Hiện nay, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Đảng, Nhà nước cũng như của các chính quyền địa phương là phát triển kinh tế và giải quyết việc làm cho người dân. Muốn phát triển kinh tế và tạo việc làm thì phải huy động được vốn, phát triển hệ thống doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, giữ vai trò quyết định là vốn trong nước, trong đó nguồn vốn quan trọng là từ nhân dân.
Làm thế nào thu hút được vốn đầu tư trong nước từ nhân dân để phát triển kinh tế và tạo việc làm là đề tài đã được nhiều người nghiên cứu. Nhiều chính sách của Nhà nước cũng đã được ban hành để giải quyết hai vấn đề trên, song kết quả còn nhiều hạn chế. Số vốn trong nước huy động được, số doanh nghiệp được thành lập, số việc làm đã được tạo ra tuy ngày càng nhiều nhưng vẫn bất cập so với khả năng tiềm tàng trong dân cư, so với yêu cầu phát triển của đất nước và nhu cầu việc làm ngày càng tăng của người lao động.
Đối với tỉnh Kon Tum, một trong những vấn đề nổi cộm là số doanh nghiệp được thành lập còn ít so với dân số đô thị, số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, mở rộng quy mô, tăng thêm vốn và lao động cũng chưa nhiều. Hiện nay, đại bộ phận các doanh nghiệp ở tỉnh Kon Tum là doanh nghiệp nhỏ và vừa, là loại hình doanh nghiệp được đánh giá là có quy mô tổ chức kinh doanh thích hợp, có nhiều ưu thế về tính năng động, linh hoạt, thích ứng nhanh với yêu cầu của thị trường và là phương tiện rất hiệu quả trong việc huy động vốn đầu tư trong nước và tạo việc làm cho người dân. Việc khuyến khích thành lập và phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa là rất cần thiết, phù hợp với điều kiện về vốn, về công nghệ và trình độ quản lý của tỉnh. Tuy nhiên, sự phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở tỉnh trong nhiều năm qua còn chậm và chưa ổn định. Điều đó xuất phát từ những hạn chế và khó khăn của bản thân doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam nói chung và tỉnh Kon Tum nói riêng; mặt khác tỉnh cũng chưa có các biện pháp để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhất là chưa triển khai thực hiện tốt trên thực tế những chính sách, giải pháp đã đề ra.
Để góp phần thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh nhằm huy động tối đa tiềm năng về vốn, lao động, tài nguyên, cần thiết phải làm rõ thực trạng doanh nghiệp nhỏ và vừa của tỉnh và các biện pháp chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp này, qua đó đưa ra được một số giải pháp chủ yếu nhằm hỗ trợ thành lập và phát triển có hiệu quả cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của tỉnh Kon Tum. Vì vậy, tôi chọn đề tài luận văn thạc sỹ với tiêu đề: "Những giải pháp hỗ trợ của Nhà nước nhằm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Kon Tum".
105 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1174 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Những giải pháp hỗ trợ của Nhà nước nhằm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Kon Tum, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Đảng, Nhà nước cũng như của các chính quyền địa phương là phát triển kinh tế và giải quyết việc làm cho người dân. Muốn phát triển kinh tế và tạo việc làm thì phải huy động được vốn, phát triển hệ thống doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, giữ vai trò quyết định là vốn trong nước, trong đó nguồn vốn quan trọng là từ nhân dân.
Làm thế nào thu hút được vốn đầu tư trong nước từ nhân dân để phát triển kinh tế và tạo việc làm là đề tài đã được nhiều người nghiên cứu. Nhiều chính sách của Nhà nước cũng đã được ban hành để giải quyết hai vấn đề trên, song kết quả còn nhiều hạn chế. Số vốn trong nước huy động được, số doanh nghiệp được thành lập, số việc làm đã được tạo ra tuy ngày càng nhiều nhưng vẫn bất cập so với khả năng tiềm tàng trong dân cư, so với yêu cầu phát triển của đất nước và nhu cầu việc làm ngày càng tăng của người lao động.
Đối với tỉnh Kon Tum, một trong những vấn đề nổi cộm là số doanh nghiệp được thành lập còn ít so với dân số đô thị, số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, mở rộng quy mô, tăng thêm vốn và lao động cũng chưa nhiều. Hiện nay, đại bộ phận các doanh nghiệp ở tỉnh Kon Tum là doanh nghiệp nhỏ và vừa, là loại hình doanh nghiệp được đánh giá là có quy mô tổ chức kinh doanh thích hợp, có nhiều ưu thế về tính năng động, linh hoạt, thích ứng nhanh với yêu cầu của thị trường và là phương tiện rất hiệu quả trong việc huy động vốn đầu tư trong nước và tạo việc làm cho người dân. Việc khuyến khích thành lập và phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa là rất cần thiết, phù hợp với điều kiện về vốn, về công nghệ và trình độ quản lý của tỉnh. Tuy nhiên, sự phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở tỉnh trong nhiều năm qua còn chậm và chưa ổn định. Điều đó xuất phát từ những hạn chế và khó khăn của bản thân doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam nói chung và tỉnh Kon Tum nói riêng; mặt khác tỉnh cũng chưa có các biện pháp để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhất là chưa triển khai thực hiện tốt trên thực tế những chính sách, giải pháp đã đề ra.
Để góp phần thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh nhằm huy động tối đa tiềm năng về vốn, lao động, tài nguyên, cần thiết phải làm rõ thực trạng doanh nghiệp nhỏ và vừa của tỉnh và các biện pháp chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp này, qua đó đưa ra được một số giải pháp chủ yếu nhằm hỗ trợ thành lập và phát triển có hiệu quả cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của tỉnh Kon Tum. Vì vậy, tôi chọn đề tài luận văn thạc sỹ với tiêu đề: "Những giải pháp hỗ trợ của Nhà nước nhằm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Kon Tum".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được nghiên cứu từ lâu và đã được các chính phủ ứng dụng thành công trong việc phát triển kinh tế xã hội của nước mình. Ở Việt Nam, thời gian gần đây (trong thời kỳ đổi mới) vấn đề này mới được quan tâm đúng mức. Đã có những công trình nghiên cứu về mặt lý luận, về mặt tổng kết và cũng có những công trình nghiên cứu cụ thể về vấn đề này ở các thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh, Bình Dương... Tuy nhiên trước tình hình phát triển mới của đất nước, trước sự thay đổi nhanh chóng của cơ chế quản lý và chính sách phát triển, luôn đòi hỏi phải nghiên cứu cập nhật các vấn đề về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đối với Kon Tum, chưa có công trình nào nghiên cứu về đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý luận các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa và vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của một địa phương.
- Đánh giá đúng thực trạng và nêu ra được những hạn chế, những nguyên nhân cản trở việc thành lập và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Kon Tum.
- Luận chứng, đề xuất những giải pháp chủ yếu và kiến nghị với Trung ương, với tỉnh về cơ chế, chính sách chung và những biện pháp của tỉnh để có thể hỗ trợ một cách có hiệu quả nhất cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa của tỉnh Kon Tum trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là các biện pháp chính sách của Nhà nước cấp tỉnh. Đối tượng khảo sát là các doanh nghiệp nhỏ và vừa và những khó khăn, vướng mắc của nó trên địa bàn tỉnh Kon Tum.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian, khảo sát các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Kon Tum.
+ Về thời gian, nghiên cứu các số liệu, văn bản hỗ trợ thành lập và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian 5 năm (2001-2005)
+ Đề xuất các giải pháp chính nhằm thúc đẩy việc ra đời và phát triển nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút mạnh vốn đầu tư trong nước và tạo ra nhiều việc làm cho người dân của tỉnh phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh đến năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Trước hết, tiến hành tham khảo các giáo trình, tài liệu, báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa để làm cơ sở lý luận và rút ra các kinh nghiệm cần thiết. Tiếp đến, sẽ nghiên cứu các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cấp Trung ương, cấp tỉnh thông qua các văn kiện, văn bản pháp luật, tài liệu có liên quan đến đề tài nhằm củng cố các tiền đề, làm cơ sở cho việc nghiên cứu tiếp theo.
- Các phương pháp cụ thể: Sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh, thống kê. Trong đó, đặc biệt sử dụng nhiều các phương pháp thống kê: sẽ sử dụng các số liệu thống kê để phân tích, đánh giá thực trạng của vấn đề, phát hiện các mối quan hệ có tính quy luật của quá trình phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa...
6. Đóng góp của đề tài
Các vấn đề hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa được hệ thống, đánh giá, phân tích chi tiết lần đầu tiên trên địa bàn Tỉnh Kon Tum, đưa ra dự báo một cách khoa học, giúp cho địa phương điều hành có hiệu quả trong việc ban hành, thực hiện các biện pháp hỗ trợ thành lập và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn nhằm phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập của người dân trên địa bàn.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu 3 chương, 9 tiết.
Chương 1: Doanh nghiệp nhỏ và vừa - sự cần thiết hỗ trợ của Nhà nước đối với sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chương 2: Thực trạng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa và những giải pháp hỗ trợ của Nhà nước trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong thời gian qua.
Chương 3: Những giải pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong thời gian tới.
Chương 1
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA - SỰ CẦN THIẾT HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ, ĐẶC ĐIỂM DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong nền kinh tế thị trường, bất cứ một hoạt động hợp pháp nào trong sản xuất kinh doanh, tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ để bán, cung ứng cho khách hàng và thu lợi nhuận, dù hoạt động đó chỉ là của một cá nhân, một hộ gia đình, đều có thể được coi là một doanh nghiệp (DN). Cùng cách hiểu này, Viện Thống kê và nghiên cứu kinh tế Pháp định nghĩa: "DN là một tổ chức kinh tế mà chức năng chính của nó là sản xuất ra của cải vật chất và dịch vụ để bán" [2]. Ở nước ta, Luật Doanh nghiệp 2005 cũng đã nêu rõ: "Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh” [17]. Tiếp theo đó, Luật cũng đã định nghĩa kinh doanh như sau: "Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” [17]. Như vậy, chính trong văn bản luật cũng đã để một khoảng trống, rằng có hoạt động kinh doanh nhưng chưa hẳn đã là doanh nghiệp. Bởi vì, muốn trở thành doanh nghiệp thì phải có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định và tất yếu phải có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Như vậy, theo quy định của Luật Doanh nghiệp, các hộ kinh doanh cá thể nếu không có đăng ký kinh doanh, không được gọi là DN, mặc dù số hộ này vẫn thực hiện các hoạt động kinh doanh hợp pháp, được thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự giống như DN. Do đó, ở nước ta, quan niệm về DN có hai phạm vi rõ rệt: phạm vi hẹp chỉ bao gồm các DN chính thức đã đăng ký với tư cách tên gọi là DN; phạm vi rộng bao gồm cả các hộ gia đình kinh doanh hợp pháp và các tổ chức, cá nhân tham gia kinh doanh dưới danh nghĩa các tổ chức sự nghiệp có thu...
Trong một nền kinh tế, tùy theo các tiêu chí khác nhau mà người ta phân ra các loại DN khác nhau. Theo ngành kinh tế có thể chia ra DN công nghiêp, DN nông nghiệp, DN thương mại dịch vụ; theo tính chất hoạt động thì có DN hoạt động công ích (phi lợi nhuận) và DN kinh doanh (vị lợi); theo hình thức sở hữu thì có DNNN, DNDD và DN có vốn đầu tư nước ngoài; theo quy mô, mà chủ yếu là quy mô về vốn và lao động thì có DN lớn, DNNVV.
Các DNNVV là loại hình DN có số lượng áp đảo ở hầu hết các nước. Có khá nhiều cách định nghĩa khác nhau về DNNVV. Các định nghĩa này có những điểm giống nhau và khác nhau, vì vậy khó mà tìm được một định nghĩa thống nhất, mặc dù ai cũng thống nhất rằng kinh doanh nhỏ và vừa thì khối lượng công việc ít hơn, đơn giản hơn là kinh doanh ở các DN lớn.
Hiện nay, không có một tiêu chuẩn chung cho việc phân định ranh giới quy mô DN ở các nước. Ở mỗi nước, tùy theo điều kiện và hoàn cảnh phát triển kinh tế cụ thể mà có cách xác định quy mô DN trong từng giai đoạn nhất định. Bảng 1.1 dưới đây cho thấy tình hình này.
Bảng 1.1: Tiêu thức phân loại DNNVV của một số nước:
Lĩnh vực
Các nước
Công nghiệp
Thương mại - Dịch vụ
DN vừa
DN nhỏ
DN vừa
DN nhỏ
Mỹ
Dưới 3,5 triệu USD
Dưới 500 lao động
Dưới 3,5 triệu USD
Dưới 500 lao động
Nhật bản
Dưới 100 triệu Yên
Dưới 300 lao động
Dưới 20 lao động
10-30 triệu Yên
Dưới 100 lao động
Dưới 5 lao động
CHLB Đức
1đến<100triệu DM
10-<500 lao động
Dưới 1 triệu DM
Dưới 9 lao động
1-100 triệu DM
10-<500 lao động
Dưới 1 triệu DM
Dưới 9 lao động
Philippin
15-60 triệu Peso
Không quy định lđ
< 15 triệu Peso
Không q/định lđ
15-60 triệu Peso
Không quy định lđ
< 15 triệu Peso
Không q/định lđ
Đài Loan
1,6 triệu USD
4-10 lao động
1,6 triệu USD
4-10 lao động
Nguồn: [8].
Ngoài ra, còn có định nghĩa chung của EU, có hiệu lực áp dụng từ tháng 6/1996:
DNNVV là các DN tư nhân và độc lập, trong khu vực phi sơ cấp, không bao gồm các ngành như nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, sử dụng dưới 200 công nhân. Trong khu vực DNNVV có sự phân loại như sau theo quy mô:
DN siêu nhỏ: sử dụng dưới 10 công nhân;
DN nhỏ: sử dụng từ 10 đến 49 nhân công và có doanh thu hàng năm dưới 7 triệu ECU;
DN vừa: sử dụng từ 50 đến 249 nhân công và có doanh thu hàng năm dưới 40 triệu ECU [8].
Về tiêu chí DNNVV ở Việt Nam:
Từ nhiều năm trước, khi Chính phủ chưa ban hành chính thức tiêu chí quy định DNNVV, một số cơ quan và nhà nghiên cứu đã đưa ra các tiêu chí và tiêu chuẩn cụ thể khác nhau để phân loại DNNVV. Có thể kể ra các cách phân loại tiêu biểu sau:
- Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) căn cứ vào 2 tiêu chí lao động và vốn của các ngành để phân biệt:
+ Trong ngành công nghiệp: DNNVV là tổ chức kinh tế có số vốn từ 5 - 10 tỷ đồng và có số lao động 200-500 người. Trong đó DN nhỏ có số vốn dưới 5 tỷ đồng và có số lao động nhỏ hơn 200 người.
+ Trong ngành thương mại- dịch vụ: DNNVV là tổ chức có số vốn từ 5-10 tỷ đồng và có số lao động từ 50-100 người.
- Ngân hàng Công thương hoạt động cho vay tín dụng đối với các DN quy định rằng: DN vừa là DN có vốn từ 5-10 tỷ đồng và số lao động từ 500-1000 người, DN nhỏ là DN có vốn dưới 5 tỷ đồng và lao động dưới 500 người [23];
- Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, trong lĩnh vực sản xuất, xây dựng, DN có vốn dưới 1 tỷ đồng và dưới 100 lao động được xếp là DN nhỏ, DN có vốn từ 1-10 tỷ đồng và có từ 100-500 lao động là DN vừa. Trong lĩnh vực thương mại-dịch vụ, DN có vốn từ 500 triệu đến 5 tỷ đồng, lao động từ 50-250 người là DN vừa…
Tóm lại, người ta thường dùng 2 tiêu chí về vốn đăng ký và số lao động thường xuyên để xác định DNNVV vì tất cả các DN đều có thể xác định được 2 tiêu chí này. Riêng tiêu thức doanh thu ít được sử dụng vì đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam thì tiêu chí này có thể biến động do nhiều yếu tố và cũng khó xác định.
Để thống nhất tiêu chí xác định DNNVV, ngày 20/6/1998, Chính phủ đã ban hành công văn số 681/CP-KTN quy định tiêu chí tạm thời xác định các DNNVV. Theo quy định này, DNNVV là các DN có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người. Quy định tạm thời này chỉ tồn tại khoảng 3 năm và ngày 23/11/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV, theo quy định tại Nghị định này,
DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế- xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên [7].
Với tiêu thức phân loại mới này, DNNVV ở nước ta chiếm tỷ trọng khoảng 90% trong tổng số DN hiện nay, trong đó phần lớn là các DN thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Điều này phù hợp với tình hình kinh tế của nước ta vốn là nền kinh tế sản xuất nhỏ và vừa là chủ yếu
1.1.2. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Vai trò của DNNVV trong nền kinh tế quốc dân
Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển, các DNNVV chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế, đóng một vai trò rất quan trọng. Điều này cũng đúng với tình hình của Việt Nam, được thể hiện qua tám vai trò sau:
Thứ nhất, DNNVV góp phần quan trọng tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động:
Đây là một thế mạnh rõ rệt của các DNNVV, và là nguyên nhân chủ yếu khiến chúng ta phải đặc biệt chú trọng phát triển các loại hình DN này. Ưu điểm của các DNNVV trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động là: các DN này có số lượng lớn, phân bố rộng rãi từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, nên mặc dù số lao động làm việc trong một DNNVV không nhiều nhưng theo quy luật số đông, với số lượng rất lớn DNNVV trong nền kinh tế đã tạo ra phần lớn việc làm cho xã hội. Mặt khác, các DN loại này mang tính tư hữu cao, dễ dàng đa dạng hóa sản phẩm, kể cả các mặt hàng mà các DN lớn không sản xuất. Sự lớn mạnh của các DNNVV đã làm tăng thu nhập của công nhân và giảm tỷ lệ thất nghiệp của mỗi địa phương nói riêng và toàn lãnh thổ nói chung.
DNNVV không chỉ trực tiếp tạo việc làm cho số lao động làm việc thường xuyên ở các DN, mà còn tạo điều kiện để lao động ngoài DN có được việc làm thông qua các hoạt động cung ứng đầu vào, tiếp nhận đầu ra và phục vụ sản xuất - kinh doanh. Xét trên góc độ giải quyết việc làm thì DNNVV luôn đóng vai trò quan trọng hơn các DN lớn, đặc biệt trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Lịch sử phát triển kinh tế của các nước công nghiệp phát triển cũng như ở Việt Nam trong thời kỳ đầu đổi mới đã cho thấy rằng: khi nền kinh tế suy thoái, các DN lớn phải giảm lao động để giảm chi phí đến mức có thể tồn tại được vì cầu của thị trường thấp hơn cung. Nhưng đối với các DNNVV do đặc tính linh hoạt, uyển chuyển dễ thích ứng với thay đổi của thị trường nên nó vẫn có thể hoạt động được. Do đó, các DNNVV không những không giảm lao động mà còn có thể thu hút thêm lao động. Chính vì vậy, Hội đồng DN nhỏ thế giới đã cho rằng: DNNVV là liều thuốc cuối cùng chữa trị bệnh thất nghiệp khi nền kinh tế suy thoái [2]; [9].
Ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp tương đối cao và không ổn định, sức ép dân số, lao động, việc làm ở nông thôn chính là nguyên nhân của dòng di dân từ nông thôn ra thành phố, gây ra nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Khu vực DNNVV thuộc các thành phần kinh tế hiện thu hút khoảng 26% lực lượng lao động phi nông nghiệp của cả nước, nhưng triển vọng thu hút lao động rất lớn vì suất đầu tư cho một chỗ làm việc ở đây thấp hơn rất nhiều so với DN lớn, chủ yếu là do chi phí thấp và thu hút được các nguồn vốn rải rác trong dân. Các DNNVV đang là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhận số lao động từ các DNNN dôi ra qua việc cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê, phá sản DN hiện đang được triển khai.
Do các DNNVV có thể phát triển ở khắp mọi nơi trong nước, nên khoảng cách giữa nhà sản xuất và thị trường được rút ngắn lại, tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng. Chênh lệch giàu nghèo không đáng kể, mỗi người dân có thể là một ông chủ, mỗi gia đình có thể là một doanh nghiệp. Thu nhập bình quân của người Việt Nam còn khá thấp do kinh tế chậm phát triển. Phát triển DNNVV ở thành thị cũng như nông thôn là biện pháp chủ yếu để tăng thu nhập, đa dạng hóa thu nhập của các tầng lớp nhân dân khắp các vùng trong nước.
Thứ hai, các DNNVV góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trong dân cư và sử dụng tối ưu các nguồn lực tại địa phương:
Với đặc điểm phân bố nhỏ lẻ, dễ phân tán, yêu cầu số lượng vốn ban đầu không nhiều, cho nên các DNNVV có vai trò và tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Mặt khác, trong quá trình hoạt động, các DNNVV có thể dễ dàng huy động vốn dựa trên quan hệ họ hàng, bạn bè thân thuộc. Chính vì vậy, DNNVV được coi là phương tiện có hiệu quả trong việc huy động, sử dụng các khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư và biến nó thành các khoản vốn đầu tư.
Sự phát triển có hiệu quả của các DNNVV đã dẫn đến quá trình tích lũy của cải không ngừng của nhân dân. Trước đây, tiết kiệm của dân chúng không đáng kể. Nhưng trong những năm gần đây, tiết kiệm của dân chúng đã đủ để sản xuất. Nguồn vốn quay vòng nhanh của các DNNVV không những đã nâng cao tích lũy tài sản trong nước, mà nguồn ngoại hối tích lũy do các DNNVV xuất khẩu hàng hóa cũng tăng đều qua các năm.
Với quy mô nhỏ và vừa, lại được thành lập phân tán ở hầu khắp các địa phương, các khu vực, nên DNNVV có khả năng tận dụng các tiềm năng về lao động, về nguyên vật liệu với trữ lượng hạn chế, không đáp ứng nhu cầu sản xuất quy mô lớn, nhưng sẵn có ở địa phương, sử dụng sản phẩm phụ hoặc phế liệu, phế phẩm của các DN lớn.
Thứ ba, các DNNVV chiếm tỷ trọng cao trong tổng số các cơ sở SX-KD và ngày càng gia tăng mạnh, tạo hiệu quả trong sản xuất thầu phụ.
Phần lớn các nước trên thế giới, số lượng các DNNVV chiếm khoảng 90% tổng số doanh nghiệp. Tốc độ gia tăng số lượng các DNNVV nhanh hơn số lượng các DN lớn. Các DNNVV hoạt động phổ biến trong tất cả các ngành công nghiệp, dịch vụ, từ công nghiệp thủ công truyền thống đến các ngành công nghiệp kỹ thuật cao, tạo khả năng gia công, thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn.
Thứ tư, các DNNVV có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Chúng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng 50% GDP ở mỗi nước. Riêng ở Việt Nam, nếu chỉ tính các DN chính thức, mỗi năm các DNNVV đóng góp khoảng 25% GDP của cả nước. Các DN này có nhiều thuận lợi trong việc khai thác những tiềm năng phong phú trong dân… Nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ đặc trưng của từng địa phương đã nổi tiếng trong cả nước, một số đã được xuất khẩu, được nước ngoài đánh giá cao. Nhiều ngành nghề truyền thống đã được khôi phục và phát triển trong từng hộ gia đình, từng dòng họ, hình thành tập trung trong các làng nghề, phát huy truyền thống dòng họ, làng xã đặc trưng của nông thôn nước ta.
Thứ năm, các DNNVV là nhân tố tạo sự năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường, đóng góp quan trọng trong việc làm tăng lưu thông và xuất khẩu hàng hóa:
Do lợi thế của quy mô nhỏ là năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh cùng với hình thức tổ chức kinh doanh, sự kết hợp chuyên môn hóa và đa dạng hóa mếm dẻo, hòa nhịp với những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường nên các DNNVV có vai trò to lớn góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường, DNNVV có nhiều khả năng thay đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ.
Các DNNVV luôn có sự phối hợp chặt chẽ giữa công việc sản xuất và chiến lược thị trường phù hợp. Trong thời gian qua, các loại hình DN này đa phần lấy mục tiêu phục vụ thị trường trong nước làm chính, đáp ứng nhu cầu trong nước và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. Tuy nhiên, khi nền kinh tế phát triển, tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh hơn, sức mua tăng lên, nhu cầu lớn hơn, các DNNVV rất nhạy bén trong việc điều chỉnh cơ cấu, tăng doanh thu. Điều này rất khó thực hiện ở các DN lớn khi muốn đa dạng hóa mặt hàng sản xuất. DNNVV còn có thể làm đại lý, vệ tinh tiêu thụ hàng hóa hoặc cung cấp các vật tư đầu vào với giá rẻ hơn cho các DN lớn, do đó góp phần hạ giá thành, nâng cao hiệu quả sản xuất cho DN lớn.
Thứ sáu, các DNNVV có vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Đặc biệt đối với khu vực nông thôn, sự phát triển của các DNNVV sẽ thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại, dịch vụ. Sự phát triển của DNNVV ở thành thị cũng góp phần làm tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ và làm thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Các DNNVV còn đóng vai trò quan trọng trong việc làm thay đổi và đa dạng hóa cơ cấu công nghiệp.
Thứ bảy, các DNNVV góp phần dân chủ hóa nền kinh tế, duy trì sự tự do cạnh tranh và có khả năng ứng biến nhanh nhạy.
DNNVV chiếm một tỷ trọng lớn và đóng vai trò quan trọng trong việc tập trung lực lượng kinh tế, lực lượng lao động. Sự phát triển không ngừng của các DNNVV góp phần phân phối theo chiều hướng tương đối công bằng, mặt khác huy động được nguồn sức lao động lớn trong xã hội vào hoạt động sản xuất theo quy trình phân công lao động xã hội.
Tự do kinh doanh là con đường tốt nhất để phát huy tiềm lực. Một quốc gia muốn tạo nên các DNNVV đều phải có môi trường tự do cạnh tranh. Các DN lớn thường cần những thị trường lớn, thường đòi hỏi phải có sự bảo hộ của chính phủ và có xu hướng độc quyền. Còn ở DNNVV, tình trạng độc quyền không xảy ra, họ sẵn sàng chấp nhận tự do kinh doanh. So với các DN lớn, các DNNVV có tính tự chủ cao, không ỷ lại vào sự trợ cấp, bảo hộ của Nhà nước, sẵn sàng khai thác các cơ hội để phát triển.
Thứ tám, các DNNVV là nơi đào tạo các nhà doanh nghiệp.
Các DNNVV góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện một đội ngũ doanh nhân, ươm mầm các tài năng kinh doanh. Kinh doanh quy mô nhỏ sẽ là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà DN làm quen với môi trường kinh doanh. Bắt đầu từ kinh doanh qui mô nhỏ và thông qua điều hành quản lý kinh doanh quy mô vừa và nhỏ, một số nhà DN sẽ trưởng thành lên thành những nhà DN lớn, tài ba, biết đưa DN của mình nhanh chóng phát triển. Các tài năng kinh doanh sẽ được ươm mầm từ trong các DNNVV
1.1.3. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa (những ưu thế và hạn chế)
Những ưu thế:
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi loại hình DN có những ưu thế và hạn chế riêng. Có thể thấy các DNNVV có những ưu thế chủ yếu sau đây:
- Năng động, nhạy bén và dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường: Đây là một ưu thế nổi trội của DNNVV. Do có mối liên hệ trực tiếp với thị trường và người tiêu thụ nên DNNVV có thể phản ứng nhanh nhạy với những biến động của thị trường. Với cơ sở vật chất kỹ thuật không lớn, DNNVV dễ dàng chuyển đổi sản xuất, chuyển hướng kinh doanh, tăng giảm lao động hoặc thu hẹp quy mô mà không gây ra những hậu quả nặng nề cho xã hội.
- Dễ dàng khởi sự và năng động, nhậy bén với thị trường. DNNVV chỉ cần một số vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể khởi sự doanh nghiệp. Do qui mô nhỏ nên năng động, linh hoạt trước những thay đổi của thị trường, đặc biệt là nhu cầu nhỏ lẻ, có tính địa phương.
- Dễ phát huy các mối quan hệ hợp tác. DNNVV thường chỉ tiến hành một hoặc một vài công đoạn trong quá trình sản xuất một sản phẩm hoàn chỉnh, mà các công đoạn sản xuất phải kết hợp với nhau để hoàn thành một sản phẩm hoàn chỉnh đưa ra tiêu thụ trên thị trường, do đó các DN phải tự hoàn thiện bản thân mình và tiến hành hợp tác sản xuất, nếu không sẽ bị đào thải.
- Thu hút nhiều lao động, hoạt động có hiệu quả với chi phí cố đinh thấp. Các DNNVV, do nguồn vốn ít nên đầu tư vào tài sản cố định cũng ít, họ thường sử dụng lao động thay thế cho vốn, thiết bị, đặc biệt đối với các nước có nguồn lao động dồi dào với giá rẻ như ở nước ta.
- Không có hoặc ít có xung đột giữa người sử dụng lao động và người lao động. Do quy mô vừa và nhỏ, quan hệ giữa những người lao động và người sử dụng lao động trong các DNNVV khá chặt chẽ, khoảng cách giữa người sử dụng lao động và người lao động không lớn. Do vậy, nếu có xung đột, mâu thuẫn cũng dễ dàng giải quyết.
- Có thể duy trì sự tự do cạnh tranh. Các DNNVV thường không có tình trạng độc quyền, họ dễ dàng và sẳn sàng chấp nhận tự do cạn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LuanVan chu chinh 1.doc
- bia.doc