Nằm ở phần cuối của lãnh thổ Việt Nam thuộc khu vực hạ lưu sông Cửu Long, với một địa bàn 13 tỉnh gồm: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, có diện tích tự nhiên là 3.956.900 ha, dân số trên 16 triệu người, chiếm 12% diện tích và 21% dân số cả nước, hàng năm đóng góp trên 80% sản lượng gạo và 60% sản lượng thủy sản để xuất khẩu. Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ được đánh giá là một vùng đất trù phú, màu mỡ, nhiều tài nguyên, là vùng đồng bằng lớn nhất Việt Nam, được thiên nhiên ưu ái dành cho nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, mà còn được xem như là một vùng kinh tế có vị trí và vai trò chiến lược trong nền kinh tế nước ta nhất là trong sản xuất nông nghiệp, góp phần quan trọng trong đảm bảo an ninh lương thực không chỉ cho quốc gia, mà còn cho xuất khẩu.
Tuy nhiên, đồng bằng sông Cửu Long cũng là vùng đất phải chịu nhiều thiên tai lũ lụt có tính chu kỳ hàng năm theo kiểu 6 tháng mùa khô, 6 tháng mùa nước. Chính lũ lụt là điều kiện ưu đãi của thiên nhiên giúp cho đồng bằng sông Cửu Long thêm màu mỡ, trù phú thông qua tác dụng tháo chua, rửa phèn, bồi đắp phù sa, tạo lợi thế riêng có về khai thác và nuôi trồng thủy sản Đồng thời cũng chính lũ lụt lại là nguyên nhân chính gây nhiều thiệt hại về người và của, tàn phá cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Bên cạnh đó, do đặc thù về tự nhiên, đồng bằng sông Cửu Long có hệ thống sông ngòi chằng chịt, vừa có tác dụng đưa nước vào đồng, phục vụ sinh hoạt và lưu thông lại vừa có tác dụng thoát lũ nên không giống như vùng đồng bằng sông Hồng là đắp đê chống lũ triệt để, vùng đồng bằng sông Cửu Long phải chọn giải pháp là sống chung với lũ. Sống chung với lũ là một hiện tượng tự nhiên, xã hội đã và đang được cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long tiếp nhận trong suốt quá trình hình thành và phát triển của vùng đất này. Từ chỗ sống chung với lũ một cách thụ động, con người ngày càng hiểu thêm về lũ, nắm bắt được nhiều hơn những quy luật của lũ để dần hạn chế đến mức thấp nhất những tác hại do lũ mang lại cũng như khai thác tối đa những lợi ích mà lũ mang lại, tiến dần đến chủ động sống chung với lũ, kiểm soát một cách hiệu quả hiện tượng tự nhiên này.
An Giang là tỉnh đầu nguồn, có toàn bộ diện tích nằm trong vùng lũ và phải chịu ảnh hưởng của lũ lâu dài và nặng nề nhất. Thời gian chịu lũ kéo dài khoảng 6 tháng trong năm nên vấn đề được đặt ra là làm thế nào để khai thác một cách có hiệu quả nhất những công trình, cơ sở hạ tầng kiểm soát lũ đã được đầu tư phục vụ cho việc chủ động sống chung với lũ, khai thác tối đa những lợi thế của lũ cũng như trong phát triển kinh tế - xã hội, hạn chế thấp nhất những thiệt hại do lũ mang lại.
Quyết định 99/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 9/2/1996 về định hướng dài hạn và kế hoạch 5 năm 1996-2000 đối với việc phát triển thủy lợi, giao thông và xây dựng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long, cho quá trình chủ động sống chung với lũ. Song quá trình này cũng đặt ra nhiều vấn đề mới cần phải nghiên cứu như: xây dựng các cụm tuyến dân cư vượt lũ nhằm đảm bảo an toàn tính mạng, tài sản của nhân dân trong mùa lũ nhưng cũng làm thay đổi phong tục, tập quán, cách sống của nhân dân; xây dựng đê bao chống lũ kết hợp với phát triển đường giao thông nông thôn nhưng cũng ngăn không cho nước tràn đồng, có thể làm tăng mực nước lũ trên các dòng chính.
Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề: "Những vấn đề đặt ra và các giải pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi "
là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc chủ động sống chung với lũ, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn An Giang. Qua đó, tổng kết kinh nghiệm và góp phần thúc đẩy quá trình khai thác lợi thế mùa nước nổi của người dân vùng lũ bao đời nay từ tự phát lên tự giác dưới sự định hướng và hỗ trợ của Nhà nước.
108 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Những vấn đề đặt ra và các giải pháp nhằm phát triển kinh tế - Xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nằm ở phần cuối của lãnh thổ Việt Nam thuộc khu vực hạ lưu sông Cửu Long, với một địa bàn 13 tỉnh gồm: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, có diện tích tự nhiên là 3.956.900 ha, dân số trên 16 triệu người, chiếm 12% diện tích và 21% dân số cả nước, hàng năm đóng góp trên 80% sản lượng gạo và 60% sản lượng thủy sản để xuất khẩu. Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ được đánh giá là một vùng đất trù phú, màu mỡ, nhiều tài nguyên, là vùng đồng bằng lớn nhất Việt Nam, được thiên nhiên ưu ái dành cho nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, mà còn được xem như là một vùng kinh tế có vị trí và vai trò chiến lược trong nền kinh tế nước ta nhất là trong sản xuất nông nghiệp, góp phần quan trọng trong đảm bảo an ninh lương thực không chỉ cho quốc gia, mà còn cho xuất khẩu.
Tuy nhiên, đồng bằng sông Cửu Long cũng là vùng đất phải chịu nhiều thiên tai lũ lụt có tính chu kỳ hàng năm theo kiểu 6 tháng mùa khô, 6 tháng mùa nước. Chính lũ lụt là điều kiện ưu đãi của thiên nhiên giúp cho đồng bằng sông Cửu Long thêm màu mỡ, trù phú thông qua tác dụng tháo chua, rửa phèn, bồi đắp phù sa, tạo lợi thế riêng có về khai thác và nuôi trồng thủy sản… Đồng thời cũng chính lũ lụt lại là nguyên nhân chính gây nhiều thiệt hại về người và của, tàn phá cơ sở hạ tầng kỹ thuật…
Bên cạnh đó, do đặc thù về tự nhiên, đồng bằng sông Cửu Long có hệ thống sông ngòi chằng chịt, vừa có tác dụng đưa nước vào đồng, phục vụ sinh hoạt và lưu thông lại vừa có tác dụng thoát lũ nên không giống như vùng đồng bằng sông Hồng là đắp đê chống lũ triệt để, vùng đồng bằng sông Cửu Long phải chọn giải pháp là sống chung với lũ. Sống chung với lũ là một hiện tượng tự nhiên, xã hội đã và đang được cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long tiếp nhận trong suốt quá trình hình thành và phát triển của vùng đất này. Từ chỗ sống chung với lũ một cách thụ động, con người ngày càng hiểu thêm về lũ, nắm bắt được nhiều hơn những quy luật của lũ để dần hạn chế đến mức thấp nhất những tác hại do lũ mang lại cũng như khai thác tối đa những lợi ích mà lũ mang lại, tiến dần đến chủ động sống chung với lũ, kiểm soát một cách hiệu quả hiện tượng tự nhiên này.
An Giang là tỉnh đầu nguồn, có toàn bộ diện tích nằm trong vùng lũ và phải chịu ảnh hưởng của lũ lâu dài và nặng nề nhất. Thời gian chịu lũ kéo dài khoảng 6 tháng trong năm nên vấn đề được đặt ra là làm thế nào để khai thác một cách có hiệu quả nhất những công trình, cơ sở hạ tầng kiểm soát lũ đã được đầu tư phục vụ cho việc chủ động sống chung với lũ, khai thác tối đa những lợi thế của lũ cũng như trong phát triển kinh tế - xã hội, hạn chế thấp nhất những thiệt hại do lũ mang lại.
Quyết định 99/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 9/2/1996 về định hướng dài hạn và kế hoạch 5 năm 1996-2000 đối với việc phát triển thủy lợi, giao thông và xây dựng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long, cho quá trình chủ động sống chung với lũ. Song quá trình này cũng đặt ra nhiều vấn đề mới cần phải nghiên cứu như: xây dựng các cụm tuyến dân cư vượt lũ nhằm đảm bảo an toàn tính mạng, tài sản của nhân dân trong mùa lũ nhưng cũng làm thay đổi phong tục, tập quán, cách sống của nhân dân; xây dựng đê bao chống lũ kết hợp với phát triển đường giao thông nông thôn nhưng cũng ngăn không cho nước tràn đồng, có thể làm tăng mực nước lũ trên các dòng chính...
Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề: "Những vấn đề đặt ra và các giải pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi " là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc chủ động sống chung với lũ, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn An Giang. Qua đó, tổng kết kinh nghiệm và góp phần thúc đẩy quá trình khai thác lợi thế mùa nước nổi của người dân vùng lũ bao đời nay từ tự phát lên tự giác dưới sự định hướng và hỗ trợ của Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, việc nghiên cứu về lũ ở châu thổ sông Cửu Long đã các công trình sau:
GS.TS Nguyễn Ngọc Trân (Chủ biên): "Đồng bằng sông Cửu Long tài nguyên - môi trường - phát triển", Ủy ban Khoa học Nhà nước (Chương trình điều tra cơ bản tổng hợp vùng đồng bằng sông Cửu Long), Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh - Đồng bằng sông Cửu Long, 1990. Đây là công trình của Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước về điều tra, nghiên cứu, đánh giá tài nguyên và điều kiện thiên nhiên của đồng bằng sông Cửu Long, từ đó đưa ra những nhận định về tiềm năng nông nghiệp và những kiến nghị khoa học về sử dụng và bảo vệ tài nguyên, cung cấp các tư liệu điều tra, nghiên cứu khoa học làm luận cứ cho quy hoạch phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Nguyễn Công Bình (Chủ biên): "Đồng bằng sông Cửu Long nghiên cứu phát triển", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995. Đây là những chuyên đề khảo cứu về đồng bằng sông Cửu Long dưới góc độ các ngành khoa học về lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa, tự nhiên, môi trường, kỹ thuật, nông nghiệp.
PGS.TS Phương Ngọc Thạch: "Định hướng và một số giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng ngập lụt đồng bằng sông Cửu Long", Trung tâm Nghiên cứu kinh tế miền Nam, 1998.
PGS.TS Phương Ngọc Thạch: "Những biện pháp thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Tác giả đã phân tích đặc điểm và thực trạng kinh tế - xã hội của vùng đồng bằng sông Cửu Long, những nhân tố tác động và mối quan hệ giữa đồng bằng sông Cửu Long với các tỉnh phía Nam nhất là đối với Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm đưa nông nghiệp nông thôn đồng bằng sông Cửu Long phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
PGS.TS Đào Công Tiến (Chủ biên): "Kinh tế - xã hội và môi trường vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 và "Vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long hiện trạng và giải pháp", Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2001. Đây là đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước tiến hành điều tra nghiên cứu về vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long trên các lĩnh vực: điều kiện tự nhiên, tài nguyên và đa dạng sinh học; cơ cấu kinh tế vùng ngập lũ; hệ thống canh tác nông - lâm - ngư kết hợp; nước sạch và vệ sinh môi trường; giáo dục và dạy nghề...
Dương Văn Nhã: "Báo cáo tác động của đê bao đến kinh tế - xã hội - môi trường", chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan, An Giang, 2004. Chương trình đã điều tra và đánh giá những tác động việc thực hiện đê bao chống lũ tại một số địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long, đưa ra một số nhận định về việc thực hiện đê bao triệt để, đê bao tháng 8 và không đê bao.
Ngoài ra, còn nhiều bài viết đăng trên các báo, tạp chí, các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, địa phương. Các công trình trên đã nghiên cứu về mùa lũ ở châu thổ sông Cửu Long và vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long dưới nhiều góc độ khác nhau và đề cập đến một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, điều tra tổng hợp về kinh tế - xã hội - môi trường - văn hóa - giáo dục vùng đồng bằng sông Cửu Long, cung cấp số liệu cho công tác quy hoạch phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Hai là, đánh giá tác động và đưa ra những khuyến nghị về việc phát triển đồng bằng sông Cửu Long trong mối quan hệ với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nhất là trong mối quan hệ với Thành phố Hồ Chí Minh.
Ba là, đánh giá bước đầu ảnh hưởng của việc thực hiện chương trình đê bao chống lũ triệt để ở một số địa phương.
Bốn là, đưa ra những kiến nghị nhằm khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội - môi trường và chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long trong điều kiện chung sống với lũ.
Tuy nhiên, chưa có một đề tài nào nghiên cứu mùa lũ ở châu thổ sông Cửu Long với tư cách là một nguồn lực - nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long nói chung và trên địa bàn tỉnh An Giang nói riêng.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
Trên cơ sở phát huy hiệu quả của các công trình cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc chủ động chung sống và phát triển kinh tế - xã hội trong mùa nước nổi; nghiên cứu những lợi thế của mùa nước nổi có thể khai thác để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang; từ thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi, nêu lên được những vấn đề đã và đang đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang và đề xuất một số giải pháp cơ bản để giải quyết những vấn đề đó.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích được tác hại và lợi thế của mùa nước nổi đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trên cơ sở có tác động của các công trình đã và đang xây dựng để chung sống trong mùa nước nổi.
- Phân tích, đánh giá những thành công bước đầu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi; những tác động của phát triển kinh tế - xã hội trong mùa nước nổi đối với phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang.
- Xác định được những vấn đề đã và đang đặt ra cũng như đề xuất những giải pháp cơ bản để giải quyết những vấn đề đó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề đã và đang đặt ra cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang.
Phạm vi nghiên cứu là địa bàn tỉnh An Giang, tuy nhiên trong một chừng mực nhất định, luận văn có đề cập đến những tác động chung của mùa nước nổi đối với đồng bằng sông Cửu Long. Thời gian nghiên cứu khi có chủ trương chung sống với lũ từ năm 2000 đến nay. Trong quá trình nghiên cứu, một số dữ liệu phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi chỉ có từ 2002 đến nay do nguyên nhân khách quan là những chương trình đó được triển khai trong thực tiễn từ 2002.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng quan điểm cơ bản và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghị quyết và chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước có liên quan đến phát triển nông nghiệp nông thôn nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Tham khảo và tiếp thu có chọn lọc các kết quả nghiên cứu khác có liên quan đến đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ những lợi thế tự nhiên trong trong mùa nước nổi có tác động tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long nói chung và An Giang nói riêng.
- Khái quát những vấn đề cấp thiết đang đặt ra đối với phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu để giải quyết những vấn đề được đặt ra để phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
LỢI THẾ VÀ HẠN CHẾ CỦA MÙA NƯỚC NỔI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở AN GIANG
1.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1.1. Quan niệm mùa nước nổi
Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích tự nhiên là 3.956.900 ha, được hình thành từ phù sa của phần hạ lưu vực sông Mêkông. Sông Mêkông dài 4.200 km, có diện tích lưu vực 795.000 km2, chảy qua Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Phần hạ lưu chảy vào Việt Nam theo hai nhánh chính là sông Tiền và sông Hậu, chảy ra biển theo 9 cửa là: cửa Tiểu, cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiên, cửa Cung Hầu, cửa Đình An, cửa Bát Xác và cửa Tranh Đề, nên đoạn sông Mêkông chảy vào Việt Nam được gọi là sông Cửu Long và đồng bằng sông Cửu Long cũng được gọi theo tên sông.
Là một vùng đất trù phú, được thiên nhiên ưu đãi với nhiều lợi thế để phát triển nhưng đồng bằng sông Cửu Long cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của lũ lụt. Hàng năm, vào khoảng tháng 6 đến tháng 12, nước từ sông chính, theo các nhánh phụ và hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt của sông Cửu Long chảy vào đồng (người dân thường gọi là nước tràn đồng), gây ngập trên một diện tích rộng khoảng 1,87 triệu ha. Phần diện tích ngập này (còn được gọi chung là: vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long) nằm trong diện tích của 9 tỉnh là: An Giang, Bến Tre, Cần Thơ, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long. An Giang là một trong ba tỉnh có toàn bộ diện tích tự nhiên nằm trong vùng ngập lũ.
Vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long được chia thành 4 tiểu vùng là: vùng Tứ giác Long Xuyên, vùng Đồng Tháp Mười, vùng Tây sông Hậu và vùng giữa sông Tiền và sông Hậu. Vùng Tứ giác Long Xuyên và vùng Tây sông Hậu có địa hình thấp dần về phía vịnh Thái Lan, có dạng ngập lũ hở. Vùng Đồng Tháp Mười được bao bọc bởi các vùng đất cao nên có dạng ngập lũ kín. Vùng giữa sông Tiền và sông Hậu có những vùng đất cao ven dòng sông, trũng ở giữa, có dạng ngập lũ lòng máng.
Mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long có những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long kéo dài khoảng 6 tháng, là hiện tượng tự nhiên, có chu kỳ thường xuyên hàng năm, không xuất hiện bất thình lình, đột ngột. Thường bắt đầu từ cuối tháng 6 và kết thúc vào tháng 12 hàng năm, lúc này cũng chính là mùa mưa ở châu thổ sông Cửu Long. Ta có thể tạm chia mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long thành ba giai đoạn: giai đoạn đầu mùa lũ là lúc nước bắt đầu tràn từ thượng nguồn về các vùng trũng thường tính từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 8; giai đoạn cao điểm lũ là giai đoạn có đỉnh lũ lớn nhất được tính từ đầu tháng 8 đến nửa đầu tháng 10; giai đoạn nước rút là giai đoạn lũ giảm dần ở các tỉnh đầu nguồn và dồn về các tỉnh hạ lưu.
Hai là, mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long lên xuống với cường suất nhỏ, khoảng 5-7cm/ngày và kéo dài trong suốt mùa lũ. Mức độ biến động lũ giữa các năm không lớn, nguyên nhân chính là do sự điều tiết tự nhiên của Biển Hồ ở Campuchia. Vì thế mà dạng lũ ở đồng bằng sông Cửu Long là tương đối ổn định và được điều hòa một cách tự nhiên, không có hiện tượng cường suất lũ dâng cao nhanh như lũ ở miền Trung và miền Bắc. Tuy nhiên, do địa hình đồng bằng sông Cửu Long tương đối bằng phẳng nên chỉ cần đỉnh lũ tăng thêm vài chục cm là mức độ ngập lũ tăng một cách đáng kể. Đối với đồng bằng sông Cửu Long, việc xác định lũ lớn hay nhỏ không phụ thuộc vào cường độ lũ, lưu lượng, tổng lượng mà yếu tố quan trọng là dựa vào mực nước. Theo phân cấp của Tổng cục Khí tượng Thủy văn, mực nước trên sông Tiền tại Tân Châu thấp hơn 3,83 m là lũ nhỏ, từ 3,83 m đến 4,83 m là lũ trung bình và trên 4,83 m là lũ lớn.
Ba là, lũ ở đồng bằng sông Cửu Long thường là lũ một đỉnh, đạt lớn nhất vào khoảng từ cuối tháng 9 đến nửa đầu tháng 10. Tháng 8 thường xuất hiện một "đỉnh phụ", bởi sau đỉnh này, vào đầu tháng 9, lũ hoặc bị hạ thấp đôi chút hoặc nằm ngang hay tăng chậm hơn so với thời kỳ trước và sau đó. Đôi khi đỉnh lũ này lại cao hơn đỉnh lũ chính tháng 10 (lũ năm 1978, 1991).
Bốn là, không chỉ chảy theo các nhánh sông chính, lũ còn tràn vào đồng bằng sông Cửu Long bằng cách tràn qua và lấp đầy các khu trũng thấp dọc theo biên giới (nhất là ở hai vùng ngập chính Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên). Diện tích ngập lũ khoảng 2 triệu ha, chiếm khoảng 2,5% diện tích lưu vực sông Mêkông nhưng phải gánh chịu tổng lượng lũ khoảng 400 tỷ m3 của toàn lưu vực đổ về. Trong đó, lượng theo các sông chính khoảng 320 tỷ m3, còn lại thì tràn đồng và theo hệ thống kênh rạch đổ ra sông chính. "Trong các trận lũ lớn, lượng nước lũ theo dòng chính chiếm khoảng 83,2 - 90,86% và tràn đồng khoảng 9,14 - 16,8%. Nước lũ tràn đồng là tác nhân chính gây ngập lụt cho vùng trũng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên" [47, tr. 25].
Có nhiều nguyên nhân làm tác động đến mùa lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long như: triều cường của thủy triều biển Đông, mùa mưa hàng năm, lũ thượng nguồn, chế độ mưa nội đồng, sự điều tiết của Biển Hồ, tác động khai phá thiên nhiên của con người... Trong đó, tác nhân chính tạo nên tính đặc trưng của mùa lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long là: do địa hình đặc trưng của lưu vực sông Mêkông và lượng mưa hàng năm.
Khởi nguồn từ cao nguyên Tây Tạng của Trung Quốc, đi qua các nước Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia vào Việt Nam và chảy ra biển Đông. Lưu vực sông MêKông có diện tích rộng (khoảng 795.000 km2), kéo dài (khoảng 4.200 km), trên một địa hình phức tạp có nhiều đồi núi cao, bị chia cắt bởi các thung lũng sông và thấp dần về phía hạ lưu. Lượng mưa bình quân toàn lưu vực khoảng 1.600 mm (có nhiều nơi có lượng mưa cao như: cao nguyên Boloven - Lào là 3.000 mm, Tây Trường Sơn là 2.000 - 3.000 mm), phân phối không đồng đều giữa các vùng đã tạo nên sự tập trung và tích tụ nước không đồng đều giữa các vùng làm cho lượng nước đổ về hạ lưu không ồ ạt nhưng kéo dài trong suốt mùa mưa. Kết hợp với lượng mưa tại chỗ, hai nguyên nhân trên đã tạo nên tính đặc trưng của mùa lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long là tính chu kỳ, tốc độ chậm, tràn trên một diện rộng, không đột ngột, nhanh, mạnh như lũ ở miền Trung và miền Bắc. Nói một cách khác, đối với mùa lũ ở vùng châu thổ sông Cửu Long, con người có thể dự đoán một cách tương đối chính xác thời điểm lũ về, thời điểm lũ lớn nhất, thời điểm lũ rút… Tóm lại là nắm được quy luật hoạt động cơ bản nhất của lũ, các nhân tố còn lại chỉ có tác động làm cho lũ lớn hay nhỏ mà thôi.
Với những đặc trưng riêng có như trên của mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long ta cần phải có một tên gọi vừa thể hiện được đặc trưng đó, vừa thể hiện được tính lạc quan của việc chung sống trong mùa lũ mà cư dân vùng sông nước đã quen sống bao đời nay.
Trên các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay, từ lũ, lụt thường được dùng để chỉ mùa lũ chung cho các loại hình lũ, chỉ khác nhau là có thêm tên địa danh để phân biệt như: lũ ở sông Hồng, lũ ở miền Trung, lũ ở đồng bằng sông Cửu Long…
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì:
Lũ (dt): "Hiện tượng nước dâng cao đầu nguồn, dồn vào dòng chảy, thường là rất mạnh, trong thời gian tương đối ngắn" [70, tr. 1055].
Lụt (dt): "Hiện tượng nước dâng cao tràn ngập cả một vùng rộng lớn do mưa lũ gây ra" [70, tr. 1066].
Cả hai khái niệm trên chỉ diễn tả được những tính chất chung nhất của lũ lụt nhưng không thể hiện được những đặc trưng cơ bản của mùa lũ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Theo PGS.TS Trần Thanh Xuân thì:
Thuật ngữ lũ chỉ hiện tượng nước sông dâng cao trong một khoảng thời gian nhất định, sau đó giảm dần. Trong mùa lũ, những trận mưa liên tiếp trên lưu vực sông (vùng hứng nước mưa và sinh dòng chảy) làm cho nước sông cũng từng đợt nối tiếp nhau dâng cao, tạo ra những trận lũ trong sông suối. Khi lũ lớn, nước lũ tràn qua bờ sông (đê) chảy vào những chỗ trũng và gây ra ngập lụt trên một diện rộng [69, tr. 7].
Các cách gọi như trên là đúng nhưng chưa đủ, để chỉ lũ ở đồng bằng sông Cửu Long thì chúng ta phải dùng cả cụm từ là "mùa lũ (lũ) ở châu thổ sông Cửu Long". Đây là cách gọi đúng và đủ nhưng mang nặng tính bi quan, thiên về những tác hại do lũ gây ra (lũ, lụt được ông cha ta từ xưa xếp vào một trong những thiên tai nguy hiểm nhất), bao hàm những ý nghĩa tiêu cực của những thiệt hại về tài sản, tính mạng không bao hàm được tính lạc quan trong chung sống với lũ.
Vì thế, ta không thể dùng khái niệm lũ, lụt, hay lũ lụt để gọi chung cho mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long.
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì:
Mùa nước nổi: Mùa lũ ở châu thổ sông Cửu Long do nước sông Tiền và Hậu tràn bờ, làm ngập cả châu thổ với các độ sâu khác nhau và thời gian dài ngắn khác nhau khiến chỉ cấy được một vụ lúa nổi nhưng có tác dụng rửa mặn, xổ phèn, cả châu thổ có nước ngọt đưa vào một lượng phù sa đáng kể [70, tr. 1049].
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì:
Mùa nước nổi: mùa lũ ở châu thổ sông Cửu Long. Mùa nước nổi đưa về một khối lượng nước ngọt lớn, cùng với phù sa chi phối toàn bộ hoạt động nông nghiệp, chế độ canh tác, các hệ thống sản xuất ở châu thổ sông Cửu Long. Cảnh quan của châu thổ trong mùa nước nổi có những nét đặc trưng, cũng là mùa khai thác các loài thủy sản [25, tr. 959].
Như vậy, cách gọi mùa nước nổi là cách gọi vừa ngắn, diễn tả một cách đầy đủ nhất những đặc trưng riêng có của lũ ở đồng bằng sông Cửu Long vừa thể hiện tính lạc quan trong quá trình chung sống và chinh phục vùng đất này của cư dân nơi dây.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng vùng đất Nam bộ nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng không phân biệt thành bốn mùa xuân, hạ, thu, đông rõ rệt hay có nắng nóng, mưa dầm, gió bấc như miền Bắc mà chỉ có hai mùa là mùa nắng và mùa mưa (tương ứng là mùa khô và mùa nước). Dân gian đồng bằng sông Cửu Long thường dùng câu nói "sáu tháng đạp đất đồng khô, nửa năm đi trên mặt nước" để hình dung một cách đơn giản về khí hậu của vùng đất mà cha ông đã khai phá. Và khi mùa nước nổi về, cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long lại tất bật chuẩn bị cho cuộc sống "đi trên mặt nước", tránh những tai họa, khai thác những nguồn lợi mà thiên nhiên mùa nước nổi mang lại cho họ; vẫn sinh sống, mua bán, trao đổi những vật phẩm khai thác được cũng như những hàng hóa thiết yếu cho cuộc sống...
Mùa nước nổi là cách gọi truyền thống từ bao đời nay của người dân vùng sông nước, là cách gọi mang đầy tính lạc quan của những cư dân khai phá và sinh sống trên vùng đất này, thể hiện tinh thần chủ động chung sống với lũ theo hướng khai thác mùa lũ như là một trong những lợi thế để phát triển, từ đó tác động tích cực đến tư duy và các hoạt động cần thiết khác để cùng chung sống trong mùa nước nổi như: chủ động điều chỉnh lịch mùa vụ để hạn chế thấp nhất những thiệt hại do mùa nước nổi gây ra cũng như khai thác tốt nhất những lợi thế mà mùa nước nổi mang lại cho đồng bằng sông Cửu Long để xóa đói, giảm nghèo; triển khai các mô hình kinh tế hiệu quả cao trong mùa nước nổi để phát triển kinh tế...
Chính vì thế, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả sẽ dùng khái niệm mùa nước nổi để chỉ mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long và cũng để thể hiện rõ mục đích nghiên cứu chính của luận văn là phân tích những lợi thế của mùa nước nổi trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang.
1.1.2. Một số khái niệm thường dùng trong phòng chống lũ lụt
Có nhiều khái niệm được dùng trong phòng chống lũ lụt, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng ta chỉ tập trung tìm hiểu một số khái niệm thường dùng trong phòng chống lũ lụt có liên quan như:
Điều tiết lũ là sử dụng các dung tích lớn như các hồ chứa, khu trũng... để phân bố lại dòng chảy lũ theo thời gian, tích nước khi có lũ, xã nước khi sông cạn kiệt.
Điều khiển lũ là sử dụng các biện pháp công trình như đê bao ngăn lũ, kênh thoát lũ, cống điều tiết để phân bố lại dòng chảy lũ theo không gian.
Kiểm soát lũ là khái niệm rộng hơn, trong đó chủ yếu là làm thay đổi hướng truyền lũ, thoát lũ (theo không gian), song cũng có phần phân bố lại lũ theo thời gian (như sử dụng một số dung tích trống, vùng trũng để làm chậm lũ, cắt lũ, trữ nước cuối mùa lũ [46, tr. 91].
Với cách hiểu như trên, điều tiết lũ là giải pháp phòng chống lũ theo thời gian, có tác dụng làm chậm tốc độ gia tăng của lũ trên phạm vi cả khu vực ngập; điều khiển lũ là giải pháp phòng chống lũ theo không gian, có thể làm giảm lũ ở vùng này và gia tăng lũ ở vùng khác, tránh hướng lũ vào những vùng có thể gây nhiều thiệt hại, đưa hướng lũ vào những vùng ít thiệt hại; Kiểm soát lũ là giải pháp tổng hợp của hai giải pháp điều tiết lũ và điều khiển lũ. Kiểm soát lũ là mục tiêu lâu dài không thể chỉ thực hiện trong phạm vi vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long mà phải có một chiến lược cấp vĩ mô liên quan đến các nước, nơi lưu vực sông đi qua, là cái đích cuối cùng mà các nhà hoạch định chính sách đang hướng tới. Hiện tại, các công trình phòng chống lũ ở đồng bằng sông Cửu Long mà chúng ta đang xây dựng là hệ thống những giải pháp nhằm từng bước kiểm soát lũ thông qua các kênh thoát lũ, cống, đê bao kết hợp giao thông…
Với những đặc trưng riêng có của mình, mùa nước nổi có những tác động nhất định đến phát triển kinh tế - xã hội ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long nói chung và An Giang nói riêng.
1.2. LỢI THẾ CỦA MÙA NƯỚC NỔI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.2.1. Mang một lượng phù sa lớn, màu mỡ bồi đắp cho đồng bằng sông Cửu Long
Lưu lượng trung bình của sông Cửu Long là 10.700 m3/s, cao nhất vào mùa nước nổi là 53.000 m3/s, thấp nhất vào mùa kiệt là 2.000 m3/s. Hàm lượng phù sa của sông Cửu Long không cao như hàm lượng phù sa của sông Hồng nhưng do lưu lượng dòng chảy cao, khối lượng nước lớn nên tổng khối lượng phù sa của sông Cửu Long lên đến 150 triệu tấn/năm, gấp 7 - 8 lần tổng khối lượng phù sa của sông Hồng. Một phần phù sa theo nước tràn đồng, lắng đọng và bồi đắp cho ruộng đồng; một phần theo sông chảy ra cửa sông, bồi tụ cho những vùng ven biển. Chính sự bồi lắng của phù sa đã làm cho ruộng đồng luôn trù phú, màu mỡ, tiết kiệm nhiều chi phí trong trồng trọt, năng suất cao hơn, hiệu quả cao hơn.
Quá trình chuyển tải và bồi lắng phù sa hay nói cách khác là khối lượng phù sa bồi đắp thực tế cho đồng bằng sông Cửu Long phụ thuộc nhiều vào vị trí vùng đất, các công trình kiểm soát lũ, bờ bao lũ, yếu tố dòng chảy... tuy nhiên, lượng phù sa bồi đắp cho đồng bằng sông Cửu Long hàng năm là khá cao và có chất lượng tốt hơn lớp đất cũ. "So với đất tại chỗ, phù