Một yếu tố không kém phần quan trọng trong việc gây khó khăn cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ muốn vay vốn tại ngân hàng là thời gian giải
quyết hồ sơ vay. Tại VCBHCM, định hướng của Ban Lãnh đạo là đưa ra các
quy trình nghiệp vụ rõ ràng cho từng phòng ban trong đó quy định rõ thời hạn
xử lý hồ sơ từ khi nhận đủ các hồ sơ yêu cầu đến khi đưara thông báo trả lời
cho khách hàng về quyết định có tài trợvốn hay không. Theo đó, thời gian xử
lý một hồ sơ vay ngắn hạn đối với khách hàng mới quan hệ lần đầu là không
quá 07 ngày làm việc, khách hàng đã có quan hệ là không quá 03 ngày làm
việc, và đối với hồ sơ vay trung dài hạn là 45 ngày và 30 ngày. Tuy nhiên,
việc thực hiện chưa được như mục tiêu đề ra vì cả nguyên nhân chủ quan và
khách quan. Về khách quan, thời gian kéo dài có thể do hồ sơ có những điểm
phức tạp hoặc đòi hỏi kiến thức chuyên môn sâu nên phải có thời gian tìm
hiểu và thu thập thông tin, hoặc do khách hàng không cung cấp đủ hồ sơ cần
thiết. Về chủ quan, do số lượng hồ sơ quánhiều, không đủ cánbộ phụ trách,
hoặc do trình độ nhân viên còn thiếu đồng đều, thiếu kinh nghiệm, nên việc
hướng dẫn cho khách hàng chưa đầy đủ khiến khách hàng phải đi lại nhiều
lần.
Ngay cả khi một hồ sơ đã được xét duyệt cho vay, hầu hết các DNVVN
vay vốn ngân hàng đều có thế chấp và việc công chứng tài sản thế chấp cũng
mất khá nhiều thời gian, nhấtlà đối với các tài sản hình thành từ vốn vay phải
thế chấp lại sau khi tài sản đã hình thành.
90 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 949 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Những giải pháp nhằm nâng cao hoạt động tài trợ tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Ngoại thương Chi nhánh TPHCM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ï trở thành một cơ hội và chiến lược phát triển
lâu dài của Ngân hàng. Để thực hiện được chiến lược đó, căn cứ vào thực
trạng cho vay DNVVN tại VCBHCM thời gian qua, tất yếu phải thực hiện
nhiều biện pháp nhằm cải thiện những khó khăn vướng mắc. Những biện pháp
đó không phải chỉ do VCBHCM thực hiện mà còn phải được sự hỗ trợ rất lớn
từ các ban ngành có liên quan để việc cho vay DNVVN sẽ đem lại lợi ích cho
ngân hàng nói riêng và lợi ích cho toàn xã hội nói chung.
3.1 NHỮNG KIẾN NGHỊ VỚI CÁC CƠ QUAN BAN NGÀNH:
Do thị trường tài chính trong nước còn nhỏ bé và non trẻ, tài trợ thông
qua hệ thống ngân hàng vẫn là kênh đầu tư chủ yếu cho các thành phần kinh
tế, trong đó có các DNVVN. Vì vậy, Nhà nước cần hỗ trợ nhiều hơn nữa về
mặt chính sách cho các ngân hàng và các DNVVN nhằm tiếp vốn thêm cho
loại hình doanh nghiệp này, đó là:
3.1.1 Đối với Chính phủ:
Thứ nhất, mặc dù hiện nay Chính phủ đã có Chương trình trợ giúp các
DNVVN trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực tài chính. Nhưng thực tế
chương trình này chưa có sự hướng dẫn cụ thể các hình thức ưu đãi như thế
nào. Ví dụ về việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng DNVVN, từ khi ra quyết
định đến nay vẫn chưa thực hiện được vì không phù hợp với tình hình thực tế.
Theo đó, Quỹ bảo lãnh chỉ bảo lãnh khi doanh nghiệp có tài sản đảm bảo (tối
thiểu bằng 30% giá trị khoản vay), có phương án vay hiệu quả và cũng phải
có đủ các tài liệu chứng minh năng lực pháp lý cũng như năng lực trả nợ của
doanh nghiệp. Các thủ tục này so ra với thủ tục vay vốn ngân hàng cũng
không khác bao nhiêu. Hơn nữa, với tài sản đảm bảo của doanh nghiệp, Quỹ
cũng chỉ bảo lãnh tối đa 80% phần chênh lệch giữa giá trị khoản vay và giá trị
64
tài sản thế chấp.
Do vậy, để DNVVN thực sự nhận được sự hỗ trợ của các tổ chức tín
dụng, Chính phủ cần nhanh chóng đưa ra hoặc yêu cầu các ban ngành đưa ra
những hướng dẫn cụ thể các ưu đãi tài chính và đặc biệt là các ưu đãi tín dụng
đối với các doanh nghiệp này thông qua hệ thống ngân hàng thương mại.
Đồng thời sớm vận hành Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN theo Quyết định
số 193/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư hướng dẫn số
42/2002/TT-BTC của Bộ Tài chính nhằm thực hiện tốt các biện pháp hỗ trợ
phát triển cho các DNVVN.
Thứ hai, Cho dù hệ thống tài chính của một quốc gia có phát triển đến
mức nào đi nữa thì các DNVVN vẫn gặp trở ngại khi tiếp cận các với các dịch
vụ tài chính vì DNVVN mới khởi sự đều thiếu các tài sản thế chấp và các chi
phí cố định bao gồm cả chi phí nắm bắt theo dõi và thu thập thông tin và hiệu
lực thực thi đều là những rào cản đối với các hợp đồng và giao dịch tài chính
nhỏ. Do vậy, để các đối tượng này có thể tiếp cận với tài chính chính thức,
Chính phủ cần sửa đổi những quy định về tín dụng, đặc biệt là quy định về
đảm bảo tiền vay theo hướng thông thoáng hơn, trao quyền tự quyết cho ngân
hàng nhiều hơn để tạo điều kiện cho các DNVVN có đủ các điều kiện vay vốn
ngân hàng. Cụ thể như:
- Nới rộng và cụ thể hóa các quy định về cho vay tín chấp đối với
các DNVVN: quy định cho vay tín chấp hiện nay bắt buộc doanh nghiệp hoạt
động phải có lãi hai năm liên tục, và báo cáo tài chính của các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh phải có kiểm toán. Trong khi đó các DNVVN vừa mới được
đầu tư mới hoặc mới được mở rộng sản xuất thì không thể cung cấp đủ hồ sơ
tài chính, gây khó khăn cho ngân hàng khi ra quyết định cho vay, mặc dù
phương án sản xuất kinh doanh là khả thi và có khả năng thành công cao.
Thiết nghĩ quy định về cho vay tín chấp nên cởi mở hơn theo hướng ngân hàng
được quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về quyết định cho vay tín chấp trên
cơ sở xem xét đánh giá thời gian quan hệ, uy tín trong quan hệ giao dịch ngân
hàng, có chú trọng đúng mức đến thương hiệu của DNVVN. Nhiều nước
65
(trong đó có Việt Nam) đã công nhận thương hiệu là tài sản vô hình có giá trị
bằng tiền, chính vì vậy pháp luật cần có quy định rõ ràng, cụ thể về giá trị của
thương hiệu nhằm hỗ trợ cho ngân hàng an tâm đầu tư vào các DNVVN, nâng
cao mức đóng góp của các doanh nghiệp này cho nền kinh tế nước nhà.
- Đại đa số các DNVVN có quy mô vốn khá khiêm tốn, tài sản
đảm bảo khá nhỏ so với nhu cầu tín dụng và quy mô phát triển dự án. Do vậy,
cần có những chính sách chế độ cụ thể hơn về việc nhận tài sản thế chấp cầm
cố là hàng hóa, cho vay chiết khấu, hoặc những phương thức tài trợ mới như
cầm cố hoặc bảo lãnh thương phiếu, cổ phiếu để đa dạng hóa các tài sản đảm
bảo giúp DNVVN có thêm các điều kiện tiếp cận vốn ngân hàng.
- Về các quy định về thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay.
Thứ ba, với mức độ rủi ro tín dụng cao khi đầu tư cho các DNVVN, Nhà
nước cần có chính sách rõ ràng cụ thể nhằm bảo vệ cho quyền tự chủ và tự
chịu trách nhiệm của ngân hàng, hạn chế hình sự hóa các vụ việc tranh chấp
dân sự giữa ngân hàng và khách hàng.
3.1.2 Đối với Ngân hàng nhà nước:
Thứ nhất, nhằm tạo điều kiện cho các DNVVN tiếp cận nhiều hình
thức vay vốn để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp nhất là trong việc đổi mới
công nghệ, dây chuyền sản xuất với số vốn lớn vượt quá khả năng của doanh
nghiệp (trong trường hợp này hình thức cho thuê tài chính tỏ ra rất hiệu quả)
nên cần đẩy mạnh, phát triển hoạt động cho thuê tài chính.
Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước và các Bộ ngành cần kịp thời có những
văn bản hướng dẫõn các quy định về tín dụng của Chính phủ để các ngân hàng
có điều kiện thực hiện các quy định mới một cách nhanh chóng, đúng đắn,
phát huy hiệu quả cao nhất.
Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước cần phát triển hệ thống thông tin tín dụng
một cách nhanh chóng và phong phú hơn. Đây sẽ là nguồn thông tin quan
trọng để các ngân hàng tìm hiểu thêm về các DNVVN.
66
Hiện nay việc cung cấp tín dụng ngày càng được mở rộng thì nhu cầu
thông tin càng đòi hỏi sự chính xác cao. Vì vậy, cần nâng cao hơn nữa hoạt
động của Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC). CIC được thành lập với nhiệm
vụ cung cấp thông tin cho các Tổ chức tín dụng thành viên nhưng trong thời
gian qua, CIC chỉ mới dừng lại ở việc thông báo định kỳ dư nợ của các doanh
nghiệp từng tổ chức tín dụng trên địa bàn. Do đó sắp tới cần tăng cường theo
hướng sau:
- Cung cấp thông tin chính xác, kịp thời và đầy đủ.
- Đánh giá, xếp loại doanh nghiệp dựa theo các tiêu thức: quy mô,
khả năng thanh toán, quan hệ tín dụng, hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Dự báo những biến động về kinh tế, tín dụng tiền tệ, … nhằm hỗ
trợ Tổ chức tín dụng phòng ngừa rủi ro.
- Thu nhập thêm thông tin qua các tổ chức quốc tế để phục vụ cho
các hoạt động khác.
- Tạo lập mạng thông tin trên cơ sở diện rộng, phối hợp giữa các
cơ quan thuế, cơ quan kiểm toán và UBND, đặc biệt đối với cơ quan thuế, lập
mã số nộp thuế của doanh nghiệp để ngân hàng có thể dễ dàng truy cập thông
tin.
3.1.3 Đối với các cơ quan ban ngành khác:
Thứ nhất, cải thiện luật thế chấp tài sản và thiết lập các cơ quan đăng
ký thế chấp: cần xác định loại thế chấp có thể chấp nhận được, thứ tự ưu tiên
của những người có quyền đối với tài sản thế chấp này, cơ chế thi hành và thu
hồi nợ có hiệu quả trong trường hợp người đi vay không thanh toán. Việc chấp
nhận thế chấp của người cho vay phụ thuộc vào hiệu lực thi hành: đó là triển
vọng có thể chiếm hữu tài sản này và bán nó nhanh chóng khi người đi vay
không trả được nợ để bù đắp cho khoản vay. Do vậy, tài sản đảm bảo phải
được đăng ký giao dịch đảm bảo một cách rõ ràng để người cho vay có thể an
tâm nhận tài sản làm đảm bảo.
67
Hiện nay, mặc dù Nghị định về giao dịch bảo đảm đã ra đời từ năm
2001 nhưng đến giữa năm 2002 mới bắt đầu triển khai. Tuy nhiên, đến nay, cơ
quan đăng ký giao dịch bảo đảm vẫn chỉ làm một chức năng duy nhất là đăng
ký cho các tài sản đảm bảo là động sản, còn các tài sản là bất động sản và giá
trị quyền sử dụng đất thì mới được áp dụng trong năm 2003. Do vậy, để hỗ trợ
thì :
- Đối với thế chấp bằng giá trị quyền sử dụng đất, bất động sản: cần
hoàn chỉnh các quy định về thủ tục cấp quyền sử dụng đất và quyền sở hữu
bất động sản để các DNVVN có điều kiện thế chấp một cách dễ dàng vì một
trong những điều kiện của tài sản đảm bảo là phải thuộc sở hữu của người thế
chấp hoặc bảo lãnh vay vốn (hiện nay chỉ có các doanh nghiệp thuê đất trong
khu công nghiệp là thuận tiện trong việc cấp quyền sử dụng đất, còn các
doanh nghiệp có đất thuê ngoài khu công nghiệp thì còn rất khó khăn). Đồng
thời đưa các tài sản này vào danh mục đăng ký giao dịch bảo đảm để ngân
hàng có thể yên tâm nhận tài sản làm đảm bảo. Hơn nữa, các tài sản này sau
khi đăng ký giao dịch bảo đảm thì không cần phải làm thủ tục công chứng như
trước nay vẫn áp dụng, doanh nghiệp sẽ đỡ một khoản chi phí về lệ phí công
chứng (vẫn còn khá cao so với chi phí đăng ký giao dịch bảo đảm).
- Đối với tài sản cầm cố là động sản thì gây nguy cơ thường trực đối
với người cho vay là tài sản này sẽ biến mất. Cần có các thể chế hỗ trợ quản
lý rủi ro này. Ví dụ thiết lập thứ tự ưu tiên quyền đối với tài sản thế chấp là
một phần quan trọng trong bất cứ giao dịch có bảo đảm nào. Hơn nữa để người
cho vay có thể đánh giá rủi ro trong một giao dịch cần có các ghi chép đáng
tin cậy và dễ tiếp cận về tất cả các chủ nợ có quyền đối với tài sản thế chấp.
- Để tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng, cần xác định xem tài sản
nào là tài sản mà doanh nghiệp thực sự sở hữu có giá trị và thông báo các
quyền ưu tiên đối với tài sản thế chấp tại các cơ quan đăng ký công cộng. Cơ
quan đăng ký giao dịch bảo đảm chỉ nên đòi hỏi việc thông báo về sự tồn tại
của quyền này mà không nên đòi hỏi chi tiết toàn bộ hợp đồng. Người cho vay
sẽ chịu trách nhiêm về tính hợp pháp và giá trị của thỏa thuận thế chấp này
68
chứ không phải chỉ là các phần đã đăng ký.
- Để trung tâm đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt nam hiện nay
không chỉ là một cơ quan đăng ký mà còn là tổ chức cung cấp thông tin. Trong
thời gian đầu, Nhà nước cần hỗ trợ chi phí để bỏ các khoản thuế và phí công
chứng đối với việc lập hồ sơ và truy cập thông tin và có thể mở rộng nhiều
nhà cung cấp thông tin để tránh độc quyền.
Thứ hai, lành mạnh hóa các quan hệ tài chính - tín dụng, nâng cao trình
độ quản trị: các báo cáo quyết toán của các DNVVN thường không đủ độ tin
cậy, gây nhiều khó khăn cho ngân hàng khi thẩm định. Bên cạnh đó, trình độ
và năng lực quản lý của các DNVVN tương đối yếu kém và không tương xứng
với quy mô hoạt động kinh doanh của chính mình. Để khai thông các kênh đầu
tư vốn cho DNVVN, Nhà nước cần hoàn thiện các hành lang pháp lý và đưa ra
các chính sách nhất quán và cụ thể nhằm khuyến khích các doanh nghiệp này
tự giác chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, cụ thể là cơ quan
tài chính, thuế nên hướng dẫn và quy định các DNVVN thực hiện chế độ
quyết toán và kiểm tra việc chấp hành các hoạt động kinh doanh thông qua
nộp thuế trên tinh thần tạo điều kiện thuận lợi nhất cho họ. Đồng thời Nhà
nước cũng nên hỗ trợ chi phí đào tạo và khuyến khích DNVVN tự đầu tư đúng
mức cho nguồn nhân lực của mình bằng các ưu đãi về thuế và hành chính.
Thiết nghĩ, nếu các kiến nghị nêu trên được bổ sung, việc đầu tư vào
lĩnh vực DNVVN sẽ được mở rộng hơn và tạo được một động lực phát triển
cho nền kinh tế.
3.2 MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG CHO VAY DNVVN
TẠI VCBHCM:
Để cho vay DNVVN thực sự trở thành một chiến lược phát triển của
ngân hàng trong tương lai, VCBHCM cần có những biện pháp tích cực trên cả
ba phương diện:
- Nhận thức: quán triệt nhận thức về vai trò và cơ hội của các
DNVVN ở Việt Nam, từ đó nhận thức về tầm quan trọng của việc cho vay đối
69
với nhóm doanh nghiệp này;
- Tổ chức: Tổ chức lại cơ cấu hoạt động của ngân hàng theo hướng
thuận tiện nhất cho mọi khách hàng, trong đó có bộ phận riêng phụ trách
khách hàng là DNVVN. Đồng thời xây dựng các bộ phận hỗ trợ tín dụng để
tạo điều kiện tốt nhất để cho vay với các DNVVN; và
- Chuyên môn nghiệp vụ: từ những nhận thức và sự hỗ trợ các điều
kiện tín dụng, cán bộ tín dụng phải được trang bị và trau dồi chuyên môn
nghiệp vụ để phục vụ các khách hàng là DNVVN với những đặc thù riêng của
nó một cách tốt nhất.
3.2.1. Quán triệt nhận thức về vai trò và cơ hội của các DNVVN ở Việt
Nam:
DNVVN đang ngày càng có một vị trí to lớn trong nền kinh tế của Việt
Nam. Sự phát triển của các DNVVN ngày càng lớn mạnh, góp phần không
nhỏ vào thu hút lao động, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cung của toàn
xã hội. DNVVN cũng nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước, Chính phủ, các
ngành các cấp tạo điều kiện để phát triển trong tương lai. Vì vậy, VCBHCM
mà cụ thể là mỗi nhân viên của VCBHCM cũng cần quán triệt nhận thức tầm
quan trọng của các doanh nghiệp này đối với nền kinh tế nói chung, cũng như
đối với sự phát tiển của VCBHCM nói riêng. Vì:
- Hiện nay hoạt động tín dụng đang trong cơ chế thị trường đầy cạnh
tranh thì đây là nguồn khách hàng tiềm năng giúp ngân hàng tăng đầu ra của
nguồn vốn.
- Đa dạng hóa khách hàng, đa dạng tài sản đảm bảo nhằm phân tán rủi
ro.
Hoạt động tín dụng hiện nay là trong cơ chế thị trường có cạnh tranh,
không còn thời kỳ xin cho và cũng qua rồi thời kỳ của những vụ án kinh tế có
liên quan đến ngân hàng. Trước đây khi các vụ án lừa đảo xảy ra, các chủ
kinh tế đã giải thể, ngân hàng thường là người phải đứng ra chịu quy kết trách
nhiệm, dẫn đến việc ngân hàng thắt chặt các điều kiện tín dụng, nền kinh tế
70
bị thiếu vốn, hoạt động kinh doanh bị đóng băng. Hiện nay, các cơ chế đã
thông thoáng hơn, trách nhiệm phân minh. Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước
cũng đã có những sửa đổi trong các quy định về tín dụng mới theo hướng tạo
một môi trường bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tạo thuận lợi cho
khách hàng vay, đồng thờiù trao quyền tự chủ hơn cho ngân hàng. Do vậy, cần
xóa bỏ tâm lý phân biệt khách hàng vay cũng như tâm lý ngán ngại khi cho
vay DNVVN vì sợ bị "hình sự hóa" các mối quan hệ kinh tế mà cần nhìn nhận
tầm quan trọng, khả năng phát triển của các DNVVN, để từ đó xem xét các
quyết định cho vay theo đúng nhu cầu và khả năng đáp ứng điều kiện tín dụng
của các doanh nghiệp này.
Và phải lưu ý một điều, không phải chỉ những nhân viên làm tín dụng
trong ngân hàng mới cần chú ý đến các DNVVN, mà đây phải là nhận thức
chung của toàn bộ nhân viên ngân hàng. Vì khách hàng đến với ngân hàng
không phải chỉ tiếp xúc với một Phòng Tín dụng, mà họ muốn và phải tiếp
xúc với những phòng ban khác. Nếu ở một Phòng tín dụng, khách hàng được
tiếp đón, còn gặp các phòng ban khác, họ lại trở thành những khách hàng
"nhỏ" với những thái độ chỉ dành riêng cho khách hàng nhỏ thì họ cũng sẽ
không ở lại lâu với ngân hàng cho dù các chính sách tín dụng có tốt đến đâu,
vì có thể trong một điều kiện cạnh tranh như hiện nay, họ sẽ tìm được những
sự quan tâm đầy đủ hơn tại một tổ chức tín dụng khác.
Tuy nhiên, để có được nhận thức này cho mỗi nhân viên của
VCBHCM, không phải chỉ là nêu ra những chủ trương chung của Ban Lãnh
Đạo buộc mọi người phải tuân theo mà phải có những hoạt động thiết thực để
mỗi nhân viên sẽ dần dần tự mình ý thức về vấn đề này. Cụ thể như:
- Tổ chức các buổi thi hoặc nói chuyện chuyên đề về đối tượng
khách hàng trong chiến lược phát triển của VCBHCM trong thời gian tới.
- Có những trang mục chuyên đề về DNVVN trên các tờ tạp chí
của ngân hàng.
- Thường xuyên tổ chức tiếp xúc các cuộc hội thảo về DNVVN,
trực tiếp với các DNVVN và gián tiếp qua các tổ chức hỗ trợ DNVVN để luôn
71
nắm bắt về nhu cầu và sự phát triển của các doanh nghiệp này.
3.2.2. Tổ chức và cơ cấu lại sự sắp xếp tổ chức phân công công việc
trong nội bộ ngân hàng:
Hiện nay VCBHCM đang tổ chức phân công công việc theo chức năng
của từng Phòng ban. Ngoại trừ các Phòng ban phục vụ trực tiếp cho từng
khách hàng là cá nhân, các doanh nghiệp khi tiếp xúc với ngân hàng, thường
phải qua nhiều phòng ban vì các nghiệp vụ có liên quan đến nhau. Ví dụ như
một khách hàng muốn vay tiền đồng để mua ngoại tệ thanh toán tiền nhập
khẩu hàng hóa sẽ phải liên hệ với 03 phòng ban: Phòng Tín dụng để vay tiền,
Phòng Kinh doanh ngoại tệ và cuối cùng là Phòng Nhập khẩu để thanh toán.
Chưa kể sau khi ngân hàng đã hạch toán bút toán vay tiền theo nghiệp vụ
trên, chứng từ hạch toán sẽ giao cho khách hàng tại Phòng Kế toán giao dịch.
Đó chỉ là một nghiệp vụ đơn giản đã phải đi qua nhiều bộ phận, việc này còn
có những hạn chế khác, rộng hơn đó là khi tiếp thị khách hàng. Thông thường,
do nghiệp vụ từng phòng khác nhau, mỗi phòng tự đi tiếp thị khách hàng của
mình và chỉ có thẩm quyền nhất định trong phạm vi quyền hạn và nghiệp vụ
của phòng mình. Do vậy đôi khi người đi tiếp thị lúng túng khi gặp những câu
hỏi của khách hàng về các nghiệp vụ khác vì không có thẩm quyền để quyết
định, khiến cho vị thế của ngân hàng bị giảm sút ở mức độ một người tư vấn.
Mà DNVVN, là những người ít tiếp xúc với ngân hàng, khi tiếp thị rất cần giải
thích những dịch vụ mà ngân hàng có thể hỗ trợ họ ngoài nghiệp vụ tín dụng.
Do vậy, trong tương lai có thể sắp xếp lại cơ cấu của ngân hàng theo
hướng: về nguyên tắc vẫn phải tách rời các phòng nghiệp vụ vì phải chuyên
môn hóa mới có thể hoàn thành nhanh và tốt công việc. Tuy nhiên cần thành
lập riêng một Phòng khách hàng với nhiệm vụ là phòng trực tiếp đặt quan hệ
và giao dịch với khách hàng. Những người thuộc bộ phận này phải nắm vững
chủ trương chính sách chung của ngân hàng và phải có những kiến thức tổng
quát về các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng. Lãnh đạo bộ phận tiếp thị phải
được giao quyền quyết định và những dịch vụ hoặc những ưu đãi trong một
hạn mức nhất định có thể áp dụng cho khách hàng đang tiếp thị để có thể đạt
72
hiệu quả tiếp thị cao nhất. Từ việc tạo lập được bất kỳ một mối quan hệ trên
bất kỳ nghiệp vụ nào của khách hàng với ngân hàng cũng tạo điều kiện dẫn
đến quan hệ tín dụng (nếu có) được thuận lợi hơn.
Sau khi tạo lập được mối quan hệ, khách hàng sẽ chỉ liên hệ với một
Phòng khách hàng, Phòng khách hàng sẽ chuyển chứng từ cho các bộ phận
khác làm nghiệp vụ chuyên môn thuần túy. Mọi giao dịch, thắc mắc của
khách hàng sẽ được giải quyết tại Phòng khách hàng.
Trong phòng khách hàng, có thể chia ra nhiều bộ phận phục vụ các đối
tượng khách hàng khác nhau, và DNVVN là một trong những đối tượng đó. Bộ
phận này sẽ có trách nhiệm chuyên trách đối với các DNVVN để qua đó nắm
bắt nhu cầu của DNVVN và chuyển biến cơ chế chính sách cho vay linh hoạt
phù hợp biến động thị trường.
Bên cạnh việc thành lập Phòng khách hàng để phục vụ khách hàng một
cách tốt nhất cần thành lập Phòng Hỗ trợ tín dụng với các chức năng như:
- Thu thập thông tin về việc thanh toán trong quá khứ của người đi
vay, có thể cụ thể hóa bằng cách cho điểm và lưu giữ bằng vi tính hóa để tăng
cường chất lượng thông tin về khối DNVVN:
- Thu thập các thông tin kinh tế- xã hội, pháp luật để hỗ trợ cho bộ
phận tín dụng. Hiện nay đối với các DNVVN thì có hai nhu cầu bức xúc nhất
với họ: một là thông tin và hai là vốn. Ngân hàng đã hỗ trợ doanh nghiệp về
vốn, nhưng với thế mạnh về quan hệ với nhiều thành phần kinh tế, Ngân hàng
cũng có thể là người tư vấn rất tốt cho doanh nghiệp không chỉ về tài chính mà
còn cả những kinh nghiệm kinh doanh, từ đó tạo sự tin tưởng của doanh
nghiệp với ngân hàng và giữ mối quan hệ gắn bó lâu dài. Do vậy, nếu thông
tin được thu thập đầy đủ thì sẽ đem lại rất nhiều thuận lợi cho cả ngân hàng và
doanh nghiệp.
- Phối hợp với các ban ngành hoặc thuê công ty tư vấn tài chính để
thiết lập các chuẩn mực đánh giá tín dụng phù hợp với thực tế tại Việt nam.
Đề ra các tiêu chuẩn cụ thể cho việc đánh giá qua các báo cáo tài chính và
73
các số liệu không chính thức khác, để tạo điều kiện cho các cán bộ tín dụng
thẩm định được tình hình hoạt động của các DNVVN trong điều kiện không
đầy đủ về hồ sơ tài chính (là một trong những trở ngại đối với việc tiếp cận
thủ tục vay vốn ngân hàng).
- Nghiên cứu các hình thức chăm sóc khách hàng phù hợp với từng đối
tượng khách hàng. nghiện cứu các dịch vụ hỗ trợ cũng như các ưu đãi có thể
áp dụng cho khách hàng là các DNVVN như: tổ chức lớp học miễn phí về
quản lý tài chính cho chủ DNVVN, linh hoạt áp dụng các hình thức thế chấp
cầm cố tài sản hình thành từ vốn vay, những tài sản chưa được hướng dẫn cụ
thể của các cơ quan chức năng nhưng là tài sản có giá trị với doanh nghiệp
như cầm cố hối phiếu, cổ phiếu.
Bên cạnh việc quán triệt nhận thức về tầm quan trọng của khách hàng
DNVVN đối với sự phát triển của ngân hàng và tổ chức cơ cấu sắp xếp lại các
bộ phận trong ngân hàng để hỗ trợ khách hàng một cách tốt nhất, thì một
nhiệm vụ quan trọng để thu hút và tăng trưởng tín dụng với đối tượng DNVVN
chính là kỹ năng nghiệp vụ của người làm công tác cho vay.
3.2.3. Tích cực và kiên trì trong công tác tiếp cận khách hàng
3.2.3.1 Nhận thức về khó khăn trong công tác tiếp thị cho vay
DNVVN:
Trong khi hầu hết các Giám đốc DNVVN nghĩ rằng việc thiếu khả năng
tiếp cận được các nguồn tài trợ chính thức là một trong những trở ngại chính
cho sự phát triển thì hầu hết các ngân hàng tại Việt Nam cảm thấy khó khăn
để tìm được người vay hợp lệ trong hàng ngàn DNVVN. Tại Việt Nam, thông
tin về các DNVVN rất khan hiếm và hầu hết các số liệu về DNVVN không
đáng tin cậy. Hơn nữa, hầu hết các DNVVN có vẻ không sẵn lòng đến với
ngân hàng vì họ ch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 43790.pdf