Định hướng XHCN là một vấn đề được Đảng ta chính thức nêu ra từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991). Suốt từ đó cho tới nay, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong sự lãnh đạo và quản lý đất nước, nhằm bảo đảm định hướng XHCN công cuộc đổi mới, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Với chủ trương đúng đắn về sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đó là nguyên nhân trực tiếp nền kinh tế nước ta phát triển với tốc độ cao. Từ đó đã góp phần nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
Song, thực tiễn cũng cho thấy, sự phát triển nền kinh tế ở nước ta bên cạnh những mặt tích cực như đã nêu, đồng thời đã bộc lộ những khuyết tật có nguy cơ chệch hướng XHCN. Nguy cơ đó xuất phát từ những điều kiện khách quan và ngay cả trong nhân tố chủ quan của nước ta. Để bảo đảm định hướng XHCN trong quá trình phát triển nền kinh tế ở giai đoạn tiếp theo, đòi hỏi cần có sự nỗ lực; sự phát huy cao độ vai trò nhân tố chủ quan của Đảng và Nhà nước ta.
91 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1151 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Nhân tố chủ quan với việc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Định hướng XHCN là một vấn đề được Đảng ta chính thức nêu ra từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991). Suốt từ đó cho tới nay, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong sự lãnh đạo và quản lý đất nước, nhằm bảo đảm định hướng XHCN công cuộc đổi mới, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Với chủ trương đúng đắn về sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đó là nguyên nhân trực tiếp nền kinh tế nước ta phát triển với tốc độ cao. Từ đó đã góp phần nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
Song, thực tiễn cũng cho thấy, sự phát triển nền kinh tế ở nước ta bên cạnh những mặt tích cực như đã nêu, đồng thời đã bộc lộ những khuyết tật có nguy cơ chệch hướng XHCN. Nguy cơ đó xuất phát từ những điều kiện khách quan và ngay cả trong nhân tố chủ quan của nước ta. Để bảo đảm định hướng XHCN trong quá trình phát triển nền kinh tế ở giai đoạn tiếp theo, đòi hỏi cần có sự nỗ lực; sự phát huy cao độ vai trò nhân tố chủ quan của Đảng và Nhà nước ta. Vì đây là hai chủ thể quan trọng nhất nhằm bảo đảm giữ vững định hướng XHCN quá trình phát triển nền kinh tế. Bởi vậy, việc nghiên cứu "Nhân tố chủ quan với việc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay" có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vừa cơ bản vừa cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề vai trò "nhân tố chủ quan" và "điều kiện khách quan" trong lịch sử đã được các nhà triết học đề cập, nghiên cứu. Ngay trong các tác phẩm của mình các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đã đề cập nghiên cứu nhiều về vấn đề đó. Do vị trí và ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, những năm gần đây ở nước ta nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu về "nhân tố chủ quan" và "điều kiện khách quan" đối với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, như các công trình nghiên cứu sau:
- "Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong xây dựng con người mới ở Việt Nam" Luận án PTS của Nguyễn Thế Kiệt; Hà Nội, 1988.
- "Quan hệ biện chứng giữa khách quan và chủ quan trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta" Luận án Thạc sĩ của Chế Công Tâm, Hà Nội, 1993.
- "Tác động của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đối với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" Luận án PTS của Dương Thị Liễu; Hà Nội, 1996.
- "Về nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay" Luận án TS của Phạm Ngọc Minh, Hà Nội, 2000.
Bên cạnh những công trình chuyên khảo về vấn đề này, như đã nêu trên, các tạp chí "Cộng sản", "Triết học", "Nghiên cứu Lý luận", "Thông tin Lý luận"… Cũng đã xuất hiện nhiều công trình của các tác giả nghiên cứu đề cập tới việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan như:
- "Phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta" của Dương Phú Hiệp, tạp chí Triết học số 2/1973.
- "Vị trí và vai trò của nhân tố chủ quan trong cơ chế tác động của quy luật xã hội" của Phạm Văn Đức, tạp chí Triết học số 3/1989.
- "Những yếu tố cơ bản làm tăng cường chất lượng của nhân tố chủ quan trong xây dựng chủ nghĩa xã hội" của Trần Bảo, tạp chí Triết học số 3 tháng 9/1991.
- "Xu hướng và các nhân tố bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế nhiều thành phần" của Nguyễn Chí Mỹ, tạp chí Cộng sản số 10/5/1997 v.v...
Kết quả nghiên cứu của các công trình trên đây rất có giá trị , các tác giả nghiên cứu đã đề cập tới nhiều khía cạnh khác nhau của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong quá trình phát triển xã hội nói chung và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói riêng.
Tuy nhiên cho tới nay, vẫn chưa có công trình nào đi sâu vào nghiên cứu có tính hệ thống vai trò nhân tố chủ quan với việc bảo đảm định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Vì vậy, tác giả luận văn mạnh dạn đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu vấn đề này. Với mong muốn có những đóng góp nhất định về phương diện lý luận và thực tiễn, góp phần vào việc xây dựng giải pháp nâng cao chất lượng nhân tố chủ quan, nhằm giữ vững định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Luận văn có mục đích: Trên cơ sở làm rõ vai trò nhân tố chủ quan trong việc bảo đảm định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta và đánh giá thực trạng của việc phát huy nhân tố chủ quan hiện nay, từ đó nêu ra một số giải pháp nâng cao chất lượng nhân tố chủ quan.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
Thứ nhất: Làm rõ nội dung khái niệm "nhân tố chủ quan" và "điều kiện khách quan" và vai trò của nhân tố chủ quan trong sự phát triển xã hội nói chung và bảo đảm định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta nói riêng.
Thứ hai: Khảo sát thực trạng việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan, chỉ ra những bất cập của nó, từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao nhân tố chủ quản nhằm bảo đảm định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
3.2. Giới hạn của luận văn
Luận văn chỉ tập trung đi vào phân tích và làm rõ vai trò nhân tố chủ quan của Đảng và Nhà nước ta là hai chủ thể cơ bản và quan trọng nhất trong việc lãnh đạo, quản lý và định hướng nền kinh tế phát triển theo hướng XHCN.
4. Cái mới của luận văn
- Góp phần làm rõ vai trò nhân tố chủ quan trong việc bảo đảm định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò nhân tố chủ quan, nhất là ở địa phương, cơ sở.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở các nguyên lý, các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, kế thừa một cách hợp lý các công trình có liên quan.
- Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn đã dùng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: Phân tích, tổng hợp, lôgic và lịch sử, hệ thống và yếu tố v.v...
6. ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn trước tiên nhằm nâng cao nhận thức cho tác giả. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy bộ môn triết học trong các trường chính trị tỉnh thành.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận các phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 2 chương 4 tiết.
Chương I
Nhân tố chủ quan và vai trò của nó đối với việc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay
1.1. Nhân tố chủ quan và vai trò của nó đối với sự phát triển xã hội
1.1.1. Khái niệm: "Nhân tố chủ quan", "Điều kiện khách quan"
Khái niệm nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan được hình thành và phát triển trong quá trình nghiên cứu hoạt động thực tiễn của con người. Do vậy, để làm sáng tỏ nội dung của các khái niệm đó, đòi hỏi phải đề cập tới các khái niệm có liên quan tới hoạt động của con người. Đó là những khái niệm: "chủ thể", "khách thể".
Khái niệm "chủ thể": trong hoạt động tác động và cải tạo thế giới khách quan, con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh khách quan; đồng thời là chủ thể của hoạt động cải tạo hoàn cảnh khách quan, từ đó hình thành nên khái niệm chủ thể. Đây là một khái niệm đã được nhiều nhà triết học quan tâm nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều định nghĩa và cách hiểu khác nhau về nội dung của khái niệm này như:
Có người cho rằng: "Chủ thể" là con người (cá nhân hoặc nhóm...) tiến hành hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn [59, tr. 92] .
Cũng có người hiểu: "chủ thể là con người có ý thức và ý chí, và đối lập với khách thể bên ngoài" [60, tr. 192] .
Qua những quan niệm khác nhau trên đây cho thấy: tùy theo cấp độ xem xét, chủ thể có thể là cả loài người, có thể là một nhóm, một giai cấp, một đảng phái... Đang thực hiện một quá trình hoạt động nhằm cải tạo khách thể tương ứng.
Kế thừa những cách hiểu trên, trong luận văn này chúng tôi quan niệm:
Chủ thể - đó là con người với những cấp độ tồn tại khác khác nhau (cá nhân, nhóm, giai cấp) đã và đang thực hiện sự tác động đến khách thể.
Với khái niệm chúng tôi đã nêu trên, cho thấy: Con người là chủ thể, đó là con người thực tiễn, con người hành động, đặc trưng cơ bản nhất là có năng lực hoạt động sáng tạo nhằm cải tạo khách thể (tự nhiên, xã hội). Nét biểu hiện về năng lực sáng tạo của chủ thể đó là việc lựa chọn những hình thức và phương pháp tác động, xây dựng ý chí và quyết tâm trong quá trình tác động vào khách thể, nhằm đạt được mục đích đề ra. Đúng như trước đây Lê Nin đã từng viết: "Khái niệm ấy (bằng con người) là khuynh hướng tự mình thực hiện mình, qua bản thân mình, một tích khách quan trong thế giới khách và tự hoàn thiện (tự thực hiện) mình" [27, tr. 228].
Khái niệm "khách thể" và khái niệm "chủ thể" có mối liên hệ hữu cơ và liên quan mật thiết với nhau. Với cách hiểu nội dung khái niệm "chủ thể" như đã nêu trên. Chúng tôi quan niệm về khách thể, đó là:
Khách thể là tất cả những gì mà chủ thể hướng vào nhằm nhận thức và cải tạo nó
Với cách hiểu và quan niệm như vậy, theo chúng tôi: Khách thể phải được xác định tùy thuộc vào chủ thể tương ứng với nó và do vậy khách thể không phải là toàn bộ hiện thực khách quan, nó chỉ là một bộ phận của hiện thực khách quan (là các sự vật hiện tượng, quá trình ...), các bộ phận đó chịu sự tác động của chủ thể xác định. Nói cách khác, tùy từng cấp độ xác định về chủ thể để chúng ta xác định khách thể. Do hiện thực khách quan hết sức phong phú, từ đó khách thể là những bộ phận của nó cũng rất đa dạng. Có khách thể là những hiện tượng, quá trình thuộc giới tự nhiên; có khách thể là những hiện tượng, quá trình thuộc về lĩnh vực đời sống xã hội. Chẳng hạn, những quan hệ kinh tế, những quan hệ chính trị - xã hội, kể cả những quan hệ tư tưởng cũng là những khách thể của những chủ thể tương ứng [35].
Khách thể và chủ thể có liên quan mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau. Không thể nói tới một khách thể cụ thể, nếu không nói tới một chủ thể xác định. Bởi vì, chủ thể và khách thể có mối quan hệ biện chứng với nhau, chúng chỉ tồn tại với tư cách là chủ thể và khách thể khi lấy nhau làm tiền đề. Khách thể tồn tại bên ngoài, không lệ thuộc vào chủ thể song khách thể không đối lập trừu tượng với chủ thể. Vì nó chính là đối tượng mà chủ thể luôn luôn hướng vào cải tạo bằng hoạt động có ý thức của mình.
Khi xem xét hoạt động của con người, người ta không chỉ nghiên cứu các khái niệm chủ thể và khách thể; mà còn quan tâm tới khái niệm "nhân tố chủ quan" và "điều kiện khách quan". Bởi vì các khái niệm điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan được dùng để chỉ mối quan hệ giữa hoạt động có ý thức của con người và hoàn cảnh mà trong đó con người hoạt động.
Khái niệm nhân tố chủ quan không hoàn toàn đồng nhất với khái niệm chủ thể. Hiện nay trên sách, báo, tạp chí nghiên cứu xuất hiện nhiều những quan niệm khác nhau về khái niệm nhân tố chủ quan.
Chẳng hạn, trong khi nghiên cứu khái niệm "nhân tố chủ quan", có tác giả đồng nhất nhân tố chủ quan với hoạt động có ý thức của con người nói chung. "Nhân tố chủ quan trong sự phát triển xã hội là hoạt động có ý thức của những con người, những giai cấp, những chính đảng sáng tạo ra lịch sử " [36, tr. 18]. Cũng có tác giả lại giới hạn và đồng nhất nhân tố chủ quan với hoạt động tự giác của con người. Như vậy, nhóm quan niệm nêu trên thường nhấn mạnh đặc trưng sáng tạo của ý thức, tư tưởng, nhấn mạnh vai trò của ý thức trong việc phản ánh điều kiện khách quan.
Những quan niệm trên đây có nhiều giá trị và tính hợp lý, vì đã chỉ ra vai trò của ý thức, tính tự giác trong hoạt động của con người. Nhưng, nếu đồng nhất nhân tố chủ quan với hoạt động có thức của con người; hoặc giới hạn nhân tố chủ quan với hoạt động tự giác của con người, thì theo chúng tôi chưa thật đầy đủ và như vậy dễ dẫn đến tình trạng "chủ quan hóa" hoạt động của con người. Bởi vì, hoạt động của con người không chỉ thuần túy thuộc về nhân tố chủ quan mà còn bị chi phối và quy định của điều kiện khách quan.
Ngoài những quan niệm nêu trên, còn có quan niệm đồng nhất nhân tố chủ quan với ý thức của chủ thể hoạt động. Về quan niệm này, A.K.Uleđôp đã nhận xét và phê phán một cách xác đáng, rằng:
Nhiều phẩm chất tư tưởng, tâm lý xã hội, đạo đức của các tập đoàn xã hội, của các giai cấp và các tổ chức của nó, của các dân tộc là nằm trong nội dung của nhân tố chủ quan, nhưng sẽ là sai lầm khi cho rằng toàn bộ ý thức xã hội cũng nằm trong đó. Nhân tố chủ quan không phải là ý thức nói chung (cũng hệt như là sự hoạt động), mà là các ý thức đã trở thành sự chỉ đạo, sự kích thích và phương châm của hoạt động. Nói cách khác là ý thức đã biến thành đặc điểm nhất định của hành vi, của hoạt động của chủ thể [61, tr. 69].
Như vậy, theo A.K.Uleđôp nhân tố chủ quan chỉ bao gồm những bộ phận ý thức của chủ thể tham gia vào quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể.
Theo chúng tôi, nói tới "nhân tố chủ quan", trước hết chúng ta cần đề cập tới đặc trưng cơ bản của nó là "tính tích cực, tính sáng tạo" của chủ thể hoạt động. Bởi lẽ, các nguyên lý triết học Mác xít chỉ ra rằng, con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh nhưng đồng thời là chủ thể của hoàn cảnh đó. Do đó, khi đặt trong mối quan hệ chung nhất, đối diện với giới tự nhiên chúng ta có khái niệm con người. Khi đặt con người (có thể là cả loài người, hoặc một bộ phận, một cá nhân trong trạng thái đang tích cực hoạt động trước một đối tượng cần nhận thức và cải tạo nó theo mục đích nhất định, lúc đó chúng ta có khái niệm chủ thể và đối lập với nó là khách thể. Còn khi xem xét con người - chủ thể tích cực hoạt động trong một hoạt động xác định, với đầy đủ các mặt, các yếu tố, mối quan hệ... Tức khi xem xét con người - chủ thể đó với tất cả các nhân tố tạo thành tính tích cực của chủ thể - các nhân tố vừa là nguyên nhân, vừa là điều kiện của mọi hoạt động tích cực, sáng tạo của chủ thể chúng ta có khái niệm nhân tố chủ quan và đối lập với nó là điều kiện khách quan [43, tr. 58].
Như vậy, "vấn đề nhân tố chủ quan trong lịch sử dù người ta tiếp cận việc giải quyết nó về mặt nào và ở bình diện nào đi nữa cũng chỉ có thể được vạch ra thông qua sự phân tích đặc trưng về chất của những chủ thể lịch sử" [61, tr. 67]. Nhưng điều đáng lưu ý, không phải là bản thân các chủ thể lịch sử đó đóng vai trò nhân tố chủ quan, mà những thuộc tính, những phẩm chất, những trạng thái của chủ thể biểu hiện trong hoạt động đóng vai trò nhân tố chủ quan. Những thuộc tính, phẩm chất của chủ thể là nhân tố chủ quan, là những yếu tố cần thiết để tạo ra khả năng tích cực, sáng tạo của chủ thể. Biểu hiện sức mạnh sáng tạo đó của chủ thể phải được thể hiện thông qua hành động thực tiễn cải tạo các khách thể xác định. Tổng hợp toàn bộ những nội dung đó tạo thành khái niệm nhân tố chủ quan. Nhấn mạnh điều đó tác giả V.N Lavrineko cho rằng:
Nhân tố chủ quan trong quá trình lịch sử là những khả năng khác nhau của con người mà bằng sự tác động của mình, đã đem lại sự biến đối trong những mặt nhất định của đời sống xã hội. Điều quan trọng nhất cấu thành nhân tố chủ quan là ý thức và nói chung là đời sống tinh thần của con người, những kỹ năng, kỹ xảo và thói quen của họ trong hoạt động sản xuất, kinh nghiệm xã hội, trình độ văn hóa và đồng thời là những phẩm chất ý chí của họ: Tính tổ chức trong hoạt động của con người có một ý nghĩa to lớn [35, tr. 20].
Từ những nội dung phân tích trên đây cho thấy, giữa nhân tố chủ quan và chủ thể có sự thống nhất, nhưng không đồng nhất với nhau. Sự thống nhất giữa khái niệm "chủ thể" và "nhân tố chủ quan" được thể hiện ở chỗ: nhân tố chủ quan là thuộc về chủ thể. Còn giữa các khái niệm này có sự khác nhau và tính độc lập tương đối, vì nhân tố chủ quan, là khái niệm để chỉ những yếu tố, đặc trưng cấu thành phẩm chất của chủ thể, được chủ thể huy động và trực tiếp tạo ra năng lực, cũng như động lực của chủ thể nhằm để biến đổi khách thể cụ thể. Với quan niệm như trên, chúng tôi hiểu: Nhân tố chủ quan là những gì thuộc về chủ thể và tham gia trực tiếp vào một hoạt động cụ thể của chủ thể cũng như bản thân sự hoạt động đó.
Với quan niệm về khái niệm nhân tố chủ quan nêu trên, theo chúng tôi, cấu trúc của nhân tố chủ quan, bao gồm các nhân tố sau đây:
Thứ nhất: ý thức của chủ thể là nhân tố cấu thành nội dung khái niệm nhân tố chủ quan. Song điều đáng lưu ý ở đây, không phải toàn bộ ý thức nói chung của chủ thể là nhân tố chủ quan. ý thức của chủ thể tồn tại với tư cách là yếu tố của nhân tố khách quan là bộ phận ý thức đã trở thành sự chỉ đạo, sự kích thích và là phương châm của hoạt động, nói cách khác là ý thức đã biến thành đặc điểm nhất định của hành vi, của hoạt động của chủ thể [35, tr. 19].
Thứ hai: Nói tới nhân tố chủ quan là nói tới hoạt động có ý thức của chủ thể (con người cụ thể, của giai cấp, của chính đảng ...) để sáng tạo ra lịch sử; là nói tới những hoạt động thực tiễn của họ để giải quyết những nhiệm vụ lịch sử nhất định. Do đó, nhân tố chủ quan không chỉ thuần túy là ý thức của chủ thể mà còn bao gồm cả bản thân quá trình hoạt động đó. Nhấn mạnh vai trò của hoạt động cải tạo thế giới của con người với tư cách là chủ thể, Mác viết: "Tư tưởng căn bản không thực hiện được gì hết, muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn" [32, tr. 187]. Từ những nội dung trên đây, chúng tôi cho rằng, cấu thành nhân tố chủ quan còn bao gồm cả quá trình hoạt động cải tạo thực tiễn của chủ thể đối với một khách thể xác định.
Thứ ba: Sức mạnh hoạt động thực tiễn của các chủ thể lịch sử - xã hội là sự thống nhất biện chứng giữa sức mạnh thể chất và sức mạnh tinh thần. Do đó, thuộc về nhân tố chủ quan còn bao gồm cả những phẩm chất, những trạng thái thuộc về năng lực thể chất của chủ thể. Tức là, khi chủ thể được xem xét là con người cụ thể thì đó là phẩm chất, thể lực. Còn khi chủ thể được xem xét với tính cách là một tổ chức, một lực lượng xã hội thì điều đó được xem xét dưới góc độ là tính tổ chức; sự phối kết hợp giữa những bộ phận cấu thành nên tổ chức hay lực lượng xã hội đó. Bởi vì, trong quá trình lịch sử, các chủ thể lịch sử được xem xét tùy theo cấp độ đó là những con người cá biệt với ý thức ý chí và khả năng hoạt động của họ...; mặt khác còn xem xét ở cấp độ đó là những lực lượng xã hội (như giai cấp, đảng phái...).
Như chúng ta đều biết, bất cứ một chủ thể lịch sử - xã hội nào, cho dù ở các vị trí và địa vị xã hội khác nhau, trong hoạt động và tồn tại đều gắn liền với một điều kiện khách quan xác định cụ thể. Do vậy, trong mỗi hoạt động của chủ thể, các yếu tố hợp thành điều kiện khách quan rất phong phú và đa dạng, bao gồm nhiều mặt. Như, các yếu tố, các kết cấu vật chất tồn tại dưới dạng có sẵn trong tự nhiên; các yếu tố vật chất tồn tại dưới dạng xã hội. Những yếu tố có tính vật chất, cùng với các yếu tố tinh thần như tư tưởng, tâm lý, tập quán ... đang tồn tại hiện thực trong xã hội hợp thành một hoàn cảnh để chủ thể tồn tại và hoạt động - đó cũng là điều kiện khách quan.
Trong nghiên cứu, khi đề cập tới khái niệm điều kiện khách quan các nhà nghiên cứu cũng đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau và cũng đã đưa ra những quan niệm về cơ bản thống nhất với nhau về khái niệm đó, chẳng hạn:
- Những điều kiện khách quan là tất cả những gì tạo nên một hoàn cảnh hiện thực quy định và tác động lên mọi hoạt động của chủ thể, tồn tại không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể hoạt động [4, tr. 19].
- Điều kiện khách quan là tổng thể các mặt, các nhân tố tạo nên một hoàn cảnh hiện thực tồn tại bên ngoài, độc lập với chủ thể và tác động vào hoạt động của chủ thể trong hoàn cảnh cụ thể đó [35, tr. 12].
- Điều kiện khách quan là những yếu tố tạo nên một hoàn cảnh hiện thực tồn tại bên ngoài, độc lập với chủ thể đang hoạt động ở những thời điểm cụ thể nhất định và có tham gia vào việc quy định kết quả hoạt động của chủ thể [36, tr. 16].
Kế thừa những quan niệm đó, chúng tôi hiểu: Điều kiện khách quan là tổng thể các mặt, các yếu tố, các mối quan hệ tồn tại ở bên ngoài chủ thể, độc lập với chủ thể, hợp thành một hoàn cảnh hiện thực, thường xuyên tác động, quy định hoạt động của chủ thể trong mỗi hoạt động xác định.
Từ khái niệm điều kiện khách quan như chúng tôi đã nêu trên cho thấy: Điều kiện khách quan đó là hoàn cảnh chủ thể tồn tại và hoạt động, nó quyết định hoạt động của chủ thể. Bởi vì "Bất kỳ một hoạt động nào của chủ thể cũng có thể được thực hiện khi có những điều kiện nhất định. Những điều kiện đó đóng vai những tiền đề của hoạt động" [61, tr. 71-72].
Xét về các yếu tố cấu thành điều kiện khách quan, trước hết phải nói đến những điều kiện vật chất tạo nên một hoàn cảnh hiện thực, độc lập với chủ thể xác định và quy định hoạt động của chủ thể đó. Nếu như các điều kiện vật chất bao giờ cũng là những điều kiện khách quan xét trong mối tương quan chung với ý thức, song điều kiện khách quan được xác định cụ thể lại không phải chỉ là những điều kiện vật chất mà còn bao gồm cả những yếu tố thuộc lĩnh vực ý thức, tư tưởng. Những hiện tượng tinh thần, ý thức tồn tại khách quan đối với một chủ thể cụ thể, ảnh hưởng đến hoạt động của chủ thể, đó cũng là yếu tố cấu thành điều kiện khách quan.
Như vậy những yếu tố vật chất và tinh thần tư tưởng tồn tại khách quan với chủ thể cụ thể, cấu thành hoàn cảnh và tác động đến hoạt động của chủ thế đó đều là những bộ phận cấu thành điều kiện khách quan.
Nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Theo quan điểm mác xít, nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó điều kiện khách quan là tính thứ nhất, nó quy định nhân tố chủ quan. Vai trò này của điều kiện khách quan được thể hiện trên các mặt sau đây:
Một là: Hoạt động của chủ thể là quá trình thực hiện mục đích nhằm để thỏa mãn nhu cầu. Vai trò quy định của điều kiện khách quan đối với nhân tố chủ quan thể hiện ở chỗ, mục đích, mục tiêu chủ thể đặt ra phải xuất phát từ những điều kiện và khả năng của hiện thực. Đối với con người nói chung, đối với một chủ thể xác định nói riêng nào đó không phải là họ muốn làm gì, mà họ có thể làm gì. Do đó, chỉ những mục tiêu nào của chủ thể xuất phát từ khả năng của hiện thực, của điều kiện khách quan thì hoạt động của chủ thể mới có khả năng thành công. Khẳng định điều đó, Lênin đã từng viết: "Thật ra, mục đích của con người là do thế giới khách quan sản sinh ra và lấy thế giới khách quan làm tiền đề" [27, tr. 201].
Hai là: Điều kiện khách quan quy định hoạt động thực tiễn của chủ thể. Tức là, phương thức hoạt động thực tiễn của chủ thể nó bị quy định bởi điều kiện, hoàn cảnh khách quan. Nói về điều này, Mác viết:
Nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà có thể giải quyết được, vì khi xét kỹ hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi những điều kiện vật chất nhiệm vụ đó đã có rồi, hay ít ra cũng đang ở qua trình hình thành [33, tr. 16].
Từ luận điểm của Mác cho thấy điều kiện khách quan là yếu tố chi phối và quyết định đến phương tiện và phương pháp hành động của chủ thể.
Ba là: Điều kiện khách quan quy định sự phát triển của nhân tố chủ quan. Điều đó cũng có nghĩa, tùy ở điều kiện khách quan mà đòi hỏi chủ thể hoạt động cải tạo điều kiện đó phải có những phẩm chất tương ứng. Khi điều kiện khách quan đã thay đổi thì nhân tố chủ quan cũng phải thay đổi theo cho phù hợp với sự đòi hỏi của điều kiện khách quan mới.
Tuy bị điều kiện khách quan quy định, nhưng nhân tố chủ quan không phải thụ động hoàn toàn, mà nó có tính tích cực; tính độc lập tương đối của nó. Vai trò tích cực và sự tác động sáng tạo trở lại của nhân tố chủ quan đối với điều kiện khách quan, đó là: Dựa trên năng lực nhận thức của mình, chủ thể xem xét, đánh giá điều kiện khách quan, từ đó chủ thể đặt ra phương hướng, phương thức để thực hiện nhiệm vụ đã đặt ra. Ngoài ra, nhân tố chủ quan, bằng hoạt động thực tiễn, chủ thể đã cải tạo điều kiện, hoàn cảnh khách quan; tạo ra những điều kiện khách quan thuận lợi cho hoạt động của mình. Thực chất vai trò nhân tố chủ quan ở đây, là sự phát hiện ra những khả năng khách quan, trên cơ sở những điều kiện, phương tiện vật chất vốn có của hoàn cảnh khách quan để biến đổi hoàn cảnh theo quy luật vận động vốn có của nó.
1.1.2. Vai trò nhân tố chủ quan trong sự phát triển xã hội
Lịch sử xã hội là lịch sử của con người, do con người. Hành động làm nên lịch sử xã hội đầu tiên của con người, đó là con người tiến hành cải tạo thế giới tự nhiên nhằm đáp ứng những nhu cầu của mình. Khẳng định điều đó, trước đây Lênin đã từng chỉ ra: "Thế giới không thỏa mãn con người và con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của mình" [28, tr. 229]. Chính bằng hoạt động cải tạo tự nhiên, con người đã xác lập nên mối quan hệ khách quan giữa con người với con người trong việc cải tạo tự nhiên, từ đó tạo ra các quan hệ xã hội của con người và tạo thành xã hội. Do đó "xã hội với tính cách là hệ thống là tổng thể những hình thức hoạt động khác nhau của con n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUANVAN.doc
- MUCLUC1.doc