành của tư. Hàng nghìn công trình sản xuất lớn của nhà nước bị thất thoát hàng chục tỷ đồng. Vì vậy để nắm được kết quả kinh doanh thực tế của từng doanh nghiệp nhà nước phải có những chính sách quản lý. Một doanh nghiệp mà hệ thống kế toán làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, chuyên môn giỏi thì hoạt động sản xuất diễn ra trong nội bộ doanh nghiệp sẽ bảm bảo được ghi chép kịp thời đầy đủ. Từ đó tạo cơ sở cho quá trình tổng hợp doanh thu chi phí và xác định két quả kinh doanh phù hợp với tình hình của doanh nghiệp Hạch toán kế toán là một công cụ quản lý kinh tế quan trọng hàng đầu trong doanh nghiệp để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả đáp ứng nhu cầu quản lý. Chính vì vậy mà bộ tài chính luôn có sự thay đổi về chứng từ sử dụng theo đúng chứng từ quy định của nhà nước và các chứng từ ngày càng lạp nhanh chóng, kịp thời hơn. Việc sở dụng các tài khoản để hạch toán chủ yếu là theo yêu cầu của nhà nước cùng việc ban hành các sổ sách kế toán ghi chép trong nội bộ ngành chính xác, khoa học. Ngày nay khi mà công nghệ thông tin bùng nổ, với những phát minh sáng chế mới, hiện đại các doanh nghiệp nước ta đang bước đầu thử nghiệm đưa máy vi tính tham gia vào công tác kế toán. Máy tính có thể làm nhanh gấp hàng nghìn lần những thao tác thủ công của con người. Nó có khả năng lưu trữ được rất nhiều thông tin mà bbo0j nhớ của con người khong thể làm được. Và từ những thông tin đó nó có thể phân tích xử lý biến thông tin thành thông tin thành thông tin hữu ích và biến nhưng phép tính kinh tế hóc búa, phức tạp trở nên đơn giản. Máy vi tính đang dần khẳng định sự thuận lợi giúp ích cho công tác kế toán của con người đơn giản và nhẹ nhàng hơn, nó giúp cho công tác hạch toán của các doanh nghiệp chính xác và khoa học. Bên cạnh những ưu điểm đó công tác hạch toán kế toán hiện nay ở các doanh nghiệp còn gặp không ít khó khăn, hạn chế do chủ quan và khách quan của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp sử dụng số lượng nhân viên không phù hợp với quy mô của doanh nghiệp, tổ chức cồng kềnh nên quá trình hạch toán còn nhiều hạn chế có sự trồng chéo ghi chép. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tinh giảm dần và hợp lý hoá bộ máy kế toán. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh trên địa bàn rộng nhung lại áp dụng hình thức kế toán tập trung trong chế độ bao cấp nên có rất nhiều hạn chế, làm giảm tính năng động, kịp thời và chính xác trong hạch toán của doanh nghiệp. Mặt khác, việc áp dụng hình thức sổ kế toán trong nhiều doanh nghiệp chưa phù hợp nên ảnh hưởng tới lập báo cáo vào cuối tháng, cuối quí, cuối năm làm cho thông tin kế toán đưa ra chậm. Trong rất nhiều doanh nghiệp hiện nay áp dụng cơ chế quản lý cũ nên việc tuyển trọn nhân viên không phù hợp với công việc đem lại hiệu quả kinh tế thấp. Đối với công tác kế toán kết quả kinh hiện nay, có ưu đIểm: Kế toán kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp được xác định là phù hợp với chế độ kế toán hiện hành, quy trình tập hợp số liệu nhanh gọn, tiết kiệm chi phí. Bên cạnh việc cung cấp thông tin cho các cơ quan chức năng như cơ quan thuế, cơ quan thống kê ... Kế toán kết quả kinh doanh còn cung cấp kịp thời, đầy đủ thông tin cho ban lãnh đạo, giúp giám đốc có kế hoạch xây dựng phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đối với doanh nghiệp quy mô lớn, khối lượng kinh doanh lớn, công việc bận bịu vào thời kỳ quyết toán cuối năm nhưng kế toán kết quả kinh doanh vẫn chính xác, kịp thời, hoàn thành tốt nhiệm vụ, đáp ứng được yêu cầu quản lý. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực của công tác hạch toán kết quả kinh doanh thì kế toán kết quả kinh doanh vẫn còn tồn tại : Nhiều doanh nghiệp kế toán không phân biệt được chi phí mua hàng và chi phí bán hàng. Việc phân bổ chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp cho hàng còn lại và hàng đã tiêu thụ không theo tiêu thức phân bổ mà tự doanh nghiệp điều chỉnh nên vi phạm chế độ kế toán . Nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu, khoản chi phí trả hộ cho đơn vị giao uỷ thác phản ảnh một loạt hoạt động mang tính chất dịch vụ. Đối với kế toán phân phối lợi nhuận hiện nay của các doanh nghiệp: Nhìn chung việc phân phối lợi nhuận trong các doanh nghiệp được hực hiện theo đúng chế độ kế toán quy định. Hàng năm vào cuối niên độ kế toán, kế toán trưởng cùng với giám đôc nghiên cứu việc phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp mình sao cho phù hợp và hiệu quả nhất. Tuy nhiên trên thực tế việc đIều tiết, phân phối kết quả kinh doanh cũng không tránh khỏi những thiếu xót. Nhiều doanh nghiệp chủ quan không lập các quỹ như: quỹ dự phòng tài chính và quỹ trợ cấp mất việc làm...Chính vì vậy mà khi công ty gặp khó khăn, thua lỗ đã gây nên sự lúng túng đối với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp không kịp trả lương cho công nhân, nhiều công nhân không có việc làm phải nghỉ không lương, doanh nghiệp mất dần lòng tin của công nhân. Những công nhân giỏi đi khỏi công ty mong có được một cơ hội làm việc với mức thu nhập cao hơn. Và xu thế tất yếu là đưa doanh nghiệp đến thua lỗ và phá sản. Ngoài ra, có những doanh nghiệp trong kế toán phân phối lợi nhuận một số doanh nghiệp sử dụng chưa hợp lý tài khoản phân phối lợi nhuận (TK 4212_"lợi nhuận năm nay"). II. Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán kết quả kinh doanh và phân phối kết quả kinh doanh. Trong cơ chế thị trường, tiêu thức quan trọng để đánh giá doanh nghiệp là kết quả kinh doanh , hay nói cách khác mục tiêu của doanh nghiệp là tìm kiếm lợi nhuận. Để có thể đạt được mục tiêu đó của các doanh nghiệp thì cơ chế, chính sách tài chính đóng vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình hoạt động của các doanh nghệp. Do đó, những tồn tại, thiếu xót trong cơ chế tài chính sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới công tác kế toán cuả doanh nghiệp nói chung và kế toán xác định kết qủa kinh doanh và phân phối kết quả kinh doanh nói riêng. Do đó cần hoàn thiện hơn nữa các văn bản pháp qui trong công tác kế toán. Bên cạnh đó vấn đề phân phối lợi nhuận cũng có một số vấn đề còn vướng mắc: Trước hết là việc tính toán số lợi nhuận chịu thuế (sau này là số thu nhập của các doanh nghiệp) nên xác định theo mức khoán. Có ý kiến cho rằng có thể căn cứ vào tình hình lợi nhuận của 5 năm vừa qua để xây dựng mức khoán cho 5 năm tới và ổn định theo mức đó. Các tài liệu về định mức kinh tế do cơ quan quản lý nhà nước tập hợp và công bố chỉ là tài liệu tham khảo khi quyết định về mức lợi nhuận chịu thuế cho doanh nghiệp. Cũng về thuế thu nhập doanh nghiệp,việc thu thuế doanh nghiệp bổ sung là 25% nếu lợi nhuận của doanh nghiệp còn lại sau khi đã trừ thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp lớn hơn 12% vốn chủ sở hữu. Thực tế áp dụng cho thấy việc thu thuế này chỉ tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước, chứ hầu như không thu được từ các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Vẫn còn tình trạng như vậy là do đối với các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp ngoài quốc doanh mức quy định nộp thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung không phải là cao, song do việc chấp hành chế độ kế toán không tốt, khâu kiểm tra, kiểm soát thuế còn thiếu chặt chẽ nên các đối tượng này chỉ hạch toán sao cho có lãi ít, thậm chí lỗ để có thể trốn thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung. Còn các doanh nghiệp nhà nước do có ràng buộc về mặt pháp lý nên khó có thể hạch toán sai lệch, vì vậy họ trở thành đối tượng chính nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung chứ thực chất không phải doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có hiệu quả hơn các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong việc phân phối lợi nhuận sau thuế còn vấn đề đang được bàn cãi là chế độ thu về sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Chế độ thu này với mục đích thúc đẩy các doanh nghiệp nhà nước sử dụng hiệu quả hơn vốn ngân sách nhà nước (vì hiện nay ở nước ta vẫn còn tồn tại nhiều doanh nghiệp nhà nước). Khi thực hiện thì nó không phải là không có hiệu quả nhưng cũng không tránh khỏi những bất cập. Có quan điểm cho rằng vẫn nên duy trì chế độ thu này vì nó vừa thúc đẩy các doanh nghiệp nhà nước sử dụng vốn có hiệu quả chống lãng phí vốn, vừa đóng góp một phần nhất định cho thu ngân sách nhà nước, đồng thời tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp có lượng vốn ngân sách nhiều ít khác nhau. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng nên xoá bỏ chế độ thu này vì: _ Chế độ thu về sử dụng vốn ngân sách như hiện nay không đảm bảo sự công bằng giữa các doanh nghiệp nhà nước. Giả sử doanh nghiệp bị lỗ không phải nộp khoản thu này và nguồn trích quỹ cũng như bù đắp một số khoản chi phí không đưa vào giá thành. Các doanh nghiệp có lãi ít, sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp thì lợi nhuận sau thuế nhỏ. _Thực tế cho thấy tích luỹ của các doanh nghiệp nhà nước từ lợi nhuận sau thuế hiện nay còn thấp, nếu nộp tiền sử dụng vốn ngân sách nhà nước thì khả năng tích lũy lại càng nhỏ. _Nhà nước là chủ sở hữu các doanh nghiệp nhà nước mà phải nộp thuế về sử dụng vốn ngân sách là không hợp lý. Ngoài ra còn vấn đề trong việc sử dụng TK để hạch toán doanh thu. Có ý kiến cho rằng nên bỏ TK 512"doanh thu bán hàng nội bộ " mà thay vào đó ta mử thêm chi tiết cho TK 511 một TK cấp II, và với TK 532 "giảm giá hàng bán ", với doanh nghiệp thương mại việc giảm giá hàng bán thường do 2 nguyên nhân là: do hàng kém phẩm chất hoặc do khách hàng mua với khối lượng lớn. Nên chăng chúng ta đề xuất mở thêm một tài khoản mới để hạch toán riêng cho từng trường hợp hoặc mở chi tiết tài khoản cấp II cho TK 532. Trên đây là một số tồn tại về cơ chế tài chính mà các doanh nghiệp đáng quan tâm,một phần nguyên nhân là do sự thiếu tính đồng bộ, nhất quán giữa các văn bản của nhà nước và tính thiêú chặt chẽ giữa các văn bản quy định về xác định kết quả hoạt động kinh doanh cũng như phân phối kết quả kinh doanh. Những tồn tại đó có ảnh hưởng rất lớn tới các doanh nghiệp. Do mục đích cuối cùng của các doanh nghiệp là lợi nhuận, nên việc hạch toán chính xác kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp có thể sẽ tạo ra sự bất lợi đối với doanh nghiệp. Nên nhiều doanh nghiệp hạch toán kết quả kinh doanh không đúng sự thật để tránh các khoản phải nộp cho ngân sách nhà nước. Đôi khi để tạo niềm tin từ khách hàng và cơ quan thuế, các tổ chức cho vay vốn, doanh nghiệp, ... cũng hạch toán sai lệch kết quả kinh doanh. Qua việc phân tích và đánh giá tình hình kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp ta thấy cần thiết phải có các chính sách hoàn thiện công tác kế toán kết quả kinh doanh và phân phối kết quả kinh doanh trong các doanh nghiệp nói chung và trong doanh nghiệp thương mại nói riêng. Và việc hoàn thiện phải trên cơ sở phù hợp với đặc điểm của từng doanh nghiệp, phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh, phải đáp ứng kịp thời, chính xác, phù hợp với yêu cầu quản lý.Hoàn thiện phải dựa trên cơ sở tiết kiệm chi phí, phải đảm bảo theo kịp với sự tiến bộ của xã hội, cán bộ lãnh đạo, quản lý và các chuyên gia kế toán cùng đưa ra giải pháp, nghiên cứu và xử lý, cùng nhau bàn bạc để đem lại kết quả tốt nhất đối với công tác kế toán. Kết luận Bắt nhịp cùng với sự phát triển của xã hội các doanh nghiệp luôn luôn tự vận động để tồn tại và phát triển, công tác kế toán kết quả kinh doanh và phân phối kết quả kinh doanh ngày càng hoàn thiện hơn cả về mặt nội dung và hình thức. Hiện nay hầu hết những doanh nghiệp hoạt động với quy mô lớn đều đã trang bị cho doanh nghiệp mình những trang thiết bị tối tân và cử những nhân viên của mình đi đào tạo thêm về công tác kế toán trên máy tính. Hoàn thiện không chỉ trong doanh nghiệp mà còn theo kịp được với tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin trên thế giới. Mặc dù rất cố gắng tìm hiều và tham khảo song vì thời gian viết bài có hạn, khả năng nắm bắt sâu về kế toán không có nhiều, chưa có kinh nghiệm thực tế về hạch toán kế toán kết quả kinh doanh và phân phối kết quả kinh doanh ở các doanh nghiệp nên bài viết còn rất sơ sài và thiếu xót. Em rất mong sự góp ý và thông cảm . Qua chuyên đề này, sự hiểu biết về công tác kế toán trong doanh nghiệp nói chung , kế toán kết quả kinh doanh và phân phối kết quả kinh doanh nói riêng càng được nâng cao. Em xin chân thành cảm ơn. Lời nói đầu Lợi nhuận là mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Với những điều kiện cụ thể khác nhau, cơ chế vận hành hoạt động kinh doanh khác nhau thì kết quả lợi nhuận cũng khác nhau. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp Nhà nước được Nhà nước cấp phát vốn, cung ứng vật tư, nguyên vật liệu và bao tiêu sản phẩm, lãi nộp Nhà nước, lỗ Nhà nước chịu. Lợi nhuận đó chưa phản ánh đầy đủ các chi phí sản xuất và yêu cầu thực tế nghiêm khắc của thị trường, chưa kích thích được tính chủ động sáng tạo của người quản lý và công nhân trực tiếp sản xuất. Do đó có tình trạng lãi giả, lỗ thật. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ kéo dài trở thành gánh nặng cho nền kinh tế, gây lãng phí nguồn lực. Thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ban hành các chế độ chính sách, sắp xếp lại các doanh nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp chủ động sáng tạo, tự chịu trách nhiệm lãi lỗ về các hoạt động của mình. Từ khi có quyết định 90/TTg và 91/TTg ngày 07/03/1994 của Thủ tướng Chính phủ, các doanh nghiệp được sắp xếp lại theo mô hình Tổng công ty 90 và Tổng công ty 91, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp được cải thiện. Nhiều doanh nghiệp bắt đầu làm ăn có lãi tạo điều kiện mở rộng và phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho người lao động. Tổng công ty Thép Việt Nam được thành lập theo mô hình Tổng công ty 91. Nhiệm vụ chính yếu của Tổng công ty là sản xuất thép, lưu thông sản phẩm thép trên thị trường trong cả nước, nhập khẩu một số sản phẩm thép trong nước chưa sản xuất được, cân đối cung và cầu các mặt hàng sản phẩm thép cho nền kinh tế. Từ khi được sắp xếp lại, nhiệm vụ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tập trung vào một đầu mối quản lý, mở rộng liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài và trong nước, Tổng công ty đã từng bước ổn định sản xuất, đảm bảo cung cấp ổn định các sản phẩm thép cho nền kinh tế, làm ăn có lãi. Trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại Tổng công ty Thép Việt Nam, vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế hoạt động kinh doanh của Tổng công ty, em nghiên cứu vấn đề lợi nhuận của Tổng công ty và hoàn thành Luận văn tốt nghiệp với đề tài “Phân tích lợi nhuận và một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh tại Tổng công ty Thép Việt Nam”. Ngoài lời nói đầu và kết luận, Luận văn tốt nghiệp gồm ba chương: Chương I: Tổng quan về lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Chương II: Thực trạng lợi nhuận của Tổng công ty Thép Việt Nam. Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận của Tổng công ty Thép Việt Nam. Trên cơ sở thực trạng kinh doanh của Tổng công ty trong những năm qua, trên cơ sở định hướng của Tổng công ty, Luận văn tốt nghiệp đã mạnh dạn đưa ra các giải pháp, kiến nghị với Nhà nước và với Tổng công ty Thép Việt Nam nhằm nâng cao lợi nhuận của Tổng công ty trong năm 2000 và những năm tiếp theo. Để thực hiện Luận văn tốt nghiệp, em sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, và diễn dịch để hệ thống lại số liệu, các chỉ tiêu đánh giá của Tổng công ty nhằm làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu, đề cập trong Luận văn tốt nghiệp. Hà Nội, ngày 30 tháng 5 năm 2001 Phạm Thị Hải Chương I Tổng quan về lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Lợi nhuận và ý nghĩa của lợi nhuận đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Doanh nghiệp Nền kinh tế nước ta được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước đang tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách để tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động mang lại hiệu quả kinh doanh và lợi nhuận cao. Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp, tối đa hoá lợi nhuận và phát triển. ở nước ta hiện nay có nhiều loại hình doanh nghiệp hoạt động. Có thể phân loại doanh nghiệp căn cứ vào ngành nghề, hình thức sở hữu. Dựa vào hình thức sở hữu, các doanh nghiệp được chia thành: Doanh nghiệp Nhà nước Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn Doanh nghiệp tư nhân Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp Nhà nước: Theo Điều 1 Luật Doanh nghiệp Nhà nước “Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao cho. Doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý”. Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh là Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận. Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích là Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của Nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Công ty (Công ty Trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần): là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp của mình và chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần góp của mình. Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: gồm doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam. b - Hoạt động của doanh nghiệp Hoạt động kinh doanh là một hoạt động đặc thù của doanh nghiệp. Doanh nghiệp kinh doanh những hàng hoá, dịch vụ mà thị trường có nhu cầu, trong khả năng nguồn lực hiện có của doanh nghiệp nhằm thu lợi nhuận cao nhất, nâng cao thu nhập của người lao động, tích luỹ để đẩy mạnh quá trình tái sản xuất mở rộng, góp phần tăng thu nhập quốc dân và thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Để sản xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp phải mua nguyên nhiên liệu, các bộ phận, linh kiện rời hay bán thành phẩm của các doanh nghiệp khác ở trong và ngoài nước. Như vậy, các doanh nghiệp muốn tồn tại phải có mối quan hệ tương hỗ với các thành viên khác trong nền kinh tế. Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chủ yếu giải quyết các vấn đề ssau đây: Chiến lược đầu tư: Nguồn vốn đầu tư cho kinh doanh; Sử dụng lợi nhuận của doanh nghiệp; Phân tích, đánh giá, kiểm tra các hoạt động tài chính để đảm bảo trạng thái cân bằng tài chính. Quản lý hoạt động tài chính ngắn hạn để đưa ra các quyết định thu chi cho phù hợp. Các hoạt động trên nhằm đạt tới mục tiêu lợi nhuận cao nhất, sản xuất kinh doanh không ngừng tăng trưởng và phát triển. c- Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước hiện nay Trong thời kỳ nền kinh tế nước ta được vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước chiếm địa vị thống trị trên hầu hết các lĩnh vực kinh doanh và dịch vụ. Các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong điều kiện được bao cấp của Nhà nước như: Mua vật tư theo giá hạ; Được cấp vốn, trang bị máy móc thiết bị và vay vốn theo lãi suất thấp; Được trả lương không đầy đủ cho người lao động, phần còn lại được Nhà nước bao cấp ngoài lương; Được bao tiêu sản phẩm… Do vậy, trên sổ sách lợi nhuận và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước có thể có hoặc có thể rất lớn. Nhưng nếu tính đủ chi phí như tính đủ nguyên giá tài sản cố định và khấu hao tài sản đủ tỷ lệ quy định; Tính đủ giá nguyên vật liệu, động lực, ngoại tệ nhập khẩu; Tính đủ tiền lương không bao cấp bằng hiện vật bằng bù lỗ bên ngoài của Ngân sách Nhà nước thì thực chất đó là lãi giả, lỗ thật. Ngược lại, cũng có trường hợp đơn vị được Nhà nước bù lỗ, song trên thực tế thì có lãi vì việc bù lỗ không căn cứ vào hoạt động xác thực của doanh nghiệp mà căn cứ vào định mức được duyệt. Thực hiện đường lối cải cách kinh tế, Đảng và Nhà nước đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước tạo điều kiện để các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu qủa. Doanh nghiệp Nhà nước là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Nhà nước, phải giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần. Đó là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới kinh tế đất nước theo quy định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ cuối năm 1994 Nhà nước tiếp tục đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước, các doanh nghiệp Nhà nước đã tổ chức, sắp xếp lại theo quy mô lớn trên cơ sở tập trung để tạo tiền đề tích tụ trong hoạt động kinh doanh. Thủ tướng Chính phủ đã thành lập 17 Tổng công ty Nhà nước hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh doanh lớn theo Quyết định 91/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ (gọi tắt là Tổng công ty 91) và uỷ quyền cho các Bộ, uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập 76 Tổng công ty Nhà nước hoạt động theo mô hình Quyết định 90/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ (gọi tắt là Tổng công ty 90). Các Tổng công ty 91 và Tổng công ty 90 được thành lập đã nắm trọn các ngành kinh tế kỹ thuật trọng yếu của quốc gia như: hàng không, hàng hải, bưu chính viễn thông, xi măng, sắt thép, xăng dầu, than, điện…Sau khi được sắp xếp lại, hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp Nhà nước đã từng bước được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên đối với những Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, Nhà nước xét thấy thực sự không cần phải giữ lại thì thực hiện cổ phần hoá, bán đấu giá, khoán, cho thuê hoặc giải thể. Lợi nhuận và nguồn hình thành lợi nhuận Lợi nhuận Các quan điểm về lợi nhuận : Từ trước tới nay, có rất nhiều các quan điểm khác nhau về lợi nhuận. Ta có thể thấy được điều này qua các quan điểm về lợi nhuận sau : + Lợi nhuận của doanh nghiệp: là khoản chênh lệch giữa thu nhập về tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ với chi phí đã bỏ ra để đạt được thu nhập đó. Việc tính toán thu nhập hay chi phí đã chi ra là theo giá cả của thị trường mà giá cả thị trường do quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ quyết định. + Lợi nhuận: là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động SXKD, là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp đánh giá hiệu qủa kinh tế các hoạt động SXKD của doanh nghiệp. + Thu nhập của doanh nghiệp hay chính là doanh thu bán hàng hoá và dịch vụ trừ đi toàn bộ chi phí sản xuất (chi phí về tiền thuê lao động, tiền lương, tiền thuê nhà cửa, tiền mua vật tư ... ) thuế hàng hoá và các thứ thuế khác hầu như còn lại được gọi là lợi nhuận. Có thể biểu diễn qua biểu sau : Biểu 1 : Mối quan hệ giữa doanh thu, chi phí, thuế và lợi nhuận. Doanh thu bán hàng và dịch vụ Lãi gộp Chi phí biến đổi Chi phí cố định Lợi nhuận trước thuế Tổng chi phí sản xuất Thuế Lợi nhuận thuần túy b- Các loại lợi nhuận của doanh nghiệp : Trong doanh nghiệp, có nhiều loại hình lợi nhuận khác nhau, ta có thể khái quát thành các loại lợi nhuận sau : + Lợi nhuận trước thuế. + Lợi nhuận sau thuế. 1.1.2.2- Các nguồn hình thành lợi nhuận của doanh nghiệp : Nội dung hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng, do đó lợi nhuận đạt được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Thứ nhất: Lợi nhuận của các hoạt động sản xuất kinh doanh chính và phụ là khoản chênh lệch giữa doanh thu về tiêu thụ và chi phí của khối lượng sản phẩm hàng hoá lao vụ thuộc các hoạt động sản xuất kinh doanh chính phụ của doanh nghiệp. Thứ hai: Lợi nhuận của các hoạt động liên doanh liê

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100012.doc
Tài liệu liên quan