Luận văn Nâng cao khảnăng cạnh tranh của ngân hàng ngoại thương Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế

Có thểnói NHNT - Vietcombank là ngân hàng Việt Nam có thương hiệu mạnh nhất

trong nước cũng nhưtrên trường quốc tế.

Nhưng liệu vịtrí này còn giữvững được bao lâu nếu NHNT không tiếp tục tăng

cường quảng bá thương hiệu của mình.

Có rất nhiều con đường đểquảng bá thương hiệu Vietcombank trong nước cũng

nhưtrên thếgiới, cụthểlà : Tạo dựng hình ảnh Vietcombank và đềra các chiến lược tiếp

thị, đưa NHNT đến gần dân chúng hơn.

3.3.3.1 Tạo dựng hình ảnh của NHNT.

Đểcó một hình ảnh NHNT ấn tượng và tốt đẹp trong lòng mọi người thì

Vietcombank phải thực hiện được những bước sau.

+ Uy tín trong kinh doanh, trong chất lượng sản phẩm, dịch vụcung cấp.

Hình ảnh của một Ngân hàng thường được liên hệvà hình thành trong trí nhớcủa

người dân cũng nhưcủa các doanh nghiệp nhưlà một nhà cung cấp dịch vụ. Các khách

hàng hiện nay không chỉsửdụng sản phẩm, dịch vụdo Ngân hàng cung cấp mà còn

muốn hiểu rõ vềNgân hàng đã cung cấp những dịch vụ đó cho mình.

Khác hẳn với các ngành sản xuất kinh doanh khác, kinh doanh trên thịtrường tiền

tệcần nhất là uy tín. NHNT với thuận lợi là một NHTMQD được nhà nước bảo hộxem

nhưlà một “lá bùa hộmệnh” vềuy tín. Bởi vì đối với người dân, khi giao dịch với những

Ngân hàng này họsẽcảm thấy yên tâm hơn. Chỉmột sơsuất nhỏtrong vấn đềuy tín, sẽ

tạo ra một hiệu ứng xấu đến không ngờ. Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng còn nhớ đến sự

kiện của NHTMCP Á Châu, chỉvì những tin đồn đã gây nên sựhoài nghi trong một bộ

phận khách hàng, nếu không có sựtrợgiúp từphía Nhà nước cũng nhưtừcác Ngân hàng

khác có thểsẽtạo nên một hiệu ứng “Domino” không ngờ.

pdf78 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 891 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Nâng cao khảnăng cạnh tranh của ngân hàng ngoại thương Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ận thu bằng cách bán các tài sản liên quan đến nợ xấu. Tuy vậy, công ty này do trực thuộc ngân hàng nên vẫn bị hạn chế bởi vốn và các quy định hoạt động. Chính vì vậy cần phải thành lập công ty AMC trực thuộc Chính phủ, có quy mô vốn lớn và có đủ quyền để giải quyết các vấn đề phức tạp trong việc xử lý nợ, sẽ chuyên mua bán các tài sản tồn đọng, tạo điều kiện để các ngân hàng thu hồi vốn. Sau đó AMC này sẽ khai thác, làm tăng giá trị tài sản rồi bán đi, thu hồi vốn để mua tiếp các khoản nợ khác. ƒ NHNT cũng cần nghiên cứu để hoàn thiện hơn quy định về trích lập dự phòng rủi ro tín dụng sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Quỹ này được hình thành bằng cách trích lập rồi hạch toán vào chi phí hoặc trích lập từ lợi nhuận ròng sau thuế. Để trích lập Quỹ rủi ro theo Hệ thống kế toán quốc tế (IAS) cần phải: Khẩn trương tách việc cho vay chính sách – các khoản nợ không sinh lời ra khỏi hoạt động của NHNT. Sau đó trích lập quỹ rủi ro đầy đủ theo IAS theo đúng thông lệ quốc tế. ƒ Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tín dụng. Đồng thời, tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay nhằm đảm bảo nắm bắt theo dõi đúng tình hình sử dụng vốn của khách hàng để có biện pháp cụ thể nhằm hạn chế phát sinh nợ quá hạn nói riêng và nợ xấu nói chung, chú ý đúng mức đến tính khả thi của dự án, hạn chế tư tưởng quá coi trọng tài sản thế chấp nợ vay. ƒ Nâng cao chất lượng của đội ngũ quản lý, cán bộ tín dụng theo hướng giỏi chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp nhằm đảm bảo thực hiện tốt Trang 54 ƒ Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường hoạt động với các cơ quan ban ngành liên quan trong quá trình xử lý nợ xấu. Trong đó, tập trung tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong thủ tục phát mãi tài sản, xử lý tài sản là đất đai, bất động sản; khâu thi hành án, hoàn chỉnh hồ sơ pháp lý của tài sản. 3.3.1.6 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Mặc dù là Ngân hàng đi đầu trong nước về công nghệ thông tin cũng như ứng dụng công nghệ hiện đại, nhưng sự trang bị và ứng dụng này chỉ là:“san móng, đắp nền” thôi, chưa tiến tới nền công nghệ hiện đại của các nước khác trên thế giới. Tăng cường đầu tư phát triển hệ thống kênh giao dịch và thanh toán hiện đại. Tiếp tục đầu tư phát triển hệ thống các kênh giao dịch và thanh toán ATM, Telephone Banking, Internet banking. Các kênh giao dịch này phải đảm bảo khách hàng có thể thực hiện hầu hết các giao dịch NH, từ việc truy cứu thông tin đến kiểm tra nhật ký tài khoản, đăng ký sử dụng dịch vụ mới, thanh toán và các dịch vụ khác liên quan đến thẻ. Đồng thời, hệ thống này phải được xây dựng trên cơ sở bảo mật nhiều tầng, bảo đảm tính an toàn và riêng tư cho các giao dịch. Hiện tại, do hạn chế về vốn đầu tư, về trình độ cán bộ ngân hàng nên không thể nôn nóng tiến hành hiện đại hóa công nghệ tràn lan ở tất cả các CN của NHNT. Bởi làm như vậy sẽ dẫn đến vốn đầu tư quá lớn, hiệu quả sử dụng thấp mà lại nhanh chóng bị lạc hậu. Do vậy, trước hết cần tập trung đầu tư hiện đại hóa công nghệ ngân hàng đạt trình độ quốc tế ở hội sở, mạng lưới giao dịch tại các TP lớn và trung tâm công nghiệp, trong đó ưu tiên khâu thanh toán và xử lý dữ liệu thông tin…Đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án hiện đại hóa công nghệ ngân hàng do WB tài trợ. Tiếp tục xây dựng và hòan thiện công nghệ thanh toán và thông tin ngân hàng. Xây dựng và hoàn thiện công nghệ thanh toán ngân hàng theo mô hình thanh toán tập trung trong hệ thống, kết nối với trung tâm thanh toán quốc gia, kết nối hệ thống thanh toán của NHNT với khách hàng nhằm đáp ứng được yêu cầu về tốc độ thanh toán và sự tiện lợi trong giao dịch, chống rủi ro trong thanh toán. Phát triển và hoàn thiện hệ thống thông tin ngân hàng, tăng cường hoạt động trao đổi thông tin với khách hàng qua mạng kết nối, qua các trang web…Hệ thống thông tin Trang 55 Tích lũy và tập trung vốn cho việc đầu tư phát triển công nghệ NH hiện đại. Vốn là điều kiện tiên quyết giúp ngân hàng đổi mới và hiện đại hóa công nghệ. Tuy nhiên, việc đổi mới và hiện đại hóa công nghệ ngân hàng đồng thời phải đảm bảo tương xứng với quy mô, vị thế, khả năng cạnh tranh và mức độ chịu đựng chống đỡ rủi ro của NH. Vì vậy, nâng cao vốn tự có cho là giải pháp có tính cấp bách. Ngoài ra, cần tranh thủ các dự án tài trợ về tư vấn, vốn, kỹ thuật…của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, các NHNNg. Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp lý theo hướng khuyến khích mở rộng và phát triển các dịch vụ ngân hàng. Triển khai các dịch vụ ngân hàng hiện đại cần có những quy định pháp lý phù hợp với đặc điểm của những loại hình dịch vụ này như: các quy định pháp lý về chứng từ điện tử, chữ ký điện tử, bảo mật, an toàn, xác nhận chữ ký điện tử, kiểm soát hệ thống…Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam, nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng hiện đại còn bị bỏ ngỏ. Vì vậy, để có căn cứ pháp lý cho việc triển khai các dịch vụ ngân hàng mới này và để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ ngân hàng hiện đại, cần tiếp tục bổ sung và hoàn thiện cơ chế thanh toán điện tử và các văn bản khác có liên quan không chỉ đối với hoạt động thanh toán giữa các ngân hàng mà phải trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế – xã hội. 3.3.2 Nhóm các giải pháp nhằm xây dựng chiến lược kinh doanh hướng về khách hàng. 3.3.2.1 Đẩy mạnh công tác huy động vốn: Nguồn vốn ngoại tệ dồi dào là một lợi thế cạnh tranh của NHNT , NHNT cần phát huy lợi thế này để giữ vững vị trí đứng đầu trong việc thu hút vống ngoại tệ. Để thực hiện điều này, NHNT cần áp dụng những biện pháp sau: + Linh động hơn nữa trong việc sử dụng các hình thức huy động như: hình thức tiết kiệm có kỳ hạn trả lãi trước, tạo tâm lý tránh trượt giá hoặc có thể dùng hình thức kỳ phiếu có thời hạn loại ký danh hoặc không ký danh, lãi suất cao hơn một chút so với lãi suất tiết kiệm thông thường. Bên cạnh đó, chú trọng phát triển các hình thức phát hành giấy tờ có giá như: tín phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi…có thể kèm theo các hình thức khuyến mãi như tặng quà, bốc thăm trúng thưởng... Trang 56 + Mở rộng hình thức tiền gửi lưỡng tính như tài khoản tiền gửi kỳ hạn gửi một lần, rút nhiều lần hay gửi nhiều lần rút một lần. Tài khoản gửi một lần rút nhiều lần có tính kế hoạch cao và rất phù hợp với tiền gửi cho các dự án đầu tư hay quản lý tài chính thay khách hàng. + Đẩy mạnh tiếp xúc, mở rộng quan hệ với các tổ chức tổng công ty, công ty nước ngoài có tiềm năng tiền gửi lớn như điện lực, dầu khí, bưu chính viễn thông, các công ty bảo hiểm…thu hút nguồn vốn tiền gửi thanh toán của các công ty này (vì chi phí sử dụng vốn cho loại hình này rất rẻ), tăng cường hình thức nối mạnh thanh toán điện tử với các đơn vị trên tạo tiền đề đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn. + Áp dụng dịch vụ AutoInvest cho hình thức tiền gửi doanh nghiệp: Khi tài khoản thanh toán của doanh nghiệp vượt quá một số dư nhất định đã được thỏa thuận trước, phần vược quá sẽ tự động được chuyển sang tài khoản đầu tư tự động (AutoInvest) để được hưởng lãi suất cao hơn. + Tạo cho khác hàng cảm giác an toàn bằng việc chuyển quỹ bảo hiểm tiền gửi thành quỹ an toàn nhằm dự phòng khi ngân hàng thiếu hụt khả năng thanh toán. + Đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các đối tác nước ngoài thông qua việc tìm kiếm, khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trung dài hạn nước ngoài cho vay với chi phí hợp lý để hỗ trợ thêm nguồn vốn huy động trong nước. 3.3.2.2 Mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. Tuy NHNT Việt Nam không có thế mạnh về tín dụng nhưng đây lại là kênh thu hút khách hàng nhiều hơn cả, vì khi khách hàng quan hệ tín dụng thì việc thuyết phục khách hàng sử dụng các dịch vụ khác của NHNT Việt Nam rất dễ dàng. Để nâng cao chất lượng tín dụng, trước hết cần khắc phục những yếu kém trong hoạt động này, cụ thể là: + Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng. Quản trị rủi ro bằng cách: Xếp hạng tín dụng khách hàng, quản lý quan hệ khách hàng bằng hệ thống kho dữ liệu, thường xuyên rà soát, đáng giá, phân loại khách hàng, phân loại nợ vay. Sàng lọc để hạn chế cho vay đối với các khách hàng làm ăn kém hiệu quả. + Đa dạng hóa các hình thức tín dụng và đầu tư để tạo sự phù hợp với tính năng động của thị trường và lựa chọn của khách hàng như cho vay dự án, cho vay đồng tài trợ, cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, tín dụng thuê mua… + Thực hiện cơ cấu lại khách hàng theo hướng: chuyển mạnh và nâng cao tỷ trọng dư nợ cho vay ngắn hạn và dư nợ đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh và dân cư, mở Trang 57 + Đặc biệt, cần mở rộng hình thức chiết khấu chứng từ có giá. Hình thức này ở Việt Nam chưa được áp dụng nhiều nhưng lại rất phổ biến trên thế giới do độ rủi ro thấp, tính an toàn cao hơn so với nghiệp vụ cho vay thông thường. Do vậy, để phát triển nghiệp vụ này, NHNN cần ban hành hướng dẫn về việc chiết khấu thương phiếu, các cơ sở pháp lý để thực hiện hình thức này trong giao dịch mua bán của các doanh nghiệp. Đồng thời cần ban hành quy chế chiết khấu, tái chiết khấu của TCTD đối với khách hàng, làm cơ sở pháp lý để ngân hàng mở rộng nghiệp vụ tín dụng này. 3.3.2.3 Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ cung cấp. Đây cũng là một lợi thế cạnh tranh của NHNT vì NHNT hiện đang có chất lượng dịch vụ tốt nhất. - Lợi nhuận thu được từ loại hình cung cấp dịch vụ ngày càng được NHNT quan tâm vì hoạt động này ít có rủi ro. Vì thế mà hiện nay các NHTM đều tranh nhau tung ra những sản phẩm dịch vụ để thu hút khách hàng đến với mình. - Chi phí đầu tư phát triển các dịch vụ mới là rất lớn. Mỗi Ngân hàng lại theo đuổi một chiến lược riêng đối với cùng loại sản phẩm dịch vụ giống nhau, dẫn tới lãng phí trong đầu tư và làm tăng chi phí vận hành cũng như quản lý hệ thống. - Các dịch vụ mới đưa ra chỉ có thể cung cấp cho một số đối tượng khách hàng, ở một vài địa bàn nhất định chứ không thể phát triển rộng khắp và đồng đều do sự phát triển không đồng đều giữa các địa phương, cơ sở vật chất kỹ thuật và trang thiết bị không tương thích và không thống nhất trong toàn bộ hệ thống. Vì thế, giải pháp để phát triển dịch vụ ngân hàng là : + Định hướng theo khách hàng. + Có khả năng xử lý trực tuyến. + Thông tin, dữ liệu được chuẩn hóa. + Khả năng xử lý tự động và trực tiếp cao. + Xây dựng chiến lược quản lý rủi ro có tính đến những rủi ro xuất phát từ việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ bằng phương pháp điện tử. + Chú trọng công tác Merketing, phổ biến các hình thức dịch vụ mới tới khách hàng. Trang 58 + Đối với dịch vụ thẻ, các ngân hàng cần phải tăng cường hợp tác với nhau, trước mắt xây dựng một trung tâm thanh toán thẻ liên Ngân hàng sao cho với hệ thống hiện có của các NHTM, khách hàng có thể giao dịch hoàn toàn tự động, tiện lợi trong khi các NH lại giảm được chi phí đầu tư. 3.3.3 Tăng cường công tác quảng bá thương hiệu NHNT VN trong nước cũng như trên thế giới. Có thể nói NHNT - Vietcombank là ngân hàng Việt Nam có thương hiệu mạnh nhất trong nước cũng như trên trường quốc tế. Nhưng liệu vị trí này còn giữ vững được bao lâu nếu NHNT không tiếp tục tăng cường quảng bá thương hiệu của mình. Có rất nhiều con đường để quảng bá thương hiệu Vietcombank trong nước cũng như trên thế giới, cụ thể là : Tạo dựng hình ảnh Vietcombank và đề ra các chiến lược tiếp thị, đưa NHNT đến gần dân chúng hơn. 3.3.3.1 Tạo dựng hình ảnh của NHNT. Để có một hình ảnh NHNT ấn tượng và tốt đẹp trong lòng mọi người thì Vietcombank phải thực hiện được những bước sau. + Uy tín trong kinh doanh, trong chất lượng sản phẩm, dịch vụ cung cấp. Hình ảnh của một Ngân hàng thường được liên hệ và hình thành trong trí nhớ của người dân cũng như của các doanh nghiệp như là một nhà cung cấp dịch vụ. Các khách hàng hiện nay không chỉ sử dụng sản phẩm, dịch vụ do Ngân hàng cung cấp mà còn muốn hiểu rõ về Ngân hàng đã cung cấp những dịch vụ đó cho mình. Khác hẳn với các ngành sản xuất kinh doanh khác, kinh doanh trên thị trường tiền tệ cần nhất là uy tín. NHNT với thuận lợi là một NHTMQD được nhà nước bảo hộ xem như là một “lá bùa hộ mệnh” về uy tín. Bởi vì đối với người dân, khi giao dịch với những Ngân hàng này họ sẽ cảm thấy yên tâm hơn. Chỉ một sơ suất nhỏ trong vấn đề uy tín, sẽ tạo ra một hiệu ứng xấu đến không ngờ. Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng còn nhớ đến sự kiện của NHTMCP Á Châu, chỉ vì những tin đồn đã gây nên sự hoài nghi trong một bộ phận khách hàng, nếu không có sự trợ giúp từ phía Nhà nước cũng như từ các Ngân hàng khác có thể sẽ tạo nên một hiệu ứng “Domino” không ngờ. + Văn hóa kinh doanh ngân hàng: Trong điều kiện kinh doanh hiện nay, muốn tồn tại và phát triển thì phải có nhiều khách hàng. Cũng như bất cứ một doanh nghiệp kinh doanh nào, lĩnh vực kinh doanh Ngân hàng đòi hỏi việc thu hút khách hàng ngày càng nhiều là điều kiện cần thiết. Trang 59 Một yếu tố quyết định đến hình ảnh của NHNT chính là “Phong cách văn hóa kinh doanh riêng theo phương châm: Hiện đại- văn minh- hiệu quả- mang đậm tính đặc trưng của thương hiệu NHNT Việt Nam”. Văn hóa kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành mục tiêu, chiến lược và chính sách của Ngân hàng, tạo ra lợi thế cạnh tranh rất lớn. Nét riêng trong văn hóa kinh doanh của NHNT thể hiện ở những điểm: Không lạc hậu so với bất kỳ một NHTM nào khác trên cùng địa bàn, trên bình diện toàn hệ thống và ở từng chi nhánh trong toàn quốc. Từ đó hình thành và phát triển những dịch vụ mới, kỹ thuật mới cho riêng mình, tạo đà cho sự phát triển và hội nhập. Phong cách giao dịch văn minh ở đây không chỉ là phong cách bề ngoài như trang phục lịch sự theo quy định, thái độ vui vẻ hòa nhã tận tình mà còn phải có yếu tố bên trong, đó là trong công tác chuyên môn. Cán bộ phải am hiểu tình hình hoạt động kinh doanh của NH để có thể tiếp thị, hướng dẫn, giải thích đối với khách hàng khi khách hàng đặt vấn đề tìm hiểu bất cứ sản phẩm, dịch vụ, tiện ích nào của Ngân hàng. Trong quá trình phục vụ, cán bộ Ngân hàng phải biết lắng nghe, coi trọng ý kiến của khách hàng. Bên cạnh đó, cần thực hiện tốt chính sách marketing trong ngân hàng, cho ra đời nhiều sản phẩm hoặc dịch vụ Ngân hàng thuận tiện, đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của khách hàng. NHNT với phong cách văn hóa kinh doanh riêng sẽ tạo ra uy tín tốt đẹp và nâng cao vị thế thương hiệu của mình trong nền kinh tế để khi nói đến một ngân hàng “Hiện đại và phát triển đa năng”, người ta sẽ nghĩ ngay đó là hình ảnh của NHNT Việt Nam. + Yếu tố con người : Hình ảnh của một Ngân hàng được phản ảnh qua tính cách và đặc điểm của nhân viên Ngân hàng đó. Đây là chiến lược định vị đối với các ngành kinh doanh về dịch vụ. Thông qua các nhân viên của mình, Ngân hàng có thể gởi gắm đến các khách hàng về các sản phẩm dịch vụ do mình cung cấp, về giá cả, về chất lượng, về những chương trình khuyến mãi nằm trong chương trình tiếp thị của hệ thống. Ngoài ra còn giúp các khách hàng thay đổi nhận thức về một hình ảnh Ngân hàng bao cấp ngày xưa, không phải là khách hàng cần Ngân hàng mà là Ngân hàng mong muốn được phục vụ và làm vừa lòng khách hàng. Trang 60 Việc tạo dựng một hình ảnh mới về một Ngân hàng với các thành viên hăng hái làm việc, tận tụy với khách hàng và say mê tìm tòi học hỏi sẽ tạo nên một sức mạnh mới cho thương hiệu ngân hàng. Hãy thử tưởng tượng xem, trung bình cứ một nhân viên sẽ tiếp xúc với 30 khách hàng, trong một Ngân hàng có 100 nhân viên. Như vậy, thông qua các nhân viên của mình, người lãnh đạo của Ngân hàng đó sẽ tiếp xúc, gởi gắm những tình cảm tốt đẹp của Ngân hàng mình đến với 3000 khách hàng. Làm một phép tính đơn giản trong một hệ thống, người lãnh đạo ở vị trí cao nhất sẽ thông qua đội ngũ nhân viên trong hệ thống truyền đạt đến khách hàng những sản phẩm mới, cách thức phục vụ mới, chất lượng sản phẩm được nâng cao, những tiện ích mà khách hàng sẽ được hưởng khi sử dụng những dịch vụ do NHNT cung cấp. Như vậy, mỗi cán bộ nhân viên trong ngành sẽ là một điểm nhấn cho bức tranh về hình ảnh một NHNT Việt Nam ngày càng đa năng hơn. + Tạo ấn tượng sâu sắc về sản phẩm - dịch vụ riêng biệt gắn với từng hình ảnh ngân hàng : Giống như thương hiệu của một sản phẩm đơn lẻ, thương hiệu của NHNT phải gợi lên được những đặc tính có liên quan đến sản phẩm hoặc liên hệ về lợi ích cũng như thái độ đối với sản phẩm đó của người tiêu dùng. Ví dụ, khi nói về những món vay khắc phục mùa màng sau thiên tai, vay vốn cho chăn nuôi, người ta sẽ dễ dàng liên tưởng đến nghiệp vụ của Ngân hàng Nông Nghiệp. Khi nói về những khoản vay đầu tư cho thi công những công trình trọng điểm, người ta sẽ liên tưởng đến hình ảnh của Ngân hàng Đầu Tư, hay nói đến nguồn vốn nội tệ dồi dào cũng như cho vay kinh doanh trong nước, người ta sẽ liên tưởng đến hình ảnh một NH Công Thương...Tất cả sẽ tạo nên một bức tranh hài hòa về hệ thống Ngân hàng Việt Nam với những bông hoa mang hương thơm và màu sắc khác nhau. Vậy thì làm thế nào để khi nói đến NHNT, người ta sẽ liên tưởng ngay đến hình ảnh một Ngân hàng có nguồn vốn ngoại tệ dồi dào, đa năng trong hoạt động thanh toán quốc tế, chất lượng cao trong các sản phẩm và dịch vụ cung cấp cũng như sự liên tưởng đến một Ngân hàng luôn đổi mới, hiện đại. Đó mới thực sự là điều cần thiết trong chiến lược xây dựng và quảng bá một thương hiệu bền vững cho NHNT Việt Nam. 3.3.3.2 Chiến lược tiếp thị hỗn hợp nhằm tạo dựng giá trị thương hiệu : Mặc dù các Ngân hàng có thể lựa chọn những yếu tố thương hiệu thích hợp và tạo nên được một đặc tính nổi trội và khác biệt, đóng góp hiệu quả cho việc tạo dựng giá trị thương hiệu. Tuy vậy việc tạo dựng và phát triển thương hiệu phải được đặt trong một Trang 61 + Chiến lược sản phẩm : Sản phẩm là “trái tim” của giá trị thương hiệu bởi vì nó là cái đầu tiên khách hàng được nghe, nghĩ hoặc hình dung về một thương hiệu. Tạo ra và cung ứng sản phẩm thỏa mãn tối đa mong muốn và nhu cầu của khách hàng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho sự thành công của các chương trình tiếp thị. + Chiến lược giá: Giá cả là yếu tố quan trọng trong thu hút khách hàng, một chiến lược giá đúng đắn được khách hàng chấp nhận thì đó chính là ngân hàng đã định vị đúng cho thương hiệu ngân hàng của mình. + Chiến lược khách hàng : Khi cạnh tranh khách hàng trở thành vấn đề tiên quyết đối với sự phát triển của mỗi ngân hàng thì chiến lược khách hàng có vai trò vô cùng quan trọng. Chiến lược này phải được thực hiện theo hướng củng cố khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới theo phương châm không ngừng mở rộng mạng lưới khách hàng. + Chiến lược kênh phân phối : Cách thức phân phối dịch vụ có thể có những tác động rất lớn và sâu sắc đến doanh thu của ngân hàng và cuối cùng là tác động đến giá trị thương hiệu. Việc hình thành các chi nhánh ngân hàng ở những khu vực đông dân cư để thu hút lượng tiền nhàn rỗi trong công chúng và những ngân hàng ở các khu công nghiệp, khu chế xuất để đầu tư là những vấn đề thiết yếu của chiến lược này. Hiện nay ,dịch vụ của NHNT được tiếp cận với khách hàng chủ yếu là trực tiếp, tức là khách hàng tự đến Ngân hàng để thỏa mãn yêu cầu của mình. Tuy nhiên, dưới sức ép cạnh tranh gay gắt, các Ngân hàng phải tự tìm đến khách hàng để giới thiệu và thuyết phục khách hàng sử dụng sản phẩm và dịch vụ của Ngân hàng mình. Vì vậy, NHNT nên liên kết hoặc thuê một số công ty chuyên độc quyền tiếp thị các sản phẩm, dịch vụ của NHNT: như phát hành thẻ, dịch vụ trả lương cho nhân viên, dịch vụ thanh toán tiền điện, nước, điện thoại, đóng phí bảo hiểm ...qua thẻ ATM. Cách làm này sẽ rất có hiệu quả nếu NHNT huấn luyện thành thạo đội ngũ này đồng thời phải thường xuyên kiểm tra, kiểm soát hoạt động của họ. + Tăng cường các chương trình quảng cáo Đây được đánh giá là một trong những khâu yếu của NHNT. Nếu như các NHTMCP thực hiện khâu này rất tốt thì ngược lại, các NHTMQD làm rất yếu. Quảng cáo có tác động rất lớn đến thói quen, sở thích và hành vi của khách hàng, vì thế NHNT cần quan tâm và đầu tư hơn nữa cho công tác này. Trang 62 - Quảng cáo trên truyền hình: Theo nghiên cứu của tạp chí Media 8/2000, quảng cáo trên truyền hình là hình thức quảng cáo tạo được mức độ nhận biết sản phẩm, dịch vụ cao nhất, nên chúng ta cần quảng cáo dưới hình thức này. Biểu tượng Vietcombank hầu như không xuất hiện trên truyền hình cũng như trên các tạp chí. Hàng ngày, chúng ta thấy hình ảnh của Techcombank trong chương trình “Sống khỏe mỗi ngày” trên kênh VTV1; Á Châu tài trợ cho chương trình “Tài chính ngân hàng” trên HTV9; hoặc VIP Bank với thẻ Value trong chương trình “Ở nhà chủ nhật”hay VB Bank trong chương trình “Khởi nghiệp” đã thu hút được rất nhiều khán giả quan tâm. NHNT nên quảng cáo bằng cách tài trợ hoặc gửi sản phẩm (như thẻ ATM, thẻ tín dụng, sổ tiết kiệm,...) đến các chương trình giải trí truyền hình đặc sắc có nhiều khách hàng mục tiêu quan tâm như “Chung sức”; “Rồng vàng”; “Chiếc nón kỳ diệu”...trên các kênh truyền hình lớn của nước ta nhằm quảng bá thương hiệu của mình (theo thống kê VTV3 đạt con số 71,3% người xem vào năm 1997-Nguồn AC Nielsen). - Quảng cáo trên báo. Kênh quảng cáo này về mức độ nhận biết sản phẩm chỉ đứng sau truyền hình, nó lại có ưu điểm là chi phí quảng cáo thấp hơn truyền hình rất nhiều. Các NHTMCP như Á Châu, Sacombank, Đông Á, Eximbank... đều thường xuyên quảng cáo trên các kênh này ( như Thời báo Kinh tế, Tuổi trẻ Chủ Nhật,...) Vì vậy, NHNT cũng nên quảng bá tên tuổi của mình qua kênh này và nên đăng quảng cáo ở một số báo thông dụng hơn, giá rẻ hơn, số lượng độc giả cũng như phạm vi phát hành rộng hơn như Báo Tuổi trẻ, Thanh niên, Người lao động.... - Quảng cáo bằng biển ngoài trời. Đây là hình thức quảng cáo mang tính chất công cộng , không có độc giả riêng nhưng loại quảng cáo này có đặc điểm là: khả năng tồn tại lâu và gây được sự chú ý của người xem vì biển quảng cáo thường được đặt ở nơi trung tâm,những nơi có nhiều người qua lại... 3.4 Kiến nghị với các cơ quan chức năng. 3.4.1 Kiến nghị đối với Nhà nước, các bộ, ngành chức năng. Nhà nước cần có kế hoạch phát triển kinh tế dài hạn trên cơ sở quy hoạch đầu tư phát triển các ngành nghề, các vùng một cách khoa học, tránh đầu tư dàn trải, mất cân đối Trang 63 Trong những năm qua, hiện tượng đầu tư dàn trải, lãng phí diễn ra khá phổ biến ở nước ta. Việc đầu tư không tính toán kỹ nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ cũng như đầu tư dây chuyền công nghệ lạc hậu khiến cho sản phẩm làm ra có phẩm chất kém, giá thành cao, không tiêu thụ được,…gây lãng phí lớn của cải xã hội, làm giảm tính cạnh tranh của nền kinh tế trong xu thế hội nhập. Ngành ngân hàng, nhất là các NHTMNN là những đơn vị đầu tư cho các doanh nghiệp này theo chỉ định của Chính Phủ, đang phải chịu hậu quả về hoạt động không hiệu quả của các doanh nghiệp này với số dư hàng ngàn tỷ đồng. Chính vì vậy, Nhà nước với vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế, cần có quy hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn các ngành kinh tế, vùng kinh tế để ngành ngân hàng cũng như các ngành kinh tế khác có kế hoạch phát triển trên cơ sở định hướng kế hoạch của nhà nước một cách hiệu quả, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trong xu thế hội nhập. - Tạo ra môi trường kinh tế, môi trường pháp lý lành mạnh, thông thoáng, phù hợp với thông lệ quốc tế trong các hoạt động thương mại nói chung, cũng như hoạt động của các ngân hàng nói riêng. Trong điều kiện mới, quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới diễn ra sâu sắc và nhanh chóng như hiện nay cùng với lộ trình thực hiện Hiệp định thương mại Việt –Mỹ thì vấn đề hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế cho phù hợp với thông lệ quốc tế ngày càng trở nên cấp bách. Sự khác biệt về pháp luật thương mại giữa VN và thế giới hiện đang là một trong những yếu tố cản trở quá trình hội nhập của từng doanh nghiệp cũng như của cả nền kinh tế một cách mạnh mẽ và trực tiếp nhất. - Nâng cao hiệu lực của bộ máy Nhà nước, trong đó giải pháp quan trọng nhất là giải pháp về nguồn nhân lực. Nhà nước cần ban hành và áp dụng cơ chế tuyển dụng, đào thải, đào tạo đội ngũ này một cách có khoa học, cải tiến chế độ tiền lương và có cơ chế thu hút nhân tài, tránh hiện tượng chảy máu chất xám và áp dụng công nghệ thông tin vào bộ máy quản lý nhà nước, cơ cấu lại bộ máy hành chính theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả. - Nhà nước cần có các giải pháp hữu hiệu đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp. Cổ phần hóa DNNN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình đổi mới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, thông qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế đồng thời tạo lập các yếu tố thị trường cho nền kinh tế. Hiện nay, một số doanh nghiệp được Nhà nước bảo hộ hoặc cho phép độc Trang 64 - Nhà nước cũng cần có giải pháp khuyến khích người dân, tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf43476.pdf
Tài liệu liên quan