Về cơ bản thì hệ thống tiêu chí đánh giá của cả ba ngân hàng mà đề tài
quan tâm đều tương tự nhau. Bên cạnh đó thì cũng có một vài điểm khác biệt.
Hệ thống tiêu chí chấm điểm xếp hạng doanh nghiệp gồm có các tiêu chí
tài chính và tiêu chí phi tài chính là hợp lý, điều này sẽ góp phần đánh giá doanh
nghiệp một cách toàn diện hơn. Trong đó thì cáctiêu chí phi tài chính đôi khi lại
có ý nghĩa quan trọng hơn là các tiêu chí tàichính bởi các báo cáo tài chính, nhất
là các báo cáo tài chính không được kiểm toán trong điều kiện Việt Nam thường
không có tính xác thực cao.Các doanh nghiệp thường cố gắng “tạo ra” các con
số “đẹp đẽ” nhằm thuyết phục ngân hàng cấp vốn cho mình.
Việc các ngân hàng đưa ra các chỉ số định chuẩn cho các lĩnh vực sản
xuất kinh doanh khác nhau không giống nhau là phù hợp. Do đặc thù của mỗi
ngành kinh doanh mà tỷ suất lợi nhuận, cơ cấu nguồn vốn, cơ cấu tài sản của các
doanh nghiệp trong mỗi ngành không giống nhau. Chẳng hạn khả năng thanh
toán ngắn hạn và khả năng thanh toán nhanh của các doanh nghiệp ngành xây
dựng thường thấp hơn so với doanh nghiệp trong các ngành khác,
Tuy nhiên, trong nhóm chỉ tiêu tài chính về đòn cân nợ của doanh nghiệp
thì NHNN&PTNT và NHCT đưa ra hai chỉ tiêu là nợ phải trả/tổng tài sảnvà nợ
phải trả/vốn chủ sở hữu, hai chỉ tiêu này về bản chất là giống nhau, nó phản ánh
cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp. Như vậy,chỉ cần đưa vào hệ thống tiêu chí
66
66
đánh giá một trong hai chỉ tiêu trên là đủ. Ở nhóm chỉ tiêu này NHĐT&PT chỉ đưa
ra một chỉ tiêu là hệ số tự tài trợ (vốn chỉ sở hữu/tổng tài sản), như vậy là hợp lý.
Trong khi nợ quá hạn được NHNN&PTNT và NHCT xếp vào nhóm các
chỉ tiêu tài chính (tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ ngân hàng)thì NHĐT&PT lại xếp
vào nhóm các chỉ tiêu phi tài chính, nếu doanh nghiệp có phát sinh nợ quá hạn
thì bị điểm 0, nếu không có nợ quá hạn được5 điểm. Cách cho điểm như vậy
theo quan điểm của tôi là không thật sự hợp lý. Bởi vì chẳng hạn vào một thời
điểm nào đó, do những yếutố khách quan mà doanh nghiệp không trả được nợ
đến hạn thì sẽ bị cho điểm 0, trong khi lịch sử chi trả của doanh nghiệp là rất tốt
và nguyên nhân dẫn đến doanh nghiệp không trả được nợ là nguyên nhân có
tính khách quan. Đối với tiêu chí này, NHĐT&PT nên sử dụng tiêu chí giống
như NHNN&PTNT và NHCT.
85 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1185 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Phân tích hệ thống chấm điểm tín dụng doanh nghiệp tại các ngân hàng thương mại quốc doanh trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n tiền gửi các loại với mức lãi suất linh hoạt.
o Cung cấp các dịch vụ vấn tin hàng ngày, thông tin tỷ giá hối
đoái, lãi suất tiền gửi, tiền vay.
o Các sản phẩm dịch vụ khác.
• Khách hàng nhóm A:
- Mục tiêu của NHĐT&PT đối với nhóm khách hàng này:
- Với khách hàng đã có quan hệ với ngân hàng: tiếp tục duy trì và mở
rộng quan hệ với khách hàng trong các hoạt động tín dụng, tiền gửi và
các dịch vụ ngân hàng.
- Với các khách hàng chưa có quan hệ với ngân hàng: áp dụng như
khách hàng nhóm A*.
60
60
- Chính sách lãi suất: đây là nhóm khách hàng tốt của ngân hàng, sử
dụng vốn vay có hiệu quả, mức bù đắp rủi ro đề nghị là y%/năm.
- Chính sách phí dịch vụ: áp dụng mức phí dịch vụ ưu đãi loại 2 trong
biểu phí của ngân hàng (chi nhánh).
- Bảo đảm tiền vay: ngân hàng sẽ xem xét quyết định cho vay không có
bảo đảm bằng tài sản đến mức tối đa được phép theo quy định hiện
hành về cho vay và bảo đảm tiền vay.
- Chính sách sản phẩm tín dụng: giống như khách hàng nhóm A*.
- Chính sách sản phẩm dịch vụ: giống như khách hàng nhóm A*.
• Khách hàng nhóm B:
- Mục tiêu của NHĐT&PT đối với khách hàng: hỗ trợ, tư vấn khách
hàng trong việc giải quyết các khó khăn tạm thời để nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn vay của khách hàng.
- Chính sách lãi suất: đây là nhóm khách hàng về cơ bản được đánh giá
là tốt, mức bù đắp rủi ro đề nghị là z%/năm.
- Bảo đảm tiền vay: đối với khách hàng nhóm B, ngoài việc tuân thủ
các quy định hiện hành về cho vay và bảo đảm tiền vay, ngân hàng sẽ
chỉ cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đến mức tối đa 50% dư nợ
vay tại ngân hàng.
- Chính sách sản phẩm tín dụng: tương tự như nhóm A* và A nhưng
không cung cấp dịch vụ thẻ tín dụng.
- Chính sách sản phẩm dịch vụ:
o Cung cấp nội, ngoại tệ với mức giá thoả thuận ưu đãi để đáp
ứng nhu cầu giao dịch của khách hàng.
o Tư vấn tài chính.
61
61
o Cung cấp các dịch vụ về thanh toán trong và ngoài nước một
cách thuận lợi.
o Nhận tiền gửi các loại với mức lãi suất linh hoạt.
o Cung cấp các dịch vụ vấn tin hàng ngày, thông tin tỷ giá hối
đoái, lãi suất tiền gửi, tiền vay.
o Các sản phẩm dịch vụ khác.
• Khách hàng nhóm C:
- Mục tiêu của NHĐT&PT đối với khách hàng: thực hiện đánh giá thường
xuyên đối với nhóm khách hàng này. Duy trì quan hệ tín dụng với nhóm
này ở mức cần thiết tối thiểu để hỗ trợ khách hàng hoạt động tạo nguồn
thu trả nợ đối với các khoản dư nợ hiện tại. Kiểm soát tăng trưởng dư
nợ, kiểm soát rủi ro tín dụng trên cơ sở áp dụng tăng cường các điều
kiện tín dụng, đặc biệt là các điều kiện về bảo đảm tiền vay.
- Chính sách lãi suất: đây là nhóm khách hàng hiện đang gặp một số
khó khăn tạm thời, mức bù đắp rủi ro đề nghị là g%/năm.
- Đối với nhóm khách hàng C, ngân hàng áp dụng chiến lược “duy trì”:
trên cở sở kiểm soát phương án, kế hoạch kinh doanh của khách hàng,
ngân hàng cho vay ngắn hạn với nhóm khách hàng trên cơ sở khả
năng thu hồi nợ cũ, số tiền cho vay ngắn hạn không vượt quá số thu nợ
và 100% dư nợ cho vay mới phải được bảo đảm bằng tài sản. Không
khuyến khích cho vay trung dài hạn đầu tư dự án. Việc cho vay ngắn
hạn được áp dụng theo hình thức cho vay theo món.
• Khách hàng nhóm D:
- Mục tiêu: thực hiện đánh giá thường xuyên đối với nhóm khách hàng.
Quan hệ tín dụng với nhóm khách hàng này trên cơ sở giám sát được
luồng tiền và hoạt động của doanh nghiệp để rút dần dư nợ. Kiểm soát
62
62
tăng trưởng dư nợ, kiểm soát rủi ro tín dụng trên cơ sở áp dụng tăng cường
các điều kiện tín dụng, đặc biệt là các điều kiện về bảo đảm tiền vay.
- Chính sách lãi suất: đây là nhóm khách hàng đang gặp khó khăn lớn
về tài chính, mức bù đắp rủi ro đề nghị là h%/năm.
- Trên cở sở kiểm soát phương án, kế hoạch kinh doanh của khách hàng,
ngân hàng cho vay ngắn hạn với nhóm khách hàng này không vượt
quá 70% số thu nợ và 100% dư nợ cho vay mới phải được bảo đảm
bằng tài sản.
• Khách hàng nhóm E, F:
- Đối với nhóm khách hàng E, F, ngân hàng áp dụng chiến lược “rút lui”
với nội dung chính là không mở rộng quan hệ tín dụng (không cho vay
mới) và tìm mọi biện pháp để thu hồi nợ, kể cả việc xử lý sớm tài sản
đảm bảo.
(Mức bù đắp rủi ro x, y, z, g, h được xác định dựa trên chính sách tín dụng
của NHĐT&PT trong từng thời kỳ).
2.5. Đánh giá lại điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp
Điểm tín dụng và hạng của doanh nghiệp phải phản ánh được chính xác
tình trạng rủi ro thực tế của khách hàng, do đó công tác chấm điểm và xếp hạng
phải được tiến hành thường xuyên. Theo quy định hiện hành thì các ngân hàng
sẽ tiến hành đánh giá định kỳ hàng năm và trong trường hợp xảy ra những sự
kiện có khả năng ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng thì cán bộ tín
dụng phải chấm điểm lại doanh nghiệp để điều chỉnh kịp thời.
2.6. Nhận xét chung
Hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp của các ngân
hàng thương mại quốc doanh trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng hiện đang trong quá
trình bắt đầu triển khai. NHĐT&PT đã áp dụng trong một thời gian ngắn
63
63
(khoảng gần 2 năm), trong khi đó thì tại NHNN&PTNT và NHCT hiện vẫn
chưa thực hiện chấm điểm theo hệ thống này. NHNN&PTNT đang sử dụng
hệ thống xếp hạng doanh nghiệp hết sức đơn giản với ba hạng khách hàng là
A, B và C. Các tiêu chí để xếp hạng cụ thể như sau:
• Chỉ tiêu 1: doanh thu so với năm trước liền kề:
Ngành LOẠI A LOẠI B LOẠI C
1 Ngành nông, lâm, thuỷ sản, công
nghiệp khai thác mỏ (trừ dầu khí),
công nghiệp cơ khí
Tăng từ 5%
trở lên
Tăng dưới 5% và
giảm không quá 3%
Giảm từ 3%
trở lên
2 Ngành công nghiệp chế biến, sản
xuất và phân phối điện, khí đốt,
nước sạch, xây dựng, khai thác
dầu khí, vận tải, kho bãi, thông tin
liên lạc, thương nghiệp, du lịch,
khách sạn và các ngành khác
Tăng từ 7%
trở lên
Tăng dưới 7% và
giảm không quá 3%
Giảm từ 3%
trở lên
• Chỉ tiêu 2: lợi nhuận thực hiện và tỷ suất lợi nhuận thực hiện trên vốn
chủ sở hữu:
LOẠI A LOẠI B LOẠI C
- Doanh nghiệp có lãi
- Tỷ suất lợi nhuận thực hiện
trên vốn chủ sở hữu tăng hơn
so với năm trước liền kề
- Doanh nghiệp có lãi
- Tỷ suất lợi nhuận thực hiện trên
vốn chủ sở hữu bằng hoặc thấp
hơn so với năm trước liền kề
- Doanh nghiệp
lỗ
Đối với doanh nghiệp có lỗ kế hoạch:
- Doanh nghiệp thực hiện sản xuất theo chỉ đạo của Chính phủ, có cơ chế
tài chính xử lý toàn bộ số lỗ từ nguồn vốn ngân sách theo quy định của
Chính phủ, bộ Tài chính thì được tính xếp loại như doanh nghiệp có lãi.
- Doanh nghiệp mới thành lập, mới bắt đầu sản xuất kinh doanh có số lỗ
thực tế nhỏ hơn số lỗ kế hoạch được xếp loại B.
• Chỉ tiêu 3: tỷ suất tự tài trợ:
64
64
LOẠI A LOẠI B LOẠI C
Tỷ suất tự tài trợ > 8% 8% ≥ tỷ suất tự tài trợ ≥ 3% Tỷ suất tự tài trợ < 8%
• Chỉ tiêu 4: nợ quá hạn (chỉ tính nợ quá hạn của các tổ chức tín dụng)
và khả năng thanh toán nợ đến hạn:
trả hạn đến hạn dài nợ và hạn ngắn nợ Tổng
hạn ngắn tư đầuvàTSLĐTổng hạn đến nợ toán thanh năng Khả =
LOẠI A LOẠI B LOẠI C
Thoả mãn đủ hai điều kiện:
- Không có nợ quá hạn
- Hệ số khả năng thanh
toán nợ đến hạn > 1
Thoả mãn đủ hai điều kiện:
- Nợ quá hạn dưới 181 ngày
- Hệ số khả năng thanh toán
nợ đến hạn từ 0.5 đến 1
Thoả mãn 1 trong 2 điều kiện:
- Có nợ quá hạn trên 181 ngày
- Hệ số khả năng thanh toán
nợ đến hạn < 0.5
• Chỉ tiêu 5: tình hình chấp hành các quy định pháp luật hiện hành:
LOẠI A LOẠI B LOẠI C
Không vi phạm
pháp luật hiện
hành
Doanh nghiệp có kết luận
của cơ quan có thẩm
quyền về vi phạm các
quy định của pháp luật
hiện hành nhưng chưa
đến mức xử phạt hành
chính
Doanh nghiệp bị xử phạt vi phạm hành chính
trong việc chấp hành các quy định của pháp
luật hoặc người quản lý, điều hành doanh
nghiệp có hành vi vi phạm pháp luật trong quá
trình thực thi nhiệm vụ của doanh nghiệp đến
mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự
Việc phân loại doanh nghiệp như sau:
Doanh nghiệp loại A Doanh nghiệp loại B Doanh nghiệp loại C
Cả 5 chỉ tiêu đều xếp
loại A
Là doanh nghiệp không
xếp loại A hoặc C
Chỉ cần xảy ra một trong các điều kiện
sau:
- Có từ 3 chỉ tiêu xếp loại C trở lên
- Chỉ tiêu thứ 2 xếp loại C
Mặc dù các quy định đã được ban hành từ năm 2004 nhưng hiện nay
NHNN&PTNT và NHCT vẫn chưa thể áp dụng vào thực tế; NHĐT&PT hiện đã áp dụng
nhưng kết quả chỉ có tính tham khảo, quyết định cấp tín dụng vẫn chủ yếu dựa trên kết
quả thẩm định phương án sản xuất kinh doanh/dự án đầu tư và giá trị các tài sản bảo đảm.
Như vậy, ý nghĩa của hệ thống chấm điểm xếp hạng doanh nghiệp sẽ bị hạn chế, không
đúng với mục đích ban đầu khi ban hành quy định của ngân hàng về hệ thống này./.
65
65
PHẦN III
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GÓP PHẦN HOÀN THIỆN
HỆ THỐNG CHẤM ĐIỂM TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP
TẠI CÁC NHTM QUỐC DOANH
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÂM ĐỒNG
3.1. Về hệ thống tiêu chí đánh giá và thang điểm sử dụng
Về cơ bản thì hệ thống tiêu chí đánh giá của cả ba ngân hàng mà đề tài
quan tâm đều tương tự nhau. Bên cạnh đó thì cũng có một vài điểm khác biệt.
Hệ thống tiêu chí chấm điểm xếp hạng doanh nghiệp gồm có các tiêu chí
tài chính và tiêu chí phi tài chính là hợp lý, điều này sẽ góp phần đánh giá doanh
nghiệp một cách toàn diện hơn. Trong đó thì các tiêu chí phi tài chính đôi khi lại
có ý nghĩa quan trọng hơn là các tiêu chí tài chính bởi các báo cáo tài chính, nhất
là các báo cáo tài chính không được kiểm toán trong điều kiện Việt Nam thường
không có tính xác thực cao. Các doanh nghiệp thường cố gắng “tạo ra” các con
số “đẹp đẽ” nhằm thuyết phục ngân hàng cấp vốn cho mình.
Việc các ngân hàng đưa ra các chỉ số định chuẩn cho các lĩnh vực sản
xuất kinh doanh khác nhau không giống nhau là phù hợp. Do đặc thù của mỗi
ngành kinh doanh mà tỷ suất lợi nhuận, cơ cấu nguồn vốn, cơ cấu tài sản của các
doanh nghiệp trong mỗi ngành không giống nhau. Chẳng hạn khả năng thanh
toán ngắn hạn và khả năng thanh toán nhanh của các doanh nghiệp ngành xây
dựng thường thấp hơn so với doanh nghiệp trong các ngành khác,…
Tuy nhiên, trong nhóm chỉ tiêu tài chính về đòn cân nợ của doanh nghiệp
thì NHNN&PTNT và NHCT đưa ra hai chỉ tiêu là nợ phải trả/tổng tài sản và nợ
phải trả/vốn chủ sở hữu, hai chỉ tiêu này về bản chất là giống nhau, nó phản ánh
cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp. Như vậy, chỉ cần đưa vào hệ thống tiêu chí
66
66
đánh giá một trong hai chỉ tiêu trên là đủ. Ở nhóm chỉ tiêu này NHĐT&PT chỉ đưa
ra một chỉ tiêu là hệ số tự tài trợ (vốn chỉ sở hữu/tổng tài sản), như vậy là hợp lý.
Trong khi nợ quá hạn được NHNN&PTNT và NHCT xếp vào nhóm các
chỉ tiêu tài chính (tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ ngân hàng) thì NHĐT&PT lại xếp
vào nhóm các chỉ tiêu phi tài chính, nếu doanh nghiệp có phát sinh nợ quá hạn
thì bị điểm 0, nếu không có nợ quá hạn được 5 điểm. Cách cho điểm như vậy
theo quan điểm của tôi là không thật sự hợp lý. Bởi vì chẳng hạn vào một thời
điểm nào đó, do những yếu tố khách quan mà doanh nghiệp không trả được nợ
đến hạn thì sẽ bị cho điểm 0, trong khi lịch sử chi trả của doanh nghiệp là rất tốt
và nguyên nhân dẫn đến doanh nghiệp không trả được nợ là nguyên nhân có
tính khách quan. Đối với tiêu chí này, NHĐT&PT nên sử dụng tiêu chí giống
như NHNN&PTNT và NHCT.
Về thang điểm đánh giá, ở các tiêu chí 1-3 và 5-9, NHĐT&PT đưa ra
thang điểm như sau (thang điểm 5):
7) L ≥ α : 5 điểm
8) β ≤ L < α : 4 điểm
9) γ ≤ L < β : 3 điểm
10) λ ≤ L < γ : 2 điểm
11) 0 ≤ L < λ : 1 điểm
12) L < 0 : 0 điểm
Chỉ tiêu thứ 8 và 9 có thể nhận giá trị âm nhưng các chỉ tiêu còn lại không
thể có giá trị âm, việc NHĐT&PT đưa ra thang điểm quy đổi nếu L < 0 thì doanh
nghiệp được 0 điểm ở tiêu chí này là bất hợp lý. Vì vậy, cần phải bỏ điểm quy
đổi này. Thang điểm quy đổi cần được quy định lại như sau:
6) L ≥ α : 5 điểm
7) β ≤ L < α : 4 điểm
67
67
8) γ ≤ L < β : 3 điểm
9) λ ≤ L < γ : 2 điểm
10) L < λ : 1 điểm
Thang điểm của NHNN&PTNT và NHCT đưa ra 5 mức điểm quy đổi là
100, 80, 60, 40, 20, với các chỉ tiêu không nhận giá trị âm thì hợp lý nhưng với
các chỉ tiêu có thể nhận giá trị âm (Tổng thu nhập trước thuế/doanh thu, Tổng thu
nhập trước thuế/tổng tài sản, Tổng thu nhập trước thuế/nguồn vốn chủ sở hữu) thì
nên bổ sung mức điểm 0 khi các chỉ tiêu này nhận giá trị ≤ 0.
Tiêu chuẩn thứ 9 trong nhóm tiêu chí tình hình và uy tín giao dịch với
ngân hàng có sự khác biệt giữa NHNN&PTNT và NHCT
Bảng điểm quy đổi của NHNN&PTNT như sau:
STT Điểm chuẩn 20 16 12 8 4
9 Số dư tiền gửi
trung bình hàng
tháng tại ngân
hàng cho vay
> 300 tỷ
VND
100-300
tỷ
50-100 tỷ 15-50 tỷ <15 tỷ
Bảng điểm quy đổi của NHCT như sau:
STT Điểm chuẩn 20 16 12 8 4
9 Số dư tiền gửi
trung bình tháng
tại ngân hàng
cho vay
> 100 tỷ
VND
60-100 tỷ 30-60 tỷ 10-30 tỷ <10 tỷ
Đây là quy định chung áp dụng cho toàn bộ hệ thống NHNN&PTNT cũng
như NHCT. Tuy nhiên, do đặc thù của địa phương Lâm Đồng chủ yếu là các
doanh nghiệp vừa, nhỏ và thậm chí rất nhỏ hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực
nông nghiệp, dịch vụ và thương mại (trừ một vài doanh nghiệp nhà nước có quy
mô tương đối lớn), do đó nếu áp dụng theo đúng chuẩn chung thì hầu hết chỉ đạt
68
68
được mức điểm tối thiểu là 4. Vì vậy, cần xem xét điều kiện thực tế dựa trên các
số liệu thống kê để điều chỉnh giảm các mức chuẩn nói trên cho phù hợp với đặc
thù của địa phương.
Thang điểm tối đa của NHNN&PTNT và NHCT là 100, trong nhóm các
tiêu chí phi tài chính có 5 nhóm nhỏ gồm: lưu chuyển tiền tệ; năng lực và
kinh nghiệm quản lý; tình hình và uy tín trong giao dịch với ngân hàng; môi
trường kinh doanh và các đặc điểm hoạt động khác. Mỗi một nhóm nhỏ sẽ có
5 chỉ tiêu để đánh giá, điểm tối đa của mỗi chỉ tiêu là 20. Tuy nhiên, trong
nhóm tiêu chí tình hình và uy tín giao dịch với ngân hàng thì NHNN&PTNT
có 9 chỉ tiêu và NHCT có 10 chỉ tiêu, nếu một doanh nghiệp đạt điểm tối đa
ở tất cả các chỉ tiêu thì sẽ được tương ứng là 180 điểm quy đổi (đối với
NHNN&PTNT) và 200 điểm quy đổi (NHCT). Rõ ràng đây là điểm bất hợp
lý trong quá trình xây dựng hệ thống thang điểm đánh giá của NHNN&PTNT
và NHCT. Hai ngân hàng này cần xem xét để điều chỉnh lại thang điểm của
nhóm này. Như đã trình bày ở phần trước, hiện NHNN&PTNT và NHCT chi
nhánh tỉnh Lâm Đồng chưa triển khai hệ thống chấm điểm xếp hạng doanh
nghiệp mà chỉ đang trong giai đoạn chuẩn bị, có lẽ vì thế mà họ chưa phát
hiện ra điểm bất hợp lý này.
Hệ thống các tiêu chí phi tài chính của NHĐT&PT tương đối đơn giản và
sơ sài. Bên cạnh đó thì NHĐT&PT còn sử dụng thêm hệ thống điểm thưởng và
điểm phạt. Theo quan điểm cá nhân thì NHĐT&PT không nên sử dụng điểm
thưởng, phạt mà nên đưa toàn bộ các chỉ tiêu đóvào hệ thống có tính chuẩn mực,
đồng thời cũng cần bổ sung thêm các tiêu chí phi tài chính. Thực sự thì hệ thống
chấm điểm tín dụng xếp hạng doanh nghiệp của NHĐT&PT dễ áp dụng nhưng
điểm hạn chế là khá đơn giản, không phản ánh đầy đủ mức độ rủi ro tín dụng
của doanh nghiệp.
69
69
3.2. Về trọng số của các tiêu chí và các chỉ tiêu đánh giá
Theo phương pháp tính điểm của NHĐT&PT thì tất cả các chỉ tiêu có
trọng số như nhau, tức là mọi chỉ tiêu đều có ý nghĩa quan trọng (hoặc kém quan
trọng) như nhau trong quyết định xếp hạng doanh nghiệp. Đây là điều không
thực tế, vì trong số các chỉ tiêu mà ngân hàng đưa vào đánh giá sẽ có những chỉ
tiêu có ý nghĩa quan trọng hơn so với chỉ tiêu khác và như vậy thì trọng số của
các chỉ tiêu này phải khác nhau. Đây là điểm yếu của hệ thống chấm điểm tín
dụng của NHĐT&PT. Ngân hàng cần phải xem xét để điều chỉnh lại trọng số
cho hệ thống chấm điểm này. Điểm mạnh của hệ thống chấm điểm tín dụng của
NHĐT&PT cũng xuất phát từ chính điểm yếu của ngân hàng này, đó là tính đơn
giản, dễ sử dụng. Tuy nhiên, việc xây dựng một mô hình để áp dụng vào thực
tiễn đòi hỏi phải cân nhắc giữa tính phức tạp và tính thực tiễn của nó. Một mô
hình quá phức tạp để hiểu và thực hiện sẽ khó thành công nhưng ngược lại, một
mô hình đơn giản, dễ sử dụng nhưng không phản ánh được tương đối đầy đủ thực
tế cũng sẽ không có nhiều ý nghĩa thực tiễn. Qua thăm dò một số cán bộ tín
dụng tại ngân hàng này thì “có vẻ” như họ cũng không “tin tưởng” lắm vào hệ
thống chấm điểm này. Việc chấm điểm xếp hạng doanh nghiệp chủ yếu chỉ để
tham khảo, theo cách nói của họ thì trọng số của bảng điểm xếp hạng này trong
quyết định cấp tín dụng chiếm khoảng 10%, tức là rất ít có ý nghĩa.
Hệ thống chấm điểm xếp hạng doanh nghiệp của NHNN&PTNT và
NHCT có tính “chuyên nghiệp” hơn với hệ thống các trọng số khá chi tiết và
đầy đủ.
Thứ nhất, trọng số được tính cho từng chỉ tiêu tài chính trong nhóm tiêu
chính tài chính (một số chỉ tiêu có trọng số 8%, một số có trọng số là 10%). Tuy
nhiên, như đã nhận xét ở phần trên, tiêu chí nợ phải trả/tổng tài sản và nợ phải
trả/vốn chủ sở hữu về bản chất là giống nhau, không cần thiết phải sử dụng cả
70
70
hai cùng một lúc, nhưng trong bảng gán trọng số, mỗi chỉ tiêu vẫn có trọng số là
10%, trong khi đó thì chỉ tiêu khả năng thanh toán ngắn hạn và chỉ tiêu thanh
toán nhanh chỉ có trọng số là 8%. Ngân hàng cần xem xét để điều chỉnh lại
trọng số các tiêu chí này.
Thứ hai, trong nhóm các tiêu chí phi tài chính, trọng số áp dụng cho mỗi
nhóm có phân biệt giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
nhau (DNNN, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp ĐTNN). Sự khác
nhau là không đáng kể, do đó có thể không cần phân biệt để giảm bớt sự phức
tạp. Hơn nữa, trong thời gian tới, khi môi trường đầu tư kinh doanh của các
doanh nghiệp trở nên có sự tương đồng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế
thì sự phân biệt như trên càng không cần thiết.
Thứ ba, sau khi đã chấm điểm cho tất cả các chỉ tiêu tài chính và phi tài
chính, cán bộ tín dụng tiến hành xác định điểm tổng hợp. Để tính điểm tổng hợp
phải dựa trên bảng trọng số của nhóm chỉ tiêu tài chính và phi tài chính. NHCT
đưa ra trọng số áp dụng có sự khác nhau giữa các doanh nghiệp có báo cáo tài
chính được kiểm toán và không được kiểm toán (bảng 22):
Bảng 14: Trọng số của các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính (NHCT)
Thông tin tài chính
không được kiểm toán
Thông tin tài chính
được kiểm toán
Các chỉ số tài chính 40% 55%
Các chỉ số phi tài chính 60% 45%
(Nguồn: Sổ tay tín dụng của Ngân hàng công thương Việt Nam, 2004)
Khi các thông tin tài chính được kiểm toán thì trọng số của các tiêu chí tài
chính sẽ cao hơn so với khi không được kiểm toán là hợp lý vì khi được kiểm
toán thì các số liệu tài chính sẽ đáng tin cậy hơn.
NHNN&PTNT áp dụng trọng số có thêm sự phân biệt thành phần kinh tế:
71
71
Bảng 13: Trọng số của các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính (NHNN&PTNT)
Thông tin tài chính
không được kiểm toán
Thông tin tài chính
được kiểm toán
DNNN
DN ngoài
quốc doanh
DN
ĐTNN
DNNN
DN ngoài
quốc doanh
DN
ĐTNN
Các chỉ số tài chính 25% 35% 45% 35% 45% 55%
Các chỉ số phi tài chính 75% 65% 55% 65% 55% 45%
(Nguồn: Sổ tay tín dụng sử dụng cho toàn hệ thống ngân hàng NN&PTNT Việt Nam, tháng 7/04)
Theo bảng trọng số trên thì số liệu tài chính kế toán của các DNNN là
kém tin cậy nhất, phản ánh không chính xác nhất tình hình tài chính của doanh
nghiệp, sau đó đến doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cuối cùng là các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài. Ở một chừng mực nào đó thì sự phân biệt như trên
trong thực tế là phù hợp và chấp nhận được. Tuy nhiên, khi các doanh nghiệp
Việt Nam dần dần phải áp dụng các chuẩn mực tài chính kế toán theo thông lệ
quốc tế thì sự phân biệt trên cũng cần được xoá bỏ.
3.3. Một số đề xuất khác
Về mặt kỹ thuật thì hiện nay hệ thống chấm điểm tín dụng của
NHĐT&PT được xây dựng trên chương trình Excel, ưu điểm của nó là đơn giản
và linh hoạt nhưng nhược điểm là không tương thích với hệ thống phần mềm
hiện ngân hàng này đang sử dụng, do đó không tận dụng được cơ sở dữ liệu sẵn
có cũng như dữ liệu và kết quả chấm điểm tín dụng không cập nhật được vào cơ
sở dữ liệu chung. Vì vậy, ngân hàng cần đầu tư xây dựng phần mềm chấm điểm
tín dụng tương thích với phần mềm đang sử dụng trong toàn hệ thống.
NHNN&PTNT và NHCT cần nhanh chóng triển khai hệ thống chấm điểm
tín dụng xếp hạng doanh nghiệp vì hiện nay hai ngân hàng này chưa triển khai
trong khi văn bản được ban hành từ năm 2004; bước đầu có thể chấp nhận kết
quả xếp hạng có tính chất tham khảo để chuẩn bị cho giai đoạn hoàn thiện và áp
72
72
dụng toàn diện hệ thống này. NHNN&PTNT Việt Nam và NHCT Việt Nam cần
chỉ đạo quyết liệt và hỗ trợ cho chi nhánh của mình tại địa phương Lâm Đồng
tiến hành.
Về nghiệp vụ, để có thể thiết lập một hệ thống chấm điểm tín dụng hiệu
quả cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban có liên quan như phòng
công nghệ thông tin, phòng nghiệp vụ phân tích tín dụng, phòng chính sách,… Có
như vậy thì quá trình thu thập thông tin đầu vào, xử lý số, dữ liệu và sử dụng các
kết quả phân tích mới có tính toàn diện và tính khả thi cao.
Ngân hàng cần nhanh chóng đào tạo được đội ngũ chuyên viên tư vấn
chuyên nghiệp, tinh thông nghiệp vụ ngân hàng và hiểu biết về phân tích tài
chính doanh nghiệp để hỗ trợ khách hàng trong việc thiết lập hệ thống báo cáo
tài chính đầy đủ, chính xác, tư vấn khách hàng trong việc xây dựng phương án,
kế hoạch kinh doanh.
Có thể rằng, việc thực hiện chấm điểm tín dụng xếp hạng doanh nghiệp
đối với các ngân hàng thương mại trong nước còn khá mới mẻ. Tuy nhiên, với ý
nghĩa hỗ trợ cho công tác tín dụng, nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế
rủi ro và góp phần nâng cao khả năng cạnh cho ngân hàng phù hợp với các
thông lệ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 46877.pdf