Tháng 01 năm 1993, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp Trung ương Đảng khoá VII đó ban hành Nghị quyết về chớnh sỏch dõn số và kế hoạch hoỏ gia đỡnh (DS - KHHGĐ) nhằm giải quyết cơ bản về vấn đề dân số, tiến tới ổn định quy mô dân số của nước ta. Văn kiện Đại hội IX của Đảng cũng khẳng định: “Chính sách dân số nhằm chủ động kiểm soát quy mô và tăng chất lượng dân số phù hợp với những yêu cầu phát triển kinh tế - xó hội. Nõng cao chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đỡnh; giải quyết tốt mối quan hệ giữa phõn bố dõn cư hợp lý với quản lý dõn số và phỏt triển nguồn nhõn lực” [13, tr.107]. Thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng về chính sách dân số, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh dân số (PLDS) ngày 9/1/2003, Chủ tịch nước ký Lệnh ban hành ngày 22/1/2003, tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm hành lang pháp lý cho việc tổ chức thực hiện công tác dân số; điều chỉnh thống nhất, định hướng toàn diện vấn đề dân số, bao gồm quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư, chất lượng dân số, các biện pháp thực hiện công tác dân số.
Tuy nhiên, từ khi PLDS được ban hành, năm 2003 tỷ lệ dân số của cả nước lại tăng lên rõ rệt, từ 1,32% năm 2002 lên 1,47% năm 2003, tương đương mức tăng của năm 1999. Đến năm 2004 - 2005, xu hướng tăng dân số tuy bước đầu được kiểm soát nhưng cả nước vẫn không có khả năng thực hiện chỉ tiêu giảm mức tăng dân số xuống còn 1,22% vào năm 2005 như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra. Số liệu thống kê cho thấy, ở 38 tỉnh/ thành phố trong tổng số 64 tỉnh/thành phố của cả nước, mức sinh đã tăng lên [71, tr.3]. Điều đáng lo ngại là tỷ lệ sinh con thứ ba ở các thành phố lớn, như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, tăng lên khá cao so với năm trước đó. Một số cán bộ công nhân viên và thậm chí cả đảng viên cũng lợi dụng sự thiếu chặt chẽ, chưa rõ ràng trong một vài điều của PLDS để sinh con thứ ba. Điều này cho thấy, kết quả đạt được của công tác dân số chưa thực sự vững chắc, chất lượng dân số thấp, vẫn chứa đựng nhiều yếu tố tiềm ẩn dẫn đến sự bùng nổ dân số trở lại.
Trước sự gia tăng dân số như vậy, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ. Nghị quyết nhấn mạnh, thực hiện chính sách dân số, DS - KHHGĐ là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trước mắt. Mục tiêu nhanh chóng đạt mức sinh thay thế đảm bảo trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ chỉ có một hoặc hai con, tiến tới ổn định quy mô dân số ở mức 115 - 120 triệu người vào giữa thế kỷ XXI. Đồng thời nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ, tinh thần và cơ cấu nhằm cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để làm tốt những điều này, đòi hỏi các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các đoàn thể xã hội phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu thực hiện PLDS và Nghị quyết 47- NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ.
Trước tiên cần tiến hành những nghiên cứu đánh giá về nhận thức, thái độ và sự thực hiện PLDS của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý (CBLĐ QL) các cấp. Ở mỗi địa phương, khu vực có hướng điều chỉnh và truyền thông, hướng dẫn việc thực hiện PLDS nhằm đạt tới những mục tiêu mà chương trình quốc gia về dân số, dân số - phát triển (DSPT) đã đề ra. Nghiên cứu ở từng địa bàn của mỗi tỉnh đang trở thành một nhiệm vụ cấp thiết.
Yên Bái là một tỉnh miền núi phía Bắc, từ khi Nhà nước ban hành PLDS tỉ lệ sinh con thứ 3 tăng, trong đó có nhóm cán bộ, đảng viên. Năm 2002 tỉ lệ sinh con thứ 3 ở Yên Bái là 10,55%, 2003 là 12,9% đến năm 2004 mức này là 11,6%, năm 2005 là 12% và 6 tháng đầu năm 2006 là 12,45%. Như vậy, sau ba năm thực hiện PLDS, tỷ lệ sinh con thứ ba đều cao hơn mức của năm 2002. Đây là một điều đáng lo ngại ở tỉnh Yên Bái. Do vậy, chọn đề tài về “Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lónh đạo - quản lý đối với pháp lệnh dân số” là đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn, góp phần giúp các cơ quan nhà nước thực hiện thành công những mục tiêu mà chương trình dân số, DSPT của Yên Bái đã đặt ra.
98 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1165 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Nhận thức, thái độ và hành vi của cán độ lãnh đạo quản lý đối với pháp lệnh dân số, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thỏng 01 năm 1993, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp Trung ương Đảng khoỏ VII đó ban hành Nghị quyết về chớnh sỏch dõn số và kế hoạch hoỏ gia đỡnh (DS - KHHGĐ) nhằm giải quyết cơ bản về vấn đề dõn số, tiến tới ổn định quy mụ dõn số của nước ta. Văn kiện Đại hội IX của Đảng cũng khẳng định: “Chớnh sỏch dõn số nhằm chủ động kiểm soỏt quy mụ và tăng chất lượng dõn số phự hợp với những yờu cầu phỏt triển kinh tế - xó hội. Nõng cao chất lượng cỏc dịch vụ chăm súc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoỏ gia đỡnh; giải quyết tốt mối quan hệ giữa phõn bố dõn cư hợp lý với quản lý dõn số và phỏt triển nguồn nhõn lực” [13, tr.107]. Thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng về chính sách dân số, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh dân số (PLDS) ngày 9/1/2003, Chủ tịch nước ký Lệnh ban hành ngày 22/1/2003, tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm hành lang pháp lý cho việc tổ chức thực hiện công tác dân số; điều chỉnh thống nhất, định hướng toàn diện vấn đề dân số, bao gồm quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư, chất lượng dân số, các biện pháp thực hiện công tác dân số.
Tuy nhiên, từ khi PLDS được ban hành, năm 2003 tỷ lệ dân số của cả nước lại tăng lên rõ rệt, từ 1,32% năm 2002 lên 1,47% năm 2003, tương đương mức tăng của năm 1999. Đến năm 2004 - 2005, xu hướng tăng dân số tuy bước đầu được kiểm soát nhưng cả nước vẫn không có khả năng thực hiện chỉ tiêu giảm mức tăng dân số xuống còn 1,22% vào năm 2005 như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra. Số liệu thống kê cho thấy, ở 38 tỉnh/ thành phố trong tổng số 64 tỉnh/thành phố của cả nước, mức sinh đã tăng lên [71, tr.3]. Điều đáng lo ngại là tỷ lệ sinh con thứ ba ở các thành phố lớn, như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, tăng lên khá cao so với năm trước đó. Một số cán bộ công nhân viên và thậm chí cả đảng viên cũng lợi dụng sự thiếu chặt chẽ, chưa rõ ràng trong một vài điều của PLDS để sinh con thứ ba. Điều này cho thấy, kết quả đạt được của công tác dân số chưa thực sự vững chắc, chất lượng dân số thấp, vẫn chứa đựng nhiều yếu tố tiềm ẩn dẫn đến sự bùng nổ dân số trở lại.
Trước sự gia tăng dân số như vậy, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ. Nghị quyết nhấn mạnh, thực hiện chính sách dân số, DS - KHHGĐ là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trước mắt. Mục tiêu nhanh chóng đạt mức sinh thay thế đảm bảo trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ chỉ có một hoặc hai con, tiến tới ổn định quy mô dân số ở mức 115 - 120 triệu người vào giữa thế kỷ XXI. Đồng thời nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ, tinh thần và cơ cấu nhằm cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để làm tốt những điều này, đòi hỏi các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các đoàn thể xã hội phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu thực hiện PLDS và Nghị quyết 47- NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ.
Trước tiên cần tiến hành những nghiên cứu đánh giá về nhận thức, thái độ và sự thực hiện PLDS của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý (CBLĐ QL) các cấp. ở mỗi địa phương, khu vực có hướng điều chỉnh và truyền thông, hướng dẫn việc thực hiện PLDS nhằm đạt tới những mục tiêu mà chương trình quốc gia về dân số, dân số - phát triển (DSPT) đã đề ra. Nghiên cứu ở từng địa bàn của mỗi tỉnh đang trở thành một nhiệm vụ cấp thiết.
Yên Bái là một tỉnh miền núi phía Bắc, từ khi Nhà nước ban hành PLDS tỉ lệ sinh con thứ 3 tăng, trong đó có nhóm cán bộ, đảng viên. Năm 2002 tỉ lệ sinh con thứ 3 ở Yên Bái là 10,55%, 2003 là 12,9% đến năm 2004 mức này là 11,6%, năm 2005 là 12% và 6 tháng đầu năm 2006 là 12,45%. Như vậy, sau ba năm thực hiện PLDS, tỷ lệ sinh con thứ ba đều cao hơn mức của năm 2002. Đây là một điều đáng lo ngại ở tỉnh Yên Bái. Do vậy, chọn đề tài về “Nhận thức, thỏi độ và hành vi của cỏn bộ lónh đạo - quản lý đối với phỏp lệnh dõn số” là đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn, góp phần giúp các cơ quan nhà nước thực hiện thành công những mục tiêu mà chương trình dân số, DSPT của Yên Bái đã đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm vừa qua, do yêu cầu cả về lý luận và thực tiễn, đã có không ít các công trình nghiên cứu trên các phương diện khác nhau về DS - KHHGĐ, DSPT, sức khoẻ sinh sản (SKSS). Tuy nhiên, nghiên cứu về tác động của PLDS tới nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng dân cư nhất là của CBLĐQL thì chưa có nhiều. Mới có một số công trình nghiên cứu được tập hợp như sau:
Tác giả Lê Thi đã có 2 bài viết.
Bài viết thứ nhất “Tác động của những yếu tố tâm lý đến sự gia tăng mức sinh nhanh hiện nay” (Tạp chí Dân số và phát triển số 12/2004). Tác giả đã chỉ ra những nguyên nhân khách quan dẫn đến sự gia tăng dân số trở lại. Những yếu tố tâm lý đang hiện diện trong tâm thức của người Việt Nam. Người dân nhận thức sai lầm về PLDS, trong đó có nêu lên sự tự nguyện của người dân trong việc sinh con. Từ đó bài viết đề cập giải quyết những vấn đề tâm lý không thể áp đặt thô bạo, cần phải có lý lẽ thuyết phục, những biện pháp tiến hành tế nhị, sâu sắc mới có thể thành công.
Bài thứ hai “Gia tăng dân số đột biến sẽ làm trầm trọng thêm nạn nghèo đói và sự tụt hậu của Việt Nam” (Tạp chí dân số và phát triển số 2/2005). Tác giả đề cập đến hậu quả của sự gia tăng dân số dẫn đến đói nghèo khiến các chi phí cho y tế, giáo dục, văn hoá của Nhà nước không đáp ứng nổi. Tuy nhiên, đói nghèo do nhiều nguyên nhân nhưng vấn đề cơ bản chính là gia đình nghèo đông con. Vì vậy, cả xã hội phải tham gia công tác kế hoạch hoá trong việc sinh đẻ của các gia đình.
Tác giả Nguyễn Quỳnh Anh cũng có bài viết: “Pháp lệnh dân số nâng cao trách nhiệm của công dân, gia đình và xã hội” (Tạp chí Cộng sản số 27/ 2003). Tác giả đề cập đến một số quy định trong PLDS, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân về DS - KHHGĐ. Trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số.
Tác giả Nguyễn Thị Vũ Thành, Lê Cự Linh cũng đã có bài viết: “Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến sinh con thứ 3 trở lên ở Hà Nội” (Tạp chí dân số và phát triển số 6/2005). Tác giả chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến việc sinh con thứ 3. Trong đó nghiên cứu cho thấy một bộ phận các cặp vợ chồng đã hiểu sai, hoặc cố ý làm sai PLDS.
Bên cạnh đó còn có luận văn thạc sỹ Xã hội học của Nguyễn Hữu Cường (2005) về đề tài “Cán bộ các ban Đảng với việc thực hiện các chủ trương, chính sách dân số - phát triển/sức khoẻ sinh sản”, đã đi sâu phân tích, đánh giá, dự báo về xu hướng biến đổi và đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao nhận thức, thái độ và sự tham gia tích cực, có hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công chức các ban Đảng vào công tác xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách DSPT/SKSS.
Nghiên cứu “Đánh giá thái độ của các nhóm đối tượng đối với các qui định của chính sách DS - KHHGĐ” do TS. Nguyễn Đức Mạnh và các cộng sự thực hiện vào năm 2005 cũng đã chỉ rõ thực trạng nhận thức và thái độ của các nhóm đối tượng đối với một số quy định của chính sách DS - KHHGĐ và PLDS như: các quy định về tuổi kết hôn; về quy mô gia đình; về khoảng cách giữa các lần sinh; về không phân biệt giới tính; cấm lựa chọn giới tính thai nhi qua siêu âm; các quy định về sử dụng các biện pháp tránh thai; khám thai đối với phụ nữ mang thai; nạo phá thai, về phòng tránh các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản và các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/ADIS; các quy định giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản vị thành niên. Trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm góp phần bổ sung, sửa đổi hoàn thiện chính sách phù hợp với yêu cầu công tác DS - KHHGĐ trong thời gian tới.
Ngoài ra, khi tìm hiểu về nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ đảng viên với chính sách dân số đã có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập ở những góc độ khác nhau. Tuy những nghiên cứu này được thực hiện vào thời điểm trước PLDS nhưng chúng đã cung cấp những nội dung, phương hướng, cách thức tiếp cận với vấn đề mà luận văn này đang hướng tới. Có thể kể tới một số công trình nghiên cứu sau: Đề tài nghiên cứu khoa học về “Nhận thức, thái độ và thực hiện của đảng viên là cán bộ lãnh đạo chủ chốt và tổ chức đảng đối với Nghị quyết về chính sách DS - KHHGĐ” do TS. Đào Trọng Cảng và cộng sự tiến hành năm 1994 - 1995; “Thực trạng nhận thức và chỉ đạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, sau 2 năm thực hiện Nghị quyết TW4 của Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ” do GS. Chung á và cộng sự tiến hành năm 1993 - 1995. Các nghiên cứu này đã khẳng định vai trò quan trọng của các cấp uỷ Đảng và CBLĐQL trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác DS - KHHGĐ. Những vấn đề liên quan đến nhận thức, thái độ và hành vi lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chương trình dân số, DS - KHHGĐ của CBLĐQL các cấp cũng đã được đề cập. Trên cơ sở này mà đề xuất một số khuyến nghị có giá trị thiết thực như: Nhanh chóng trang bị những kiến thức cơ bản và cần thiết về DS - KHHGĐ cho CBLĐQL ở các cấp; nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý này. Tăng cường đầu tư kinh phí và trang thiết bị cho các địa phương để thực hiện công tác DS - KHHGĐ.
Năm 1997, PGS.TS. Nguyễn Hữu Tri đã thực hiện đề tài“Đánh giá nhận thức và vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước các cấp trong việc thực hiện chính sách DS - KHHGĐ”. Đề tài đã tiến hành nghiên cứu trên 20 đơn vị thuộc ba miền: Bắc, Trung và Nam. Đề tài tập trung vào việc đánh giá mức độ nhận thức của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước các cấp trong việc thực hiện các chính sách DS - KHHGĐ. Từ đó đưa ra một số khuyến nghị cụ thể nhằm nâng cao vai trò và nhận thức của cán bộ quản lý hành chính nhà nước đối với các vấn đề liên quan đến DS - KHHGĐ.
Năm 1999, nghiên cứu của Hoàng Xuân Trường, TS. Nguyễn Phương Hồng đã tiến hành “Khảo sát, đánh giá vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng và cán bộ chủ chốt các cấp trong việc thực hiện Nghị quyết TW4 (Khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ ở nước ta”. Nghiên cứu này đã chỉ ra thực trạng lãnh đạo của các tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể xã hội ở tỉnh, huyện và cơ sở trong việc thực hiện Nghị quyết TW4 (Khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ. Qua đó đề xuất và khuyến nghị, các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của tổ chức đảng và cán bộ chủ chốt với công tác DS - KHHGĐ.
Năm 2001, trong khuôn khổ dự án VIE/97/P16 do Trung tâm nghiên cứu dư luận xã hội thuộc Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương đã tiến hành đề tài: “Nghiên cứu nhận thức, thái độ và sự tham gia của các nhà lãnh đạo, quản lý và chuyên gia các cấp trong việc hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách dân số - SKSS và phát triển”. Công trình này đề cập đến nhận thức, thái độ và hoạt động tuyên truyền vận động với sự tham gia của các nhà lãnh đạo, quản lý, các chuyên gia, những người có uy tín trong cộng đồng trong hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách, chương trình DSPT/SKSS. Trên cơ sở đó đề xuất các khuyến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thông tin, tuyên truyền về các chủ trương, chính sách, chiến lược DSPT/SKSS.
Có thể thấy rằng, các nghiên cứu về nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL với dân số, DSPT/SKSS là khá phong phú. Các nghiên cứu đã góp phần làm rõ thực trạng nguyên nhân, xu hướng biến chuyển trong nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL với công tác dân số, DS - KHHGĐ và DSPT trong thời gian qua. Song đến nay vẫn chưa có những công trình nghiên cứu nào đề cập một cách toàn diện và sâu sắc tác động của PLDS với nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng dân cư nhất là của nhóm CBLĐQL các cấp. ở địa phương như Yên Bái, các công trình nghiên cứu như vậy càng hiếm hơn. Do vậy, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài "Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với pháp lệnh dân số" làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ xã hội học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:
Luận văn tập trung vào làm rõ thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL ở tỉnh Yên Bái đối với PLDS, trên cơ sở này đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn chỉnh PLDS và các văn bản có liên quan, nâng cao hiệu lực và hiệu quả việc thực hiện PLDS.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được các mục tiêu trên luận văn tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản sau:
- Xác định và làm rõ một số khái niệm đặt cơ cở cho việc nghiên cứu như: nhận thức, thái độ, hành vi, PLDS, CBLĐQL.
- Xác định cơ sở lý luận và những lý thuyết xã hội học cho việc nghiên cứu như lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và các lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết cơ cấu chức năng, lý thuyết dân số.
- Thu thập, phân tích các tài liệu có sẵn và khảo sát xã hội học để chỉ ra thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với việc tiếp thu, thực hiện PLDS và những văn bản có liên quan.
- Xác định những yếu tố tác động đến nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS.
- Dự báo xu hướng và đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp góp phần hoàn chỉnh PLDS và nâng cao nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL trong việc cụ thể hoá và thực hiện có hiệu quả PLDS.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu:
Nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL các cấp tỉnh, huyện và cơ sở xã, phường của Yên Bái với PLDS.
* Khách thể nghiên cứu:
Cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp ở tỉnh Yên Bái.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: tỉnh Yên Bái.
- Thời gian: Từ sau khi ban hành PLDS (2003) đến nay.
5. Giả thuyết nghiên cứu, hệ biến số và khung lý thuyết của luận văn
* Giả thuyết nghiên cứu:
- PLDS có điểm quy định thiếu rõ ràng nên một bộ phận CBLĐQL có nhận thức, thái độ và hành vi chưa đúng.
- Công tác truyền thông về PLDS chưa đồng bộ, thiếu nhất quán nên một bộ phận CBLĐQL quán triệt chưa cụ thể, thiếu rõ ràng nên thực hiện pháp lệnh chưa tốt.
- Nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS phụ thuộc khá nhiều vào đặc điểm cá nhân như tuổi, giới tính, trình độ học vấn, dân tộc, cấp công tác và khối công tác.
* Khung lý thuyết:
Hành vi:
- Gương mẫu thực hiện.
- Tham gia tổ chức thực hiện.
- Tuyên truyền, vận động
Tuổi
Cán bộ lãnh đạo, quản lý
Giới tính
Môi trường KT -XH
Thái độ:
- ủng hộ hay không ủng hộ.
- Tích cực hay không tích cực.
Học vấn
Chính sách dân số
Dân tộc
Pháp lệnh dân số
Cấp công tác
Nhận thức:
- Nội dung PLDS.
- Trách nhiệm cá nhân đối với PLDS.
- Trách nhiệm của cơ quan đối với PLDS.
- Nghị quyết 47/ BCT.
Khối công tác
*Hệ biến số:
Đề tài đã xác định hệ thống các biến số như sau:
+ Biến số độc lập:
Đặc điểm cá nhân:
- Độ tuổi.
- Giới tính.
- Học vấn : Trung học phổ thông, trung cấp, cao đẳng trở lên.
- Dân tộc.
- Cấp công tác: Cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, phường.
- Khối công tác: Khối Đảng, khối chính quyền, khối đoàn thể, khối doanh nghiệp.
+ Biến số phụ thuộc:
Nhận thức:
- Thời điểm ra đời của PLDS.
- Pháp lệnh dân số quy định về trách nhiệm công dân.
- Những quy định của PLDS về trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị.
- Tiếp thu PLDS qua kênh truyền thông nào? hình thức nào?
- Truyền thông có gì khác biệt giữa các kênh khác nhau.
- Mức hiểu biết về Nghị quyết số 47- NQ/TW của Bộ Chính trị
Thái độ:
- Pháp lệnh dân số ra đời đúng thời điểm chưa?
- Mức độ ủng hộ của CBLĐQL đối với sự ra đời của PLDS
- Cán bộ có sẵn sàng tiếp thu tổ chức thực hiện PLDS không?
- Mức độ cần thiết ban hành Nghị quyết số 47- NQ/TW của Bộ Chính trị.
Hành vi:
- Gương mẫu thực hiện.
- Tuyên truyền vận động người khác thực hiện.
- Tham gia tổ chức chỉ đạo thực hiện: Nêu ý kiến sửa đổi, tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện và đầu tư nguồn lực.
+ Biến trung gian:
Chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và môi trường kinh tế xã hội.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận:
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước về dân số và chính sách DS - KHHGĐ và DSPT/SKSS.
- Dựa trên các lý thuyết xã hội học như: Lý thuyết cơ cấu chức năng, lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết dân số.
* Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Luận văn sử dụng các phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu sau:
+ Phương pháp nghiên cứu định tính:
- Phân tích tài liệu có sẵn: Thu thập và phân tích các tài liệu bao gồm: các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài; Niên giám thống kê của tỉnh; Các báo cáo về công tác DS - KHHGĐ và DSPT/SKSS của tỉnh từ năm 2002 đến nay.
- Phỏng vấn sâu 12 cuộc, trong đó CBLĐQL thuộc cơ quan đảng (3 cuộc), uỷ ban nhân dân (3 cuộc), hội đồng nhân dân (3 cuộc), tổ chức đoàn thể (3 cuộc).
+ Phương pháp nghiên cứu định lượng:
Đề tài thực hiện điều tra xã hội học 300 phiếu trưng cầu ý kiến.
+ Giới tính người trả lời :
Nam giới : 67%
Nữ giới : 33%
+ Về độ tuổi:
Dưới 30 tuổi : 15,9%
Từ 31 - 40 tuổi : 31,4%
Từ 41 - 50 tuổi : 46,2%
Trên 51 tuổi : 6,5%
+ Về dân tộc:
Kinh : 78,3%
Dân tộc thiểu số : 21,7%
+ Học vấn:
Trung học phổ thông : 6,7%
Trung cấp : 25,7%
Cao đẳng trở lên : 67,6%
+ Khối cơ quan:
Khối Đảng : 19,7%
Khối chính quyền : 54,0%
Khối đoàn thể : 17,7%
Khối doanh nghiệp : 8,6%
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* ý nghĩa lý luận:
Trên cơ sở vận dụng các lý thuyết xã hội học như lý thuyết cơ cấu chức năng, lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết dân số để phân tích và lý giải hành vi của nhóm CBLĐQL với việc giải quyết vấn đề dân số, DSPT, thực hiện PLDS. Luận văn sẽ góp phần làm rõ tính quy luật trong hành vi của CBLĐQL trong việc sinh sản và nâng cao chất lượng dân số.
* ý nghĩa thực tiễn:
- Đề tài góp phần làm rõ thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của đội ngũ CBLĐQL các cấp trong việc thực hiện PLDS ở một tỉnh miền núi phía Bắc có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Trên cơ sở này mà góp phần đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao năng lực cũng như sự tham gia tích cực, có hiệu quả của CBLĐQL vào quá trình hoàn chỉnh và thực hiện PLDS.
- Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, cho đội ngũ giáo viên, học viên trong hệ thống trường chính trị khi tiếp cận và tham gia tuyên truyền, thực hiện PLDS.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 10 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS
Chương 3: Một số giải pháp, khuyến nghị nhằm hoàn chỉnh và nâng cao chất lượng thực hiện PLDS
Chương 1
Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Nhận thức
Theo từ điển Tiếng Việt, nhận thức là nhận ra và biết được, hiểu được về một ai đó, một vấn đề hay một hiện tượng nào đó [36, tr. 89].
Nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư duy, là quá trình con người nhận biết và hiểu biết thế giới khách quan. Quá trình ấy đi từ cảm giác đến tri giác, từ tri giác đến tri thức. Diễn ra ở mấy mức độ:
- Kinh nghiệm hàng ngày về các đồ vật và người khác, mang tính tự phát, thường hỗn hợp với tình cảm, thành kiến, thiếu hệ thống.
- Khoa học, các khái niệm được kiến tạo một cách chặt chẽ, có hệ thống, với ý thức về phương pháp và những bước đi của tư duy để chứng nghiệm đúng sai.
Ngày nay đa số các nhà khoa học cho rằng nhận thức là một quá trình tiếp cận, tiến đến gần chân lý, nhưng không bao giờ ngừng ở một trình độ nào vì không bao giờ nắm bắt hết toàn bộ hiện thực, phải thải loại dần những cái sai, tức không ăn khớp với hiện thực, đi hết bước này sang bước khác [84, tr.250].
Nhận thức của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với Pháp lệnh dân số:
Là quá trình phản ánh, thu nhận những kiến thức về PLDS. Nghiên cứu này chú trọng tới việc tìm hiểu mức độ hiểu biết của đối tượng hay khối lượng kiến thức mà đối tượng nắm được về năm ban hành và cơ quan ban hành PLDS; Hiểu biết một số quy định về nội dung trong PLDS như: Hiểu biết đối với quy định về quy mô gia đình 1-2 con; về khoảng cách giữa các lần sinh; về quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình (KHHGĐ) (Điều 10); Hiểu biết đối với quy định cấm lựa chọn giới tính thai nhi; về quy định các biện pháp thực hiện KHHGĐ và về quy định các biện pháp nâng cao chất lượng dân số; Ngoài ra còn là hiểu biết về Nghị quyết 47-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ; Hiểu biết quy định về các biện pháp thực hiện công tác dân số.
1.1.2. Thái độ
Theo từ điển xã hội học, thái độ của một cá nhân đối với một đối tượng là một trong những nhân tố chính gắn với cá nhân và quyết định ứng xử của cá nhân đối với đối tượng [16, tr.443].
Chúng ta có thể hiểu thái độ là cách nghĩ, cách nhìn, cách hành động theo hướng nào đó trước một vấn đề.
Thái độ xuất phát chủ yếu từ những thông tin nhận được về các đối tượng, các sự vật, hiện tượng. Có thể là thông tin trực tiếp phát ra từ đối tượng, cũng có thể là gián tiếp do người khác cấp cho.
Thái độ của một người trước một sự kiện xã hội thông qua sự tán thành hoặc phản đối, thông qua hành vi tham gia hoặc không tham gia sự kiện đó. Thái độ của một người bị quy định bởi các yếu tố xã hội phụ thuộc vào các khuôn mẫu xã hội.
Theo từ điển Tâm lý, trước một số đối tượng nhất định như hàng hoá hoặc một ý tưởng nào (chính trị, tôn giáo, triết lý), nhiều người thường có những phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay chống đối, như đã sẵn có những cơ cấu tâm lý tạo ra định hướng cho việc ứng phó, đó là thái độ [84, tr.346].
Thái độ của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với Pháp lệnh dân số:
Là những quan điểm của đối tượng về PLDS. Nó được thông qua việc đánh giá về mức độ ủng hộ hay không ủng hộ một số quy định trong nội dung PLDS. Thái độ đối với ý nghĩa, tầm quan trọng của PLDS; Mức độ ủng hộ hay không ủng hộ việc tìm hiểu và thực hiện PLDS.
1.1.3. Hành vi
Mọi phản ứng của một cá nhân khi bị một yếu tố nào trong môi trường kích thích; các yếu tố bên ngoài và tình trạng bên trong gộp thành một tình huống và tiến trình ứng xử để thích ứng có định hướng, mục tiêu nhằm giúp chủ thể thích nghi với hoàn cảnh thì gọi là hành vi.
Theo từ điển Tiếng việt, hành vi là toàn bộ nói chung những phản ứng, cách cư xử, biểu hiện ra ngoài của một người trong hoàn cảnh cụ thể nhất định [36, tr.25].
Hành vi là sự chuyển tải nhận thức, thái độ thành việc làm cụ thể. Hành vi của con người ở mức độ cao là được học tập và có thể thay đổi bởi ảnh hưởng của những động viên hoặc kích thích thay đổi được của môi trường. Theo Max Weber, hành vi xã hội là điểm xuất phát của mọi quá trình xã hội. Theo Parsons, muốn giải thích một hiện tượng xã hội nào phải quy về những hành vi cá nhân sơ đẳng, coi như một sự kiện, một dữ kiện riêng.
Như vậy, hành vi bao giờ cũng phát triển trong hệ thống cưỡng chế ít hay nhiều rõ rệt đối với chủ thể. Tuy vậy nó cũng không phải hoàn toàn do các cơ cấu xã hội khách quan quy định. Nó là hành vi cá nhân diễn ra trong quá trình xã hội hoá, nó còn dựa vào những ý định và động cơ của chủ thể hành vi, cũng như vào những phương tiện thực hiện hành vi của chủ thể [83, tr.125].
Hành vi của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với pháp lệnh dân số:
Là một dạng hoạt động xã hội có mục đích của nhóm xã hội - CBLĐQL gắn với sự cần thiết phải đáp ứng những nhu cầu căn bản của quá trình nhận thức về PLDS. Hành vi nghiêm túc hay gương mẫu trong việc thực hiện PLDS; tuyên truyền vận động người khác thực hiện; Tham gia tổ chức thực hiện như nêu ý kiến sửa đổi, tuyên truyền vận động, tổ chức lãnh đạo; Tham gia đầu tư nguồn lực cho việc thực hiện PLDS.
1.1.4. Cán bộ lãnh đạo, quản lý
* Cán bộ, theo nghĩa chung nhất, là khái niệm chỉ người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước. Theo nghĩa hẹp, cán bộ chỉ người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường, không có chức vụ [54, tr.121].
* Lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức động viên thực hiện chúng [17, tr.540]. Lãnh đạo thường nhấn mạnh đến chức năng định hướng về tư tưởng, sắp xếp về cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của một hệ thống xã hội nào đó.
* Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định [17, tr.540]. Quản lý ở một góc độ nhất định thường nhấn mạnh đến chức năng điều hành, tổ chức những công việc hoặc những hoạt động cụ thể. Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý vào khách thể quản lý, hướng khách thể quản lý đến những mục tiêu đã được xác định trước.
Lãnh đạo và quản lý là hai lĩnh vực khác nhau nhưng không hoàn toàn tách biệt mà gắn bó mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau thống nhất chặt chẽ trong hoạt động của những người có chức vụ trong hệ thống tổ chức xã hội. Không nên hiểu lãnh đạo là chức năng riêng của cơ quan Đảng, cán bộ Đảng; quản lý là chức năng riêng của cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước. Trên thực tế, không có cán bộ Đảng nào chỉ lãnh đạo về mặt chính trị mà không quản lý, không có cán bộ chính quyền nào chỉ quản lý
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van.doc