Luận văn Nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội

Ngày nay sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi địa phương không chỉ dựa vào nguồn vốn, khoa học kỹ thuật công nghệ, tài nguyên mà còn dựa vào nguồn nhân lực. Nguồn lực con người là một trong những yếu tố không thể thiếu được trong mọi quá trình phát triển sản xuất xã hội nhất là trong quá trình hiện nay nước ta đang thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hà Nội với tư cách là trung tâm về chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nước nên việc phát triển của Hà Nội về mọi mặt có ý nghĩa vô cùng quan trong trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng đồng bằng sông Hồng. Trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thành phố Hà Nội có nhiều ưu thế so với các tỉnh, thành phố khác trong cả nước về cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật, hệ thống giao thông vận tải thuận lợi, bưu chính viễn thông phát triển, nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp, công ty thuộc tất cả các lĩnh vực, các ngành nghề phát triển đa dạng phong phú và đặc biệt là ưu thế về nguồn nhân lực, có trình độ chuyên môn kỹ thuật và khoa học công nghệ chiếm tỷ lệ cao nhất cả nước, đây chính là lợi thế lớn của Thủ đô Hà Nội trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá Thủ đô. Song cũng còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu.

Để thực hiện mục tiêu năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, thì vấn đề nguồn nhân lực cho phát triển ngành công nghiệp cả nước nói chung và cho ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng là hết sức cần thiết.

Nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay như thế nào: về quy mô, chất lượng, nguồn cung cấp, sự phân bố, vấn đề đào tạo bồi dưỡng và phát triển. Đó là một loạt vấn đề đang đặt ra cho sự phát triển công nghiệp Hà Nội hiện nay, vì vậy tác giả đã chọn đề tài: “Nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ - chuyên ngành Kinh tế chính trị.

 

doc94 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi địa phương không chỉ dựa vào nguồn vốn, khoa học kỹ thuật công nghệ, tài nguyên mà còn dựa vào nguồn nhân lực. Nguồn lực con người là một trong những yếu tố không thể thiếu được trong mọi quá trình phát triển sản xuất xã hội nhất là trong quá trình hiện nay nước ta đang thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hà Nội với tư cách là trung tâm về chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nước nên việc phát triển của Hà Nội về mọi mặt có ý nghĩa vô cùng quan trong trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng đồng bằng sông Hồng. Trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thành phố Hà Nội có nhiều ưu thế so với các tỉnh, thành phố khác trong cả nước về cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật, hệ thống giao thông vận tải thuận lợi, bưu chính viễn thông phát triển, nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp, công ty thuộc tất cả các lĩnh vực, các ngành nghề phát triển đa dạng phong phú và đặc biệt là ưu thế về nguồn nhân lực, có trình độ chuyên môn kỹ thuật và khoa học công nghệ chiếm tỷ lệ cao nhất cả nước, đây chính là lợi thế lớn của Thủ đô Hà Nội trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá Thủ đô. Song cũng còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu. Để thực hiện mục tiêu năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, thì vấn đề nguồn nhân lực cho phát triển ngành công nghiệp cả nước nói chung và cho ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng là hết sức cần thiết. Nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay như thế nào: về quy mô, chất lượng, nguồn cung cấp, sự phân bố, vấn đề đào tạo bồi dưỡng và phát triển... Đó là một loạt vấn đề đang đặt ra cho sự phát triển công nghiệp Hà Nội hiện nay, vì vậy tác giả đã chọn đề tài: “Nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ - chuyên ngành Kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu Cho tới nay đã có một số công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực như: - Vương Quốc Được, Xây dựng nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1999. - Trần Văn Nga, Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá qua thực tiễn Phú Thọ, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1999. - Trần Kim Hải, Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Luận án tiến sĩ, chuyên ngành Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1999. - Lê Văn Kỳ, Phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm ở Thanh Hoá, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004. - Lê thị Ngân, Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, chuyên ngành Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005. Riêng UBND thành phố Hà Nội và Sở Kế hoạch Đầu tư cũng đã tổ chức cuộc hội thảo (năm 1999) về vấn đề “Nguồn nhân lực với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá Thủ đô” trong dự án “Điều tra và kiến nghị các chính sách huy động các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội”. Nhưng cho đến nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp ở thành phố Hà Nội. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn a) Mục đích: trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội để đề xuất những giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp thành phố Hà Nội trong những năm tới. b) Nhiệm vụ: - Luận văn khái quát một số vấn đề lý luận về nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp thành phố Hà Nội. - Đánh giá thực trạng về nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp thành phố Hà Nội hiện nay. - Đưa ra phương hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp thành phố Hà Nội từ nay đến năm 2010. 4. Phạm vi nghiên cứu và cơ sở lý luận của luận văn a) Phạm vi nghiên cứu: Ngành công nghiệp ở Hà Nội được hình thành và phát triển từ thời kỳ thực dân Pháp cai trị nước ta. Sau khi độc lập, Chính phủ ta đã tiếp quản những nhà máy, xí nghiệp do Pháp xây dựng và những xí nghiệp tư bản tư nhân. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc từ 1954 đến nay Nhà nước đã xây dựng nhiều nhà máy, xí nghiệp sản xuất công nghiệp ở Hà Nội và cho duy trì phát triển một số cơ sở sản xuất công nghiệp. Cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp ở Hà Nội thì nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp cũng có nhiều thay đổi và phát triển. Đặc biệt là từ khi đổi mới đến nay, nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp Hà Nội không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá Thủ đô. Do hạn chế về số liệu thống kê và chủ yếu phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo tinh thần Đại hội VIII và IX nên luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về sự thay đổi và phát triển của nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp từ năm 1995 đến nay, chủ yếu tập trung vào những năm 1995 - 2003. Trên cơ sở đó dự đoán xu hướng phát triển nguồn nhân lực của ngành công nghiệp Hà Nội từ nay đến 2010. Luận văn nghiên cứu nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp trong tất cả các doanh nghiệp công nghiệp và cơ sở sản xuất công nghiệp đóng trên địa bàn thành phố bao gồm nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp công nghiệp nhà nước Trung ương, doanh nghiệp công nghiệp nhà nước địa phương, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các cơ sở sản xuất công nghiệp. b) Cơ sở lý luận của luận văn: - Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. - Phương pháp: luận văn sử dụng phương pháp trừu tượng hoá, lôgíc, lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê... 5. ý nghĩa của luận văn - Luận văn góp phần làm rõ lý luận nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp trên địa bàn Hà Nội. - Làm rõ thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp trên địa bàn Hà Nội. - Cung cấp cứ liệu khoa học để các cấp lãnh đạo thành phố Hà Nội tham khảo, hoạch định chính sách phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 9 tiết. Chương 1 Một số vấn đề lý luận về nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội 1.1. Nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp và vai trò của nó đối với sự phát triển ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội 1.1.1. Khái niệm về nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp Nguồn nhân lực là khái niệm mới xuất hiện trong thời gian gần đây nhưng đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Trong quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về nguồn nhân lực ở nhiều góc độ khác nhau. Trong các lý thuyết kinh tế và một số công trình nghiên cứu gần đây thì quan niệm về nguồn nhân lực được đề cập đến dưới những góc độ sau: * Theo Thuyết lao động xã hội thì nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng: Nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường (trừ những người bị dị tật). Theo nghĩa hẹp: nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động tham gia vào quá trình sản xuất xã hội. * Trong lý luận về tăng trưởng kinh tế thì nguồn nhân lực chính là nguồn lực chủ yếu tạo động lực cho sự phát triển xã hội. Vì vậy việc cung ứng đầy đủ nguồn nhân lực theo yêu cầu của nền kinh tế là yếu tố đóng vai trò quyết định đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế- xã hội. Bất cứ hiện tượng thiếu hoặc thừa sức lao động đều gây ra khó khăn cho sản xuất xã hội và ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. * Theo Thuyết về vốn con người, thì yếu tố con người được coi là yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất, là phương tiện để phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực được coi như mọi nguồn lực khác (như vốn, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, đất đai…), cho nên cần phải đầu tư cho con người. Trên thực tế việc đầu tư cho con người có tỷ lệ thu hồi vốn khá cao và mang lại nguồn lợi lớn hơn so với đầu tư vật chất. * Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp, …do mọi cá nhân sở hữu. Do đó đầu tư cho con người là đầu tư quan trọng nhất trong các loại đầu tư và được coi là cơ sở vững chắc cho sự phát triển bền vững. Theo cách tính toán của WB thì đầu tư cho giáo dục tiểu học tỷ lệ thu hồi vốn là 24% so với vốn đầu tư, cho trung học là 17%, cao đẳng và đại học là 14%, trong khi đó đầu tư vào các ngành sản xuất vật chất tỷ lệ thu hồi vốn chỉ đạt 13%. * Liên hợp quốc thì quan niệm: nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, các kĩ năng, năng lực và tính sáng tạo có quan hệ tới sự phát triển của đất nước. Có thể nói đây là yếu tố quan trọng nhất trong kết cấu hạ tầng của một quốc gia. * Theo UNDP thì nguồn nhân lực là tổng thể những năng lực (cơ năng và trí năng) của con người được huy động vào quá trình sản xuất, nguồn năng lực - nội lực đó của con người cũng chính là nội lực xã hội của một quốc gia. Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam với dân số đông nguồn nhân lực dồi dào đang trở thành một trong những nguồn nội lực quan trọng nhất và nếu biết khai thác nguồn nội lực đó một cách hiệu quả sẽ tạo ra một động lực to lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam. * Theo quan điểm của các nhà khoa học Việt Nam: nguồn nhân lực được hiểu là dân số và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, trí tuệ và sức khoẻ, năng lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc… * Theo quan điểm của tác giả Lê Thị Ngân trong luận án tiến sĩ nghiên cứu về “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam” thì nguồn nhân lực được quan niệm là tổng thể sức lao động của xã hội đang và sẽ được vận dụng cho quá trình sản xuất xã hội hay nói một cách rõ hơn: nguồn nhân lực là tổng thể những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong tổng số lực lượng lao động của xã hội và được họ đang và sẽ đem ra vận dụng để sản xuất ra hàng hoá tiêu dùng cho xã hội. Trên đây là những quan điểm của các tổ chức, các nhà khoa học trong và ngoài nước về nguồn nhân lực, có thể thấy rằng nguồn nhân lực được đề cập đến như một nguồn vốn tổng hợp với các yếu tố hợp thành: Sức lực, trí tuệ, cùng với các đặc trưng về chất lượng lao động như trình độ văn hoá, kỹ thuật, kinh nghiệm nghề nghiệp, thái độ và phong cách làm việc. ở đây con người được xem xét với tư cách là một yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, một nguồn lực chủ yếu cho sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Trong điều kiện hiện nay của nước ta, từ một nước nông nghiệp lạc hậu muốn phát triển đi lên, chúng ta đang từng bước tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mục đích của việc tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhằm thực hiện từng bước chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ sang cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của đất nước ta phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp phát triển. Để đạt được mục tiêu trên thì việc đầu tư cho phát triển công nghiệp trên phạm vi cả nước nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng là hết sức cần thiết. Muốn phát triển công nghiệp chúng ta không chỉ đầu tư về vốn, khoa học công nghệ, mà còn phải đầu tư về nguồn lực con người - đây là yếu tố quan trọng nhất đối với sự phát triển của nền kinh tế xã hội nói chung và đối với sự phát triển của các ngành công nghiệp nói riêng. Trên cơ sở kế thừa lý luận của các nhà khoa học về nguồn nhân lực cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung và cho ngành công nghiệp nói riêng theo quan điểm của tác giả luận văn thì nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp là tổng thể năng lực của con người (thể lực và trí lực) được huy động vào quá trình sản xuất công nghiệp nhằm phục vụ cho sự phát triển của các ngành công nghiệp. Nó là nguồn nội lực quan trọng nhất của một quốc gia đặc biệt là đối với những nước đang phát triển như Việt Nam, là động lực to lớn thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung và đối với thành phố Hà Nội nói riêng. Có thể nói, sự phát triển công nghiệp và tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành phố Hà Nội có vị trí hết sức quan trọng với tư cách là trung tâm phát triển của một quốc gia, nó có tác dụng lan toả tới sự phát triển của các vùng, các tỉnh, thành phố khác trong cả nước. 1.1.2. Vai trò quan trọng của nguồn nhân lực đối với sự phát triển của ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội Vai trò quan trọng mang tính quyết định của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và quá trình phát triển công nghiệp nói riêng đã được khẳng định. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực và các tác giả đều có chung quan điểm: con người là nguồn vốn lớn nhất và quý nhất, là yếu tố quyết định nhất đối với mọi quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trong tất cả các nguồn lực, nguồn nhân lực có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt đi trong quá trình khai thác, sử dụng mà còn có khả năng tái sinh và phát triển. Nó chính là nguồn lực cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Do đó ở hầu hết các quốc gia hiện nay đều đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển và đề ra các chính sách, biện pháp nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực quan trọng này. Vai trò của nguồn nhân lực - của yếu tố con người được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin đánh giá rất cao, việc phát huy có hiệu quả nguồn nhân lực là vấn đề cơ bản nhất để phát triển sản xuất và nâng cao năng suất lao động. Trong điều kiện của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, các phát minh khoa học được áp dụng ngày càng nhiều vào sản xuất, nhưng không vì thế mà vai trò của nguồn lực con người giảm nhẹ. Chủ nghĩa Mác đã từng khẳng định: Thiên nhiên không tạo ra máy móc, đầu máy xe lửa… tất cả những thứ đó là thành quả sáng tạo của bộ óc con người, được con người tạo ra và là sức mạnh tri thức của con người được vật hoá. Điều này chứng tỏ cùng với quá trình phát triển của sản xuất, của tiến bộ khoa học được áp dụng vào sản xuất, con người cùng với tiềm năng trí tuệ có vai trò ngày càng quan trọng. Thực tiễn lịch sử cho thấy quốc gia nào phát triển công nghiệp và tiến hành công nghiệp hoá mà biết phát huy trí tuệ và sức mạnh tiềm năng của nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghiệp thì sẽ đạt được sự phát triển nhanh và ổn định, chẳng hạn như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo và các quốc gia Đông á. Ngược lại những quốc gia chỉ dựa vào điều kiện tự nhiên hoặc vốn từ bên ngoài như một số ở nước Trung Đông, Châu Phi hoặc Mỹ la tinh thì tốc độ tăng trưởng và phát triển không bền vững. Ví dụ: Nigiêria chỉ dựa vào nguồn dầu lửa - nguồn tài nguyên thiên nhiên nhưng khai thác và sử dụng lãng phí nên khi nguồn tài nguyên thiên nhiên có hạn này cạn kiệt thì trở nên nghèo khó, hoặc Braxin chỉ dựa vào nguồn vốn nước ngoài nên năm 1982 nước này rơi vào khủng hoảng về nợ nước ngoài, lạm phát tăng lớn hơn 500%/năm, thu nhập bình quân đầu người không tăng trong suốt 10 năm liền. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã làm cho nền kinh tế thế giới bước vào giai đoạn mới của sự phát triển. Đặc điểm nổi bật của nền sản xuất hiện đại là hàm lượng khoa học cao - máy móc công nghiệp đã được thiết kế theo dây chuyền công nghệ tự động, những máy móc cơ khí công nghệ cao được kết nối với máy tính, điều khiển tự động (máy CNC) làm cho năng suất lao động tăng, sản phẩm đạt mức chuẩn xác cao. Sự phát triển đó không thể thiếu được vai trò của yếu tố con người, sự phát triển của nguồn nhân lực con người và trí tuệ, tri thức về hàm lượng chất xám công nghiệp. Đây chính là nguồn tài nguyên vô giá của một quốc gia. Nó đóng vai trò to lớn trong tiến trình phát triển công nghiệp và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nước ta tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và đưa đất nước phát triển đi lên, nước ta đã từng bước tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp và dịch vụ, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Song thực tế hiện nay các nguồn lực với tư cách tiền đề để cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta còn rất hạn chế. Về khoa học công nghệ: trình độ công nghệ nước ta còn ở mức trung bình kém, nhất là trong ngành công nghiệp, so với các nước phát triển thì hệ thống máy móc thiết bị của chúng ta lạc hậu từ 2 đến 4 thế hệ, các loại vật liệu mới chỉ chiếm 5% tổng số vật liệu đang sử dụng, ngành máy cái của công nghiệp chỉ tương đương với thời kì cách đây 30 - 50 năm của các nước tư bản phát triển trên thế giới và so với các nước công nghiệp phát triển thì công nghệ của ta lạc hậu từ 50 - 100 năm. Về cơ sở hạ tầng, dịch vụ: ở nước ta còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển, thể hiện rõ nhất ở hệ thống đường giao thông, sân bay, bến cảng, điện nước… Trong số gần 200 ngàn km đường bộ chỉ có 8,5% đường dải nhựa, 65% đường đá, còn lại là đường cấp phối, đường đất. Cảng biển, sân bay thiếu về số lượng và kém về chất lượng. So với cả nước, thì cơ sở hạ tầng của Hà Nội có phát triển hơn song cũng chưa thể đảm bảo đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thủ đô. Về vốn: nền kinh tế nước ta còn rất thiếu vốn. Tỷ lệ huy động vốn đầu tư phát triển hàng năm mới chỉ đạt 23 - 24% GDP. Về tài nguyên thiên nhiên và khoáng sản: nước ta tuy phong phú về chủng loại nhưng trữ lượng không nhiều, ví dụ như: dầu khí theo dự tính trữ lượng dầu khí của nước ta chỉ tương đương với Malaixia. Nhưng dân số nước ta gấp 4 lần Malaixia. Do đó nên tính theo trữ lượng bình quân đầu người thì ta thấp hơn họ. Điều đó chứng tỏ rằng nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng chưa phải là thế mạnh của Việt Nam, hơn nữa nguồn tài nguyên thiên nhiên chỉ có trữ lượng giới hạn nên khai thác và sử dụng lãng phí thì sẽ nhanh chóng cạn kiệt. Đánh giá sơ bộ một số nguồn lực cho thấy các nguồn lực vật chất của nước ta chưa thể là tiền đề vững chắc cho quá trình phát triển đất nước, cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cuối cùng là nguồn lực con người, với số dân hiện nay của nước ta hơn 80 triệu dân, trong đó khoảng 50 triệu người trong độ tuổi lao động. Đây chính là nguồn nhân lực dồi dào và đang là lợi thế về tiềm năng quan trọng nhất mà Việt Nam hiện có. Hơn nữa, người lao động Việt nam được đánh giá là cần cù, chịu khó, thông minh…vì vậy so với bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn lực con người chiếm vị trí trung tâm, đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển công nghiệp và tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Đây là tư tưởng quan trọng trong tiến trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Sự phân tích trên đã cho thấy nguồn lực con người - nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta và tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mà trước hết thể hịên ở tiến trình phát triển công nghiệp với những máy móc công nghệ, kỹ thuật hiện đại, tiên tiến. Trong quá trình đó con người luôn giữ vai trò trung tâm và là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Với vai trò là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hoá, Hà Nội có nhiều ưu thế so với cả nước. Tính đến năm 2005, trên địa bàn thành phố Hà Nội có 47 trường Đại học, Cao đẳng, 37 trường Trung học chuyên nghiệp, 21 trường Công nhân kỹ thuật, 112 Viện nghiên cứu chuyên ngành. Đây là một lợi thế lớn so với các thành phố khác và các tỉnh trong cả nước trong việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình phát triển công nghiệp của cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng. Ngày nay với sự xuất hiện của kinh tế tri thức đã tạo ra những chuyển biến mới trong lịch sử phát triển kinh tế- xã hội. Sự phát triển của thế giới trong những năm gần đây, những thành tựu mà thế giới đã đạt được đều do con người sáng tạo ra, như sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, của công nghệ thông tin, điện tử…, nhưng vai trò của nguồn lực con người vẫn giữ vai trò quyết định. Nhận thức về vai trò của yếu tố con người đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong tiến trình lịch sử qua các giai đoạn phát triển khác nhau là có sự khác nhau. Trong thời kỳ đầu của cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật, người ta cho rằng điều kiện tự nhiên thuận lợi mới chính là yếu tố quan trọng nhất cho sự phát triển. Vì vậy các nước, các địa phương đều hướng vào việc tìm kiếm nguồn tài nguyên thiên nhiên, khai thác lợi thế về tự nhiên thiên nhiên như khoáng sản, đất đai, tài nguyên rừng, biển… Vai trò của yếu tố con người bị che lấp bởi lợi thế tuyệt đối về điều kiện tự nhiên. Vào trước những năm 60 thế kỷ XX, khoa học kỹ thuật phát triển đã đem lại sự phát triển mới, năng suất lao động tăng lên, nhờ quá trình tự động hoá, công nghệ được coi là trung tâm và được coi là nguồn lực chính để phát triển kinh tế - xã hội. Trong điều kiện phát triển khoa học công nghệ thời kỳ đó, yếu tố con người bị đẩy xuống hàng thứ yếu và phụ thuộc vào kỹ thuật, công nghệ. Sự phát triển mạnh mẽ của máy móc tự động đã biến con người trở thành những kẻ phụ thuộc vào máy móc. Những thập niên cuối của thế kỷ XX, người ta đã nhận thức được rằng, tài nguyên thiên nhiên khai thác đến một mức nào đó sẽ bị cạn kiệt. Đề cao quá mức tài nguyên và máy móc sẽ làm suy sụp người lao động, lãng phí tiềm năng nhân lực. Vào những năm 90 thế kỉ XX khi cuộc cách mạng khoa học công nghệ bước sang một giai đoạn phát triển mới, đã có những thay đổi liên tục trong sản xuất trên cơ sở áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ mới như công nghệ thông tin, kỹ thuật tin học và những sản phẩm phần mềm tự động hoá.... Những phát minh khoa học được áp dụng nhanh chóng làm cho sản xuất mang tính sáng tạo và sản xuất phát triển không chỉ đáp ứng nhu cầu của con người mà nó cũng tạo ra nhu cầu cho sản xuất, chất lượng sản phẩm ngày càng cao, hàm lượng chất xám trong sản phẩm ngày càng tăng. Tất cả những điều đó đòi hỏi phải biết dựa vào các nguồn lực có khả năng sáng tạo và mô hình lấy con người làm yếu tố trung tâm xuất hiện. Hướng ưu tiên đầu tư vào con người đã được nâng lên hàng quốc sách đã trở nên phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới hiện nay. Sự thay đổi về vai trò của con người trong tiến trình phát triển nói trên suy cho cùng là do tiến bộ khoa học công nghệ quyết định. Chính sự phát triển khoa học công nghệ mới đã đặt con người vào vị trí trọng tâm của sự phát triển. Thực tế hiện nay ở nhiều quốc gia, nhiều địa phương còn thiếu những điều kiện để phát huy tiềm năng nguồn nhân lực. Mô hình lấy con người làm trọng tâm đã được nhiều nơi tiếp nhận và được coi là hướng chính trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước và địa phương. Trong tiến trình phát triển của Hà Nội, với vị thế là thủ đô, Hà Nội đã nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp, các khu công nghiệp Hà Nội phát triển về khu vực ngoại thành, theo đó là sự đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự phát triển của các ngành công nghiệp Hà Nội không chỉ tăng về số lượng mà còn về chất lượng. Trong những năm gần đây, cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế các ngành công nghiệp Hà Nội phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, quy mô sản xuất ngày càng tăng, các khu công nghiệp được mở rộng và lấp đầy. Ngoài những tiềm năng về vốn, khoa học công nghệ, cơ sở hạ tầng, vị trí địa lý, vị thế của thủ đô cho sự phát triển công nghiệp thì nguồn vốn quan trọng không thể thiếu được cho sự phát triển đa dạng của các ngành công nghiệp Hà Nội đó là nguồn nhân lực. Hà Nội có mức tập trung dân số cao (mật độ dân số của Hà Nội cao nhất nước) gấp 12,5 lần mật độ bình quân cả nước, tạo điều kiện cho Hà Nội có một nguồn nhân lực dồi dào. Hơn nữa nguồn nhân lực Hà Nội tập trung với chất lượng rất cao, các chỉ số về trình độ học vấn, đào tạo nghề của nguồn nhân lực ở Hà Nội cao nhất nước. Tỉ lệ người có trình độ đại học trở lên ở Hà Nội cao gấp 2,5 lần so với Thành phố Hồ Chí Minh và lớn hơn 7 lần so với mức bình quân chung cả nước. Đây là một lực lượng lao động hết sức to lớn phục vụ cho sự phát triển các ngành công nghiệp Hà Nội. Kể từ khi đổi mới đến nay, công nghiệp Hà Nội đã có bước phát triển đáng kể, công nghiệp Hà Nội đã đứng thứ hai, sau Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van AAAA.doc
  • docbia.doc