Nhân loại đã bước vào thế kỷ XXI. Thế kỷ mới với những xu hướng, thuận lợi, khó khăn và thách thức mới. Thế kỷ bùng nổ thông tin, khoa học hiện đại, kỹ thuật tiên tiến, kinh tế hội nhập. đã làm cho cục diện thế giới có nhiều biến động và phân hóa sâu sắc về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng. Một số quốc gia, dân tộc đã có những thay đổi lớn so với những thập niên cuối thế kỷ XX.
Việt Nam, sau 20 năm thực hiện đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, chúng ta đã thu được những thành tựu to lớn đáng trân trọng, kinh tế phát triển khá, chính trị tương đối ổn định, an ninh được giữ vững, quốc phòng được tăng cường, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Đại hội IX của Đảng (2001) tiếp tục khẳng định: Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu từ nay đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội X của Đảng (2006) một lần nữa chỉ rõ: phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội (CBXH) ngay trong từng bước và trong từng chính sách phát triển.
Nền kinh tế thị trường (KTTT) đã đem lại những thành tựu to lớn về kinh tế sau 20 năm thực hiện đổi mới. Đây là điều kiện quan trọng tạo tiền đề kinh tế vững chắc cho việc thực hiện CBXH. Tuy nhiên, KTTT cũng bộc lộ những nhược điểm làm ảnh hưởng không tốt đến việc thực hiện CBXH, sự chênh lệch thu nhập, phân hóa giàu nghèo cũng như trình độ dân trí, có chiều hướng ngày càng gia tăng giữa các vùng miền, tỷ lệ đói nghèo phần lớn tập trung chủ yếu ở nông thôn, vùng sâu vùng xa, biên giới và hải đảo, miền núi, dân tộc thiểu số. Điều kiện tập trung đầu tư giáo dục và phát triển kinh tế lại thuộc về những người có thu nhập cao, các tệ nạn xã hội như buôn lậu, tham nhũng, trốn thuế, lợi dụng chức quyền, lợi dụng kẽ hở trong quản lý kinh tế để làm giàu phi pháp đang trở thành điểm nóng được dư luận hết sức quan tâm, bất công, bất bình đẳng trong xã hội ngày càng trở nên nghiêm trọng đòi hỏi phải có câu trả lợi thỏa đáng.
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách nhằm phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tốt CBXH.
Kết hợp chặt chẽ, hợp lý các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, từng địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ hơn cho phát triển kinh tế - xã hội.
Song việc thực hiện ở các cấp các ngành vẫn còn những vấn đề bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra, vấn đề bất công, bất bình đẳng trong xã hội ngày càng có nguy cơ trở nên trầm trọng và là lực cản lớn có tính thời sự trong quá trình thực hiện mục tiêu CBXH ở nước ta hiện nay.
96 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1346 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Nhân tố chủ quan với việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân loại đã bước vào thế kỷ XXI. Thế kỷ mới với những xu hướng, thuận lợi, khó khăn và thách thức mới. Thế kỷ bùng nổ thông tin, khoa học hiện đại, kỹ thuật tiên tiến, kinh tế hội nhập... đã làm cho cục diện thế giới có nhiều biến động và phân hóa sâu sắc về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng. Một số quốc gia, dân tộc đã có những thay đổi lớn so với những thập niên cuối thế kỷ XX.
Việt Nam, sau 20 năm thực hiện đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, chúng ta đã thu được những thành tựu to lớn đáng trân trọng, kinh tế phát triển khá, chính trị tương đối ổn định, an ninh được giữ vững, quốc phòng được tăng cường, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Đại hội IX của Đảng (2001) tiếp tục khẳng định: Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu từ nay đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội X của Đảng (2006) một lần nữa chỉ rõ: phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội (CBXH) ngay trong từng bước và trong từng chính sách phát triển.
Nền kinh tế thị trường (KTTT) đã đem lại những thành tựu to lớn về kinh tế sau 20 năm thực hiện đổi mới. Đây là điều kiện quan trọng tạo tiền đề kinh tế vững chắc cho việc thực hiện CBXH. Tuy nhiên, KTTT cũng bộc lộ những nhược điểm làm ảnh hưởng không tốt đến việc thực hiện CBXH, sự chênh lệch thu nhập, phân hóa giàu nghèo cũng như trình độ dân trí,… có chiều hướng ngày càng gia tăng giữa các vùng miền, tỷ lệ đói nghèo phần lớn tập trung chủ yếu ở nông thôn, vùng sâu vùng xa, biên giới và hải đảo, miền núi, dân tộc thiểu số. Điều kiện tập trung đầu tư giáo dục và phát triển kinh tế lại thuộc về những người có thu nhập cao, các tệ nạn xã hội như buôn lậu, tham nhũng, trốn thuế, lợi dụng chức quyền, lợi dụng kẽ hở trong quản lý kinh tế để làm giàu phi pháp đang trở thành điểm nóng được dư luận hết sức quan tâm, bất công, bất bình đẳng trong xã hội ngày càng trở nên nghiêm trọng đòi hỏi phải có câu trả lợi thỏa đáng.
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách nhằm phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tốt CBXH.
Kết hợp chặt chẽ, hợp lý các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, từng địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ hơn cho phát triển kinh tế - xã hội.
Song việc thực hiện ở các cấp các ngành vẫn còn những vấn đề bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra, vấn đề bất công, bất bình đẳng trong xã hội ngày càng có nguy cơ trở nên trầm trọng và là lực cản lớn có tính thời sự trong quá trình thực hiện mục tiêu CBXH ở nước ta hiện nay.
Xuất phát từ thực tế đó, tác giả mạnh dạn chọn đề tài: "Nhân tố chủ quan với việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay " làm đề tài tốt nghiệp.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh vấn đề: Nhân tố chủ quan (NTCQ) với việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện KTTT ở nước ta hiện nay đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như:
- "Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta", do TS Hoàng Thị Thành làm chủ nhiệm đề tài, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1998;
- "Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước châu Á và Việt Nam", do TS Lê Bộ Lĩnh làm chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998;
- "Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở một số tỉnh miền Trung", do TS Phạm Hảo, TS Võ Xuân Tiến, TS Mai Đức Lộc đồng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000;
- "Vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ của Vũ Anh Tuấn, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2001;
- "Nhà nước với việc thực hiện công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ của Võ Thị Hoa, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2002;
- "Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong giai đoạn hiện nay ở nước ta (Qua thực tế tỉnh Quảng trị)", Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Xuân Phong, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003;
- "Thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc trong giáo dục - đào tạo ở các tỉnh miền núi phía bắc nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ của Phạm Văn Dũng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004;
- "Phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong việc tổ chức thực hiện nghị quyết Đảng ở nước ta hiện nay (Qua thực tế tỉnh Hải Dương)", Luận văn thạc sĩ của Vũ Hữu Phê, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004);
- "Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới - vấn đề và giải pháp", do TS Nguyễn Thị Nga làm chủ nhiệm đề tài, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2006;
- "Vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở nước ta hiện nay", của PGS.TS Trần Thành, Tạp chí Triết học, số 2(177), 2006;
- "Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta hiện nay - những quan điểm cơ bản của Đảng", của TS Nguyễn Thị Nga, Tạp chí Triết học, số 9(184), 2006
...
Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết của các nhà khoa học đăng trên các báo và tạp chí bàn về vấn đề CBXH ở Việt Nam và trên thế giới trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, vẫn chưa có tác giả nào đề cập vấn đề một cách trực tiếp dưới góc độ triết học như tên đề tài đã nêu ra. Những tài liệu nêu trên chứa đựng những giá trị khoa học rất quý giá, được tác giả tiếp thu, kế thừa và phát triển trong luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở làm rõ vai trò và thực trạng của việc phát huy vai trò NTCQ đối với việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy vai trò NTCQ với việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ nội dung quan niệm CBXH; vai trò NTCQ với việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
- Khảo sát thực trạng việc phát huy vai trò NTCQ đối với việc thực hiện CBXH (qua thực tế Vĩnh Phúc), chỉ ra những bất cập của nó, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy tốt vai trò NTCQ trong việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Vai trò NTCQ và việc phát huy vai trò NTCQ với việc thực hiện CBXH trong điều kiện nước ta hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Vai trò NTCQ và việc phát huy vai trò NTCQ với việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế ở Vĩnh Phúc), từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tốt vai trò NTCQ với việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đồng thời kế thừa và phát huy những giá trị trong các công trình khoa học đã nghiên cứu để phục vụ cho luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn đã dùng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, trừu tượng và cụ thể... nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ mà đề tài đã đặt ra.
6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trò của NTCQ đối với việc thực hiện CBXH ở Việt Nam trong điều kiện KTTT hiện nay (qua thực tế Vĩnh Phúc), từ đó đề xuất những phương hướng và giải pháp thích hợp nhằm thực hiện tốt CBXH ở nước ta nói chung và Vĩnh Phúc nói riêng. Kết quả nghiên cứu luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc tìm hiểu, nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn sau này.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. QUAN NIỆM VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
1.1.1. Quan niệm ngoài mácxít về công bằng xã hội
Ở xã hội cộng sản nguyên thủy, con người sinh sống, hoạt hoạt động và lao động đều mang tính cộng đồng, cùng làm cùng hưởng, mọi thành viên trong thị tộc, bộ lạc đều bình đẳng, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, cùng săn bắn, hái lượm và cùng được hưởng những phần của cải như nhau trong số sản phẩm thu được, và tuy nhiên họ đều phải tuân thủ như nhau về các quy ước chung trong cộng đồng, không có trường hợp ngoại lệ. Mọi hành vi trái với quy ước chung của cộng đồng thì phải chịu sự trừng phạt theo quy ước đã định. Ở xã hội này, Ph.Ăngghen đã nhận xét: "Với tất cả tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao... Tất cả đều bình đẳng và tự do" [47, tr. 147-148]. Tuy nhiên, trong xã hội cộng sản nguyên thủy, lực lượng sản xuất còn thấp kém nên sản phẩm lao động còn ít ỏi chỉ đủ để tồn tại, nên cách cùng làm cùng hưởng theo kiểu chia đều là phương thức duy nhất để xã hội cùng tồn tại.
Khi lực lượng sản xuất phát triển, của cải làm ra đã có dư thừa tương đối thì xuất hiện tư hữu, giai cấp, nhà nước, xã hội chiếm hữu nô lệ ra đời cùng với sự bất bình đẳng, phân chia đẳng cấp giàu nghèo, sang hèn cũng như địa vị của từng cá nhân trong xã hội. Như vậy CBXH bắt đầu bị vi phạm.
Nhà triết học Hy Lạp thời cổ đại Pla-tôn (427-347 tr.CN) khi bàn về vấn đề Nhà nước đã cho rằng: một nhà nước lý tưởng là nhà nước có những đạo luật công bằng được thiết lập trên cơ sở trí tuệ và lợi ích quốc gia chứ không phải lợi ích của mỗi người cầm quyền. Ari-xtốt (384-322 tr.CN) cho rằng: sự phân chia giai cấp và địa vị giai cấp là lẽ tự nhiên, công bằng và bình đẳng chỉ áp dụng cho những người cùng giai cấp, các giai cấp khác nhau thì công bằng và bình đẳng giai cấp khác nhau; sự bất bình giữa các giai cấp theo ông đó chính là sự công bằng. Ở Trung Quốc cổ đại, Hàn Phi Tử đã phát triển tư tưởng pháp trị của các nhà tư tưởng trước thành một học thuyết pháp trị khá hoàn chỉnh nhằm thiết lập một xã hội công bằng.
Trong xã hội phong kiến, với sự phân chia giai cấp địa chủ và nông dân, đất đai và tư liệu sản xuất thuộc về giai cấp địa chủ, quý tộc, nông dân chỉ là người đi cày thuê cuốc mướn, con người hàng ngày vẫn phải đối mặt với những bất công trong xã hội. Đây cũng chính là nguyên nhân của hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của nông dân chống lại bọn địa chủ phong kiến đòi công bằng và bình đẳng trong xã hội. Ph. Ăngghen đã từng nhận xét: "Điều đó lý giải vì sao chế độ phong kiến lại có nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại địa chủ, lãnh chúa để đòi công bằng xã hội" [42, tr. 243].
Chủ nghĩa tư bản ra đời, cùng với chiêu bài: "Tự do, bình đẳng, bác ái", của giai cấp tư sản nhằm tập hợp lực lượng để thủ tiêu chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định các quyền tự do cá nhân, quyền được sống trong xã hội dân chủ theo mô hình nhà nước "tam quyền phân lập" với một nền pháp luật tiến bộ, công bằng. Đây là những nội dung cơ bản trong tư tưởng CBXH của thời kỳ này.
Tômát Hốpxơ (1588-1679), nhà triết học nổi tiếng đại biểu cho chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII cho rằng: con người là giống nhau mà tạo hóa đã ban cho nên con người phải được công bằng và bình đẳng, nhưng con người thì lại có tính tham lam và ích kỷ nên không thể có sự bình đẳng và công bằng, ông đã chỉ ra rằng: Để đi đến sự công bằng giữa con người với con người thì phải có một lực lượng đứng trên để dàn xếp các lợi ích cá nhân, đó chính là nhà nước. Tư tưởng này của Tômát Hốpxơ đã mang tính duy vật về xã hội nhưng lại chưa thấy được trong xã hội có đối kháng giai cấp thì nhà nước mang tính giai cấp của giai cấp thống trị, nên ông đã cho rằng không thể thực hiện CBXH chung cho toàn xã hội.
Tiếp tục tư tưởng của Tômát Hốpxơ, Xpinôza (1632-1677) đã đưa ra tư tưởng giải phóng con người và giải phóng mình đó là nhận thức, chính nhận thức mà làm cho con người tránh khỏi tệ nạn xã hội, giải phóng mọi áp bức và bất công. Ông cho rằng, dốt nát là nguyên nhân của áp bức, bất công, không nhận thức được hiện thực thì không thể chế ngự được lòng ham muốn của mình. Tuy nhiên, quan điểm của ông vẫn chưa duy vật triệt để về xã hội.
Đến Giăng Giắc Rútxô (1712-1778); nhà tư tưởng vĩ đại, nhà biện chứng lỗi lạc của triết học Khai sáng Pháp, ông cho rằng: xã hội công dân đã tạo ra một xiềng xích mới trói buộc kẻ yếu, thế lực thuộc về kẻ mạnh, luôn kìm hãm, thủ tiêu bình đẳng cá nhân và duy trì quan hệ bất bình đẳng. Theo ông, muốn xóa bỏ bất công, bất bình đẳng thì phải xây dựng một nhà nước kiểu mới do nhân dân làm chủ, đồng thời ông cũng phê phán sở hữu tư nhân vì sở hữu tư nhân là nguyên nhân làm phân hóa thành kẻ giàu người nghèo, muốn xóa được sở hữu tư nhân thì phải thiết lập khế ước xã hội thì mới đạt được công bằng và bình đẳng. Đây là những lý tưởng nhân đạo nhưng cũng chưa thoát khỏi hạn chế lịch sự.
Imanuen Cantơ (1724-1804), đại biểu của nền triết học cổ điển Đức, một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của lịch sử tư tưởng phương Tây trước C.Mác, khi bàn về vấn đề xã hội ông đã cho rằng: CBXH bao gồm công bằng và bảo hộ, công bằng trong trao đổi và phân phối. Đây là tư tưởng tiến bộ của ông mà sau này được nhiều người thừa kế.
Các nhà xã hội không tưởng cũng phê phán mạnh mẽ xã hội đương thời được xây dựng trên nền móng của sự chiếm hữu, đồng thời các ông cũng đề ra một mô hình xã hội mới mà ở xã hội đó mọi người đều phải lao động và hưởng thụ như nhau, xóa bỏ mọi đặc quyền đặc lợi, xây dựng một xã hội công bằng tạo điều kiện công bằng cho mọi thành viên trong xã hội, tuy nhiên đây là một mô hình xã hội không tưởng cả về lý luận và thực tiễn, đây là một mơ ước về xã hội lý tưởng mà công bằng là theo chủ nghĩa bình quân, cào bằng. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, tư tưởng về CBXH của nhân loại đã có những bước tiến khá dài khác hẳn về chất so với các xã hội trước đó.
Chủ nghĩa tư bản trong thời đại ngày nay đã trải qua những thăng trầm trong lịch sử nên có những bài học về việc điều chỉnh CBXH và cũng đạt được một số thành tựu, đồng thời dưới danh nghĩa "phúc lợi chung", chủ nghĩa tư bản đã làm dịu bớt được sức nóng trong xã hội tư bản, chủ nghĩa tư bản đã nhận thức được rằng cuộc đấu tranh giữa công nhân và tư sản về công bằng có thể sẽ là một mất một còn nếu không thực sự xoa dịu được tình hình, chính vì vậy mà chủ nghĩa tư bản có những điều chỉnh tương đối hợp lý, làm giảm bớt sức nóng về CBXH trong xã hội tư bản. Tuy nhiên, đây chỉ là những biện pháp mang tính hình thức, còn về thực chất và lâu dài thì sự đòi hỏi công bằng của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động đang chịu bất công với giai cấp tư sản tất yếu sẽ được thực hiện bằng một cuộc cách mạng xã hội.
Như vậy, việc thực hiện CBXH trong chủ nghĩa tư bản chỉ là phương tiện để đạt mục đích đó là lợi nhuận cho nhà tư bản chứ không phải là cái đích CBXH mà nhân loại đang cần vươn tới. Olivier de Solages (nhà kinh tế học người pháp) khẳng định: "Đông đảo quần chúng không thể hiện được rằng một sự tăng trưởng kinh tế ngày càng gia tốc lại được thể hiện bằng một sự phân phối bất công đến thế về thu nhập quốc dân và bằng những bất bình đẳng ngày càng trầm trọng" [74, tr. 92].
Bên cạnh đó còn xuất hiện nhiều tư tưởng về CBXH theo trào lưu tân cổ điển và cổ điển, họ đã nhấn mạnh tự do cá nhân theo một chiều trong mối quan hệ với CBXH, họ cho rằng chính tự do cá nhân mới là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (TTKT) và tiến bộ xã hội. Vì vậy, muốn phát triển thì phải giảm bớt CBXH, không thể cùng một lúc vừa có TTKT lại vừa có CBXH được, mà chỉ khi nào kinh tế tăng trưởng đến một mức độ nhất định nào đó thì mới có đủ điều kiện để thực hiện CBXH. Quan điểm này đã bị chính xã hội tư sản bác bỏ vì phủ nhận vai trò CBXH trong việc thúc đẩy TTKT. Max - Weber (nhà xã hội học và triết học người Đức) lại giải thích bất công trong chủ nghĩa tư bản bằng khả năng không ngang nhau trong việc chiếm lĩnh thị trường của các doanh nghiệp hoặc người lao động, ông còn cho rằng cơ may và vận hội trong cuộc đời không thể chia đều cho mọi người. Đây cũng là lý do để tồn tại những vị thế khác nhau trong xã hội, những điều như vậy là nguyên nhân dẫn đến bất công trong xã hội tư sản. Học thuyết này có đóng góp lớn đối với sự phân tầng xã hội song chưa lý giải trọn vẹn bản chất của sự bất công trong chủ nghĩa tư bản.
Những người theo quan điểm xã hội dân chủ trong khi bác bỏ tính phiến diện của trào lưu cổ điển và tân cổ điển đã tìm kiếm sự hỗ trợ lẫn nhau giữa tự do cá nhân, CBXH với TTKT, nhưng thực tế lại dẫn đến sai lầm. Đường lối của Đảng xã hội dân chủ Thụy Điển một thời lầm tưởng rằng đã thật sự có CNXH và CBXH, nhưng thực tế thì đó là CBXH mà ở đó đã làm mất động lực TTKT, những kẻ lười lao động nghiễm nhiên lại được hưởng một phần không nhỏ của hệ thống phúc lợi. Ngôi nhà CBXH của Đảng xã hội dân chủ Thụy Điển đã hoàn toàn sụp đổ, đây là tiếng chuông cảnh tỉnh cho ảo tưởng tìm kiếm CBXH đích thực trong chủ nghĩa tư bản. Thực tiễn đã chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản không phải là lời giải tốt cho nhân loại về CBXH.
Như vậy, trong tiến trình lịch sử nhân loại, toàn bộ những quan điểm tư tưởng trước Mác và ngoài Mác cũng như thực tiễn lịch sử đã đề cập đến rất nhiều về vấn đề CBXH, đã có những quan niệm khác nhau về nhưng chưa có một quan niệm nào, đầy đủ, toàn diện, có tính hệ thống và khoa học về CBXH. Tuy nhiên, đây là những tiền đề rất quan trọng cho các nhà tư tưởng sau này khi nghiên cứu về vấn đề CBXH.
1.1.2. Quan điểm mácxít về công bằng xã hội
Chủ nghĩa Mác với phương pháp nhận thức duy vật biện chứng, đồng thời kế thừa những yếu tố hợp lý của các nhà tư tưởng trước đó, trên cơ sở thâm nhập trực tiếp vào thực tiễn, đã đưa ra những quan điểm rất cơ bản về CBXH: CBXH là một phạm trù có tính lịch sử và tính giai cấp sâu sắc, nó thay đổi theo các hình thái kinh tế - xã hội nhất định, thậm chí còn thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử khác nhau trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Theo quan điểm mácxít thì trong các nhà nước bóc lột không thể tồn tại CBXH theo đúng nghĩa của nó, mà trái lại càng đẩy bất công xã hội lên tới đỉnh điểm cho cuộc cách mạng xã hội. Khi phân tích chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã chỉ ra rằng: sự TTKT trong chủ nghĩa tư bản đồng nghĩa với quá trình tăng cường bóc lột giai cấp công nhân, vì vậy sự tăng trưởng đó về bản chất không thể tự dẫn tới CBXH được. Phương thức phân phối trong chủ nghĩa tư bản là không hợp lý vì nó không dựa vào sức lao động mà lại dựa vào tài sản và vốn nên dẫn đến nhà tư bản ngày càng giàu lên trên sự nghèo khổ của công nhân và người lao động. Đây chính là sự phân phối không công bằng trong chủ nghĩa tư bản, làm cho mâu thuẫn trong xã hội tư bản ngày càng gay gắt. C.Mác chỉ ra rằng, phương thức phân phối tư bản chủ nghĩa chỉ mất đi khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở nên gay gắt đến mức bùng nổ cách mạng XHCN để mở ra một thời đại mới, thời đại đó tư liệu sản xuất sẽ được công hữu hóa và phương thức phân phối sản phẩm sẽ hợp lý hơn, CBXH sẽ được bảo đảm.
Theo các nhà mácxít thì chỉ có chủ nghĩa cộng sản với tư cách là xã hội phát triển nhất của nhân loại, ở xã hội này sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người. Xã hội có khả năng thực hiện phân phối theo nhu cầu, và chỉ như vậy thì mới có thể thực hiện CBXH một cách tuyệt đối. Tuy nhiên, quan điểm mácxít cũng cho thấy rằng: CNXH với tư cách là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản thì chưa có CBXH như người ta mong muốn (công bằng tuyệt đối), vì ở đó vẫn còn tồn tại nhiều tiền đề kinh tế - xã hội cho bất bình đẳng như tư hữu và những yếu tố của pháp quyền tư sản trong phân phối. Đây chính là phân phối theo lao động - một nguyên tắc của việc phân phối chủ yếu trong CNXH và là nét đặc trưng trong quan niệm về CBXH trong thời kỳ này và cũng chính là "thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản".
Trong tác phẩm "Phê phán cương lĩnh Gôtha", C.Mác đã đề cập tới phân phối trong CNXH, ông cho rằng, trong XHCN, sau khi đã khấu trừ đi những khoản cần thiết để duy trì sản xuất, tái sản xuất cũng như để duy trì đời sống của cộng đồng, toàn bộ sản phẩm xã hội còn lại sẽ được phân phối theo nguyên tắc: Mỗi người sản xuất sẽ được nhận trở lại từ xã hội một số lượng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lượng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội (sau khi đã khấu trừ số lao động của anh ta cho các quỹ xã hội). Đây là một nguyên tắc phân phối công bằng vì ở đây tất cả những người sản xuất đều có quyền ngang nhau tham dự vào quỹ tiêu dùng của xã hội khi làm một công việc ngang nhau. Như vậy, theo C.Mác, trong chế độ XHCN thì lao động theo năng lực cá nhân và được nhận lại một phần sản phẩm anh ta làm ra vừa đúng với cái mà anh ta đóng góp cho xã hội sau khi đã khấu trừ đi số lao động cần thiết để duy trì, phát triển sản xuất và các quỹ phúc lợi xã hội, mọi người sản xuất đều có quyền ngang nhau trong việc tham gia vào quỹ tiêu dùng của xã hội khi làm một công việc ngang nhau, nguyên tắc phân phối này được coi là công bằng. Tuy nhiên, ông cũng chỉ ra rằng, trong điều kiện của CNXH, sự phân phối công bằng đó chẳng những chưa loại trừ được mà vẫn còn hàm chứa trong nó sự chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã hội vì: với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế người này vẫn lĩnh hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia [45, tr. 35]. Do vậy, muốn tránh tất cả những thiếu sót ấy thì quyền phải lao động không bình đẳng chứ không phải là bình đẳng [45, tr. 35]. Đây cũng là ưu việt những cũng là thiết sót của nguyên tắc phân phối theo lao động - một thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của cộng sản chủ nghĩa.
C.Mác cũng phân biệt sự khác nhau giữa CBXH với bình đẳng xã hội (BĐXH), theo ông thì CBXH không đồng nhất với BĐXH, có khi chúng ta đang thực hiện CBXH nhưng vẫn chưa thực hiện được BĐXH, khi nói tới BĐXH là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người và người trong xã hội về một phương diện nào đấy như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội..., BĐXH hoàn toàn là sự ngang bằng nhau giữa người và người trong xã hội về mọi phương diện. Còn CBXH là sự ngang bằng nhau giữa người với người về một phương diện xác định, về phương diện quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, cống hiến và hưởng thụ, theo nguyên tắc cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau, và vì vậy xét theo khía cạnh này thì CBXH là một dạng, một biểu hiện cụ thể của BĐXH và thực hiện CBXH chính là thực hiện một phần của BĐXH, là thực hiện CBXH về một phương diện nhất định, phương diện quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ - và là một bước tiến trên con đường lâu dài nhằm dần dần đạt tới BĐXH hoàn toàn.
V.I.Lênin cho rằng:
Như thế là trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa (mà người ta vẫn thường gọi là chủ nghĩa xã hội), pháp quyền tư sản chưa bị xóa bỏ hoàn toàn mà chỉ bị xóa bỏ một phần, chỉ bị xóa bỏ với mức độ phù hợp với cuộc cách mạng kinh tế đã được hoàn thành, nghĩa là chỉ trong phạm vi tư liệu sản xuất thôi. Pháp quyền tư sản thừa nhận tư liệu sản xuất là sở hữu riêng của cá nhân. chủ nghĩa xã hội biến tư liệu sản xuất thành tài sản chung [34, tr. 116].
Lênin cũng rất chú ý đến công bằng trong phân phối lao động, ông cho rằng: "Người nào không làm thì không có ăn", nguyên tắc này được thực hiện "số lượng lao động ngang nhau, thì hưởng số lượng sản phẩm ngang nhau" [34, tr. 116].
Theo quan điểm mácxít thì phải thiết lập những tiền đề kinh tế ngày càng cao cho việc thực hiện CBXH, không thể có CBXH đích thực trong một xã hội nghèo khổ kém phát triển, đồng thời quan điểm mácxít cũng đề cập đến một xã hội giàu có, của cải dư thừa nhưng lại thiếu công bằng trong phân phối, TTKT là yếu tố quan trọng nhưng không phải là duy nhất để thực hiện CBXH. Đây là quan điểm khác biệt cơ bản giữa quan điểm mácxít với quan điểm ngoài mácxít, phải biết kết hợp hài hòa, biện chứng giữa TTKT và CBXH.
Bên cạnh đó quan điểm mácxít cũng chỉ ra điểm khác biệt giữa quan niệm mácxít với các quan niệm khác về CBXH, đó là con đường đấu tranh với những bất công xã hội mà trong đó bất công về địa vị kinh tế là lớn nhất, "Những điều công bằng về mặt luân lý, thậm chí công bằng cả về mặt pháp luật, có thể còn xa với công bằng về mặt xã hội" [45, tr. 365]. CBX