Luận văn Nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh Habubank Vạn Phúc

Trong những năm vừa qua nền kinh tế Việt Nam có những bước phát triển mạnh mẽ, với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trên 7%, được duy trì liên tục trong nhiều năm. Nền kinh tế nước ta tham gia ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt sau sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Các doanh nghiệp đều có nhu cầu mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh, duy trì được sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập, nên nhu cầu về vốn là rất lớn. Trong các thể chế tài chính thì Ngân hàng là một trung gian tài chính quan trọng trong huy động vốn và phân bổ nguồn vốn cho nền kinh tế một cách rất hiệu quả. Như vậy nghiệp vụ tín dụng trở thành nghiệp vụ chính của Ngân hàng thương mại, nó không chỉ có ý nghĩa với nền kinh tế mà còn có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng thương mại. Vì vậy, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng là một vấn đề rất quan trọng mà bất kỳ một Ngân hàng thương mại nào cũng quan tâm. Tuy nhiên, không phải một ngân hàng nào cũng đạt được chất lượng tín dụng tốt. Xuất phát từ lý do này và những thực tế em được tiếp cận trong thời gian thực tập tại Phòng phát triển kinh doanh của Chi nhánh Habubank Vạn Phúc, em đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh Habubank Vạn Phúc” làm luận văn tốt nghiệp.

Theo các điểm 8, 10, khoản 3, điều 1 luật các tổ chức tín dụng được sửa đổi bổ xung, số 20/2004/QH11, ngày 15/6/2004, thì hoạt động tín dụng bao gồm nhiều hoạt động như cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các nghiệp vụ khác. Nhưng đối với Chi nhánh Habubank Vạn Phúc thời gian qua, trong hoạt động tín dụng thì hoạt động cho vay chiếm đa số. Nên chất lượng tín dụng trong bài viết của em giới hạn theo cách hiểu là chất lượng hoạt động cho vay.

Kết cấu đề tài gồm 3 chương:

Chương 1: Tổng quan về chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại.

Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Habubank Vạn Phúc.

Chương 3: Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Habubank Vạn Phúc.

 

doc71 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 893 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh Habubank Vạn Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm vừa qua nền kinh tế Việt Nam có những bước phát triển mạnh mẽ, với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trên 7%, được duy trì liên tục trong nhiều năm. Nền kinh tế nước ta tham gia ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt sau sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Các doanh nghiệp đều có nhu cầu mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh, duy trì được sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập, nên nhu cầu về vốn là rất lớn. Trong các thể chế tài chính thì Ngân hàng là một trung gian tài chính quan trọng trong huy động vốn và phân bổ nguồn vốn cho nền kinh tế một cách rất hiệu quả. Như vậy nghiệp vụ tín dụng trở thành nghiệp vụ chính của Ngân hàng thương mại, nó không chỉ có ý nghĩa với nền kinh tế mà còn có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng thương mại. Vì vậy, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng là một vấn đề rất quan trọng mà bất kỳ một Ngân hàng thương mại nào cũng quan tâm. Tuy nhiên, không phải một ngân hàng nào cũng đạt được chất lượng tín dụng tốt. Xuất phát từ lý do này và những thực tế em được tiếp cận trong thời gian thực tập tại Phòng phát triển kinh doanh của Chi nhánh Habubank Vạn Phúc, em đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh Habubank Vạn Phúc” làm luận văn tốt nghiệp. Theo các điểm 8, 10, khoản 3, điều 1 luật các tổ chức tín dụng được sửa đổi bổ xung, số 20/2004/QH11, ngày 15/6/2004, thì hoạt động tín dụng bao gồm nhiều hoạt động như cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các nghiệp vụ khác... Nhưng đối với Chi nhánh Habubank Vạn Phúc thời gian qua, trong hoạt động tín dụng thì hoạt động cho vay chiếm đa số. Nên chất lượng tín dụng trong bài viết của em giới hạn theo cách hiểu là chất lượng hoạt động cho vay. Kết cấu đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Habubank Vạn Phúc. Chương 3: Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Habubank Vạn Phúc. CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.1 Khái quát về hoạt động của ngân hàng thương mại Ngân hàng là một trung gian tài chính quan trọng bậc nhất trong thị trường tài chính. Có nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng, tuy nhiên theo điều 1, về sửa đổi bổ xung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội nước ta ban hành ngày 15/6/2004 thì: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác”. Trong đó ngân hàng thương mại được hiểu như sau: “Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên nhất là nhận tiền gửi sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại -Hoạt động huy động vốn Nghiệp vụ này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Ngân hàng thường huy động vốn từ các nguồn chủ yếu sau: + Nguồn vốn tự có của ngân hàng Đây là nguồn vốn thuộc sở hữu riêng của các ngân hàng. Trong quá trình hoạt động khoản vốn này không ngừng được tăng lên do đóng góp của lợi nhuận giữ lại từ kết quả hoạt động kinh doanh của bản thân ngân hàng mang lại. Bộ phận vốn tự có góp phần đáng kể vào vốn trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, và đồng thời góp phần nâng cao vị thế của ngân hàng trên thị trường. + Nguồn vốn từ huy động tiền gửi Tiền gửi của khách hàng là nguồn vốn rất quan trọng của ngân hàng thương mại. Nguồn tiền gửi bao gồm tiền gửi vào ngân hàng với mục đích để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản. Ngoài ra, ngân hàng còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi của các cá nhân hay các hộ gia đình và các tổ chức xã hội đem gửi vào ngân hang với mục đích hưởng lãi. + Nguồn đi vay Khi mà khả năng huy động vốn của ngân hàng hạn chế hoặc khi phải thanh toán gấp một khoản tiền lớn, các ngân hàng thương mại thường đi vay để đáp ứng nhu chi trả của mình. Ngân hàng thường vay từ các nguồn như vay ngân hàng Trung ương với các hình thức tái chiết khấu giấy tờ có giá hay vay có đảm bảo hoặc vay các tổ chức tín dụng khác, vay trên thị trường vốn. Do chi phí của các khoản vay này khá lớn nên chỉ khi thật cần thiết thì ngân hang thương mại mới phải sử dụng phương thức huy động này. -Hoạt động sử dụng vốn Nghiệp vụ này phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích nhằm đảm bảo an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các ngân hàng thương mại. + Hoạt động tín dụng Đây là hoạt động quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản và tạo khả năng sinh lời chính trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, thông qua cho vay ngắn, trung và dài hạn đối với nền kinh tế. + Hoạt động đầu tư tài chính Ngân hàng thường đầu tư nhằm tăng thêm lợi nhuận thông qua các hoạt động như góp vốn, mua bán chứng khoán trên thị trường hoặc cho vay trên thị trường liên ngân hàng cũng là một cách để sử dụng hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời. -Trung gian thanh toán Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng. Nghiệp vụ này ngày càng phát triển và trở thành một trong các hoạt động chính của ngân hàng. Thông qua dịch vụ thanh toán ngân hàng thu được một khoản phí và hoa hồng. Các dịch vụ của ngân hàng cũng ngày càng đa dạng, nhiều lợi ích và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, trong đó việc thanh toán cũng ngày càng nhanh chóng, tiết kiệm chi phí và thời gian như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ..., cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, đổi tiền giấy khi khách hàng cần. 1.1.2 Khái niệm tín dụng Ngân hàng Theo quan điểm hiện đại, tín dụng là quan hệ vay mượn giữa bên đi vay và bên cho vay. Các quan hệ tín dụng đã được hình thành từ rất lâu, và phát triển thành các hình thức tín dụng khác gắn liền với sự phát triển của các hình thái kinh tế kinh tế. Trong thực tiễn đã có những hình thức sau: Tín dụng nặng lãi, tín dụng Ngân hàng, tín dụng nông nghiệp và tín dụng thương mại. Ngày nay, các hình thức tín dụng trên đều tồn tại và bổ sung lẫn nhau, đóng góp vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế. Trong đó tín dụng Ngân hàng là một hình thức rất quan trọng, nó cung cấp phần lớn vốn cho các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức khác trong nền kinh tế. Có thể nói rằng: “Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là Ngân hàng, còn một bên là các pháp nhân và thể nhân khác trong nền kinh tế”. Nghĩa là tín dụng Ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa các cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức trong xã hội. Nhưng nó là mối quan hệ di chuyển vốn gián tiếp thông qua một tổ chức trung gian, đó là Ngân hàng. Tín dụng Ngân hàng mang bản chất của quan hệ tín dụng, đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định. Tuy nhiên so với các loại hình tín dụng khác thì tín dụng Ngân hàng cũng có những điểm khác biệt: -Tín dụng Ngân hàng chủ yếu thực hiện cho vay dưới hình thức tiền tệ, chứ không phải là hình thức mua hàng trả chậm hay mua hàng trả góp của tín dụng thương mại. Đây là loại hình tín dụng phổ biến, linh hoạt và đáp ứng nhu cầu cho mọi đối tượng trong nền kinh tế. - Tín dụng Ngân hàng cho vay chủ yếu bằng nguồn vốn huy động từ bên ngoài chứ không phải hoàn toàn là vốn sở hữu của mình như tín dụng nặng lãi hoặc tín dụng thương mại. - Tín dụng Ngân hàng có thời hạn cho vay phong phú. Ngân hàng có thể cho vay đối với các thời hạn tín dụng khác nhau như: cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn do Ngân hàng có thể điều chỉnh giữa các nguồn vốn có kỳ hạn khác nhau mà nó huy động với nhau một cách linh hoạt để đáp ứng nhu cầu về thời hạn vay. 1.1.3. Phân loại các hình thức tín dụng ngân hàng Hiện nay, ở các ngân hàng thương mại có nhiều cách phân loại tín dụng, nhưng phổ biến nhất là những cách sau đây: 1.1.3.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng Bao gồm các loại sau : + Tín dụng ngắn hạn Đây là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm. Loại tín dụng này để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn hoặc mua các tài sản lưu động cho các doanh nghiệp và để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của các cá nhân. Với loại tín dụng này, ít có rủi ro cho Ngân hàng vì trong thời gian ngắn, ít có biến động xảy ra và nếu có xảy ra thì Ngân hàng có thể dự tính được. +Tín dụng trung hạn Đây là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Loại tín dụng này được cấp để mua sắm các loại tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro không cao vì Ngân hàng có khả năng dự đoán được những biến động có thể xảy ra. +Tín dụng dài hạn Đây là loại tín dụng có thời hạn lớn hơn 5 năm. Loại tín dụng này sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng xí nghiệp mới, công trình thuộc cơ sở hạ tầng như đường sá … hay nhằm cải tiến và mở rộng sản xuất với qui mô lớn. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro rất lớn vì trong thời gian dài thì có những biến động xảy ra không lường trước được. 1.1.3.2 Căn cứ vào mức độ tin cậy đối với khách hàng Theo căn cứ này tín dụng được chia làm hai loại: -Tín dụng có bảo đảm: Là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm như tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh dựa vào uy tín người thứ ba. Ngân hàng nắm giữ tài sản của người vay để xử lý thu hồi nợ khi người vay không thực hiện được các nghĩa vụ đã được cam kết trong hợp đồng tín dụng. Hình thức này được áp dụng đối với những khách hàng không có uy tín cao với Ngân hàng. Mặc dù là có tài sản đảm bảo nhưng hình thức tín dụng này vẫn có độ rủi ro cao vì tài sản có thể bị mất giá hay người bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ của mình. - Tín dụng không có bảo đảm: Là loại tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc không có sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cấp tín dụng chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Muốn vậy, Ngân hàng phải đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay của người vay. Mặc dù không có tài sản đảm bảo nhưng đây là một loại tín dụng ít rủi ro cho Ngân hàng vì khách hàng có uy tín rất lớn và khả năng trả nợ rất cao thì mới được cấp tín dụng mà không cần đảm bảo. 1.1.3.3 Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng ra làm hai loại: Tín dụng doanh nghiệp: Là loại cấp tín dụng cho các đơn vị kinh doanh để tiến hành sản xuất, lưu thông hàng hoá. Nguồn trả nợ của hoạt động này phụ thuộc chủ yếu vào kết quả hoạt động kinh doanh. Vì vậy Ngân hàng cần phải có đầy đủ các thông tin cần thiết về khách hàng của mình, về phương án sản xuất kinh doanh của họ. - Tín dụng tiêu dùng: Là loại tín dụng cấp cho các cá nhân để mua sắm các tài sản đắt tiền như: nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hoá lâu bền như ti vi, điều hoà, tủ lạnh. ...với nguồn trả nợ là thu nhập trong tương lai của người vay. Với cách thức phân loại này, Ngân hàng sẽ có quy trình nghiệp vụ cụ thể để đảm bảo Ngân hàng có đủ tiền để cho vay và thu hồi nợ theo đánh giá mức độ rủi ro và mức lãi suất được đặt ra cho từng loại. 1.1.3.4 Căn cứ vào phương thức cho vay Theo căn cứ này tín dụng của ngân hàng được chia làm 3 loại: - Thấu chi: Ngân hàng sẽ cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong một khoản thời gian nhất định. Giới hạn này gọi là hạn mức thấu chi. Do hình thức này phần lớn là không có đảm bảo nên chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, có thu nhập ổn định và kỳ thu nhập là ngắn. - Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay của ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên và cũng không có đủ điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. -Cho vay theo hạn mức tín dụng: Ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng. Hạn mức có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Hạn mức tín dụng sẽ được cấp cho khách hàng trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Đối với trường hợp ngân hàng tính hạn mức cả kỳ, thì trong kỳ khách hàng có thể vay trả nhiều lần, nhưng dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Trong trường hợp ngân hàng tính hạn mức cuối kỳ, thì dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức, nhưng đến cuối kỳ khách hàng phải trả nợ để làm giảm dư nợ, để dư nợ cuối kỳ không được lớn hơn hạn mức tín dụng. 1.1.3.5 Căn cứ vào phương thức hoàn trả Theo căn cứ này tín dụng của ngân hàng được chia làm 3 loại: - Tín dụng kỳ hạn: Là loại tín dụng được thanh toán một lần khi đến hạn theo kỳ hạn đã thoả thuận. - Tín dụng trả góp: Là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ đã thoả thuận. Loại cho vay này chủ yếu được áp dụng cho vay bất động sản, cho vay tiêu dùng, cho vay đối với những hộ kinh doanh nhỏ, cho vay trang bị các kỹ thuật canh tác trong nông nghiệp. -Tín dụng trả nợ nhiều lần: nhưng không có kỳ hạn trả nợ cụ thể: Khách hàng có thể thanh toán bất cứ lúc nào tùy theo khả năng tài chính của mình. 1.1.4 Vai trò của tín dụng ngân hàng -Thứ nhất: Tín dụng Ngân hàng là công cụ tài trợ vốn có hiệu quả cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế không ngừng phát triển. Các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên vốn chủ sở hữu và vốn vay. Một trong những nguồn để vay là từ Ngân hàng, đó là nguồn tài trợ hiệu quả bởi vì nó thoả mãn nhu cầu vốn của doanh nghiệp về số lượng vốn vay và thời hạn vay. Mặt khác, để có thể vay vốn được từ Ngân hàng thì các doanh nghiệp cần phải nâng cao uy tín của mình đối với Ngân hàng, đảm bảo khả năng thanh toán cho Ngân hàng cả gốc và lãi. Do vậy, các doanh nghiệp phải nỗ lực để hoạt động kinh doanh có hiệu quả từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế. -Thứ hai: Tín dụng Ngân hàng góp phần vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn, nâng cao tính hiệu quả sử dụng tiền tệ trong lưu thông. Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính quan trọng có vài trò hút tiền nhàn rỗi mà không có phương án sử dụng hiệu quả của dân cư, và tiền mặt nhàn rỗi tạm thời của doanh nghiệp được Ngân hàng thương mại huy động và sử dụng để đầu tư cho các doanh nghiệp đang thiếu vốn, mà có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, hoặc cho nhu cầu tiêu dùng tạm thời vượt quá thu nhập của dân chúng, cũng như cho nhu cầu chi của ngân sách nhà nước khi chưa có nguồn thu.... - Thứ ba: Tín dụng Ngân hàng là công cụ để nhà nước điều tiết khối lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế. Một trong những đặc điểm quan trọng của Ngân hàng thương mại là khả năng tạo tiền thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán. Khi nhà nước muốn tăng khối lượng tiền cung ứng thì Ngân hàng nhà nước có thể ra quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tăng hạn mức tín dụng của các Ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế và ngược lại. Do vậy thông qua hình thức tín dụng Ngân hàng nhà nước có công cụ quan trọng có thể kiểm soát được khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. - Thứ tư: Tín dụng Ngân hàng góp phần tạo việc làm và ổn định đời sống cho người lao động. Khi doanh nghiệp vay được vốn sẽ duy trì được sản xuất, mở rộng sản suất tạo việc làm cho người lao động. … vốn tín dụng không chỉ đáp ứng cho nhu cầu của các doanh nghiệp mà còn phục vụ cho các tầng lớp dân cư trong xã hội. Từ đó, tín dụng góp phần ổn định đời sống nhân dân, tạo công ăn việc làm, qua đó góp phần ổn định xã hội. - Thứ năm: Tín dụng Ngân hàng còn là động lực đối với việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vốn để thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước có thể là vốn huy động từ trong nước, có thể là vốn vay từ nước ngoài. Song phát triển kinh tế dựa vào nội lực vẫn là mục tiêu cơ bản và Ngân hàng chính là trung gian huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế để cho vay. 1.2. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.2.1. Quan điểm về chất lượng tín dụng Tín dụng thường là hoạt động quan trọng nhất của các Ngân hàng thương mại, tạo ra thu nhập chủ yếu cho các ngân hàng. Hoạt động tín dụng hàm chứa rất nhiều rủi ro, nó có thể ảnh hưởng đến một ngân hàng, cũng có thể ảnh hưởng đến cả hệ thống ngân hàng và thậm chí là cả nền kinh tế. Để đảm bảo sự phát triển bền vững, và an toàn, và sự tăng trưởng liên tục của nguồn thu từ hoạt động tín dụng, hiện nay các ngân hàng thương mại đang cố gắng nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của mình. Trước đây, chất lượng tín dụng chỉ được hiểu là an toàn tín dụng. Chất lượng được coi là cao khi có ít các khoản nợ xấu, thiệt hại từ các khoản vay đó là nhỏ, và nó được hoàn trả theo đúng hợp đồng. Theo sự phát triển kinh tế, quan điểm chất lượng tín dụng cũng thay đổi. Có thể xem xét rằng, chất lượng tín dụng là sự đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng trong quan hệ tín dụng, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng và phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội. Như vậy khi xét trên từng khía cạnh cụ thể thì chất lượng tín dụng được hiểu như sau: - Đối với khách hàng: Chất lượng tín dụng được thể hiện ở chỗ đáp ứng tốt nhu cầu về vốn của khách hàng với mức lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản, thuận lợi, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng, thực hiện theo đúng hợp đồng tín dụng. - Đối với ngân hàng thương mại: Chất lượng tín dụng là an toàn tín dụng, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả và hoạt động tín dụng phải có lãi, doanh số cho vay cao phải đi cùng với doanh số thu nợ cao. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, chất lượng tín dụng còn thể hiện phạm vi, quy mô cấp tín dụng phải phù hợp với điều kiện hiện có của ngân hàng. Thêm vào đó chất lượng tín dụng còn được được đánh giá qua các tiêu chí sau: lợi nhuận tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn, và tỷ lệ nợ xấu ngày càng giảm, sự phù hợp về kỳ hạn của nguồn huy động và kỳ hạn vốn vay. - Đối với sự phát triển kinh tế, xã hội: Chất lượng tín dụng phải đáp ứng được các mục tiêu phát triển chung của Nhà nước về mặt kinh tế, xã hội. Tín dụng phải phục vụ cho sản xuất và lưu thông hàng hóa, nên sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống của người lao động. 1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Nâng cao chất lượng tín dụng giúp ngân hàng giảm thiểu được rủi ro, duy trì được hoạt động, tạo tiền đề cho sự phát triển ổn định, bền vững của ngân hàng, đồng thời làm giảm chi phí và gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Mặt khác, khi chất lượng tín dụng được nâng cao, thì nguồn vốn tín dụng của ngân hàng được sử dụng đúng mục đích, đảm bảo được việc thu hồi nợ đúng hạn, tạo điều kiện cho ngân hàng trong việc mở rộng quy mô tín dụng và các hoạt động khác. Đồng thời tạo được uy tín đối với khách hàng, vừa duy trì được khách hàng truyền thống, vừa thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng, gia tăng vị thế trên thị trường tài chính. 1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng 1.2.3.1. Các chỉ tiêu định tính Chỉ tiêu định tính là các chỉ tiêu mang tính tương đối và rất khó xác định, đối với ngân hàng thương mại, để đánh giá chất lượng tín dụng người ta thường xem xét một số chỉ tiêu sau đây: Cơ sở pháp lý: Hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại dựa trên các quy định pháp luật và các quy định của Ngân hàng Nhà nước. Hoạt động của các ngân hàng được đánh giá là có chất lượng khi Ngân hàng thực hiện tốt các quy định đã ban hành. Quy chế cho vay: Dựa trên các quy định pháp luật và của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại căn cứ vào nội lực của mình mà đề ra quy chế cho vay riêng phù hợp. Như vậy, để nâng cao chất lượng tín dụng, trước hết các Ngân hàng thương mại cần phải thực hiện tốt các quy định mà mình đề ra. Uy tín và thị phần của ngân hàng Ngoài ra để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại, theo chỉ tiêu định tính ta còn xét đến khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng. Hoạt động tín dụng là có chất lượng trước hết ngân hàng phải thu hút được nhiều khách hàng, uy tín được nâng cao, thị phần được mở rộng. 1.2.3.2. Các chỉ tiêu định lượng Tổng dư nợ và tăng trưởng dư nợ -Tổng dư nợ: là một chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền Ngân hàng cấp cho nền kinh tế tại một thời điểm nhất định. Tổng dư nợ bao gồm dư nợ cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động của Ngân hàng yếu kém hiệu quả, không có khả năng mở rộng mạng lưới khách hàng, trình độ cán bộ công nhân viên thấp. Điều đó cho thấy chất lượng tín dụng của ngân hàng chưa được quan tâm đúng mức. Nhưng không phải là chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng tín dụng càng cao. Bởi vì chất lượng tín dụng còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nữa. -Tăng trưởng dư nợ: là chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng tín dụng về quy mô giữa các thời kỳ kinh tế. Nếu mức tăng trưởng dư nợ là cao thì chứng tỏ quy mô tín dụng được mở rộng, ngân hàng phục vụ được nhiều nhu cầu của khách hàng hơn, chất lượng tín dụng được cải thiện. Và ngược lại, mức tăng trưởng dư nợ thấp, chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng chưa được quan tâm đúng mức. Doanh số cho vay và doanh số thu nợ -Doanh số cho vay: Là chỉ tiêu phản ánh quy mô cấp tín dụng của Ngân hàng đối với khách hàng. Đây là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh chính xác về hoạt động cho vay của ngân hàng trong một thời gian dài, được tính bằng cộng dồn các khoản cho vay trong một niên độ kinh tế. Doanh số cho vay càng cao, chứng tỏ ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng hơn, khả năng cho vay của ngân hàng tốt hơn và chứng tỏ là chất lượng tín dụng được cải thiện. -Doanh số thu nợ: Được tính bằng cách cộng dồn các khoản thu nợ trong một niên độ kinh tế, chỉ tiêu này phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đã cho khách hàng vay và đã được hoàn trả trong một thời kỳ. Doanh số cho vay lớn phải đi kèm với doanh số thu nợ cao. Nếu doanh số cho vay lớn nhưng doanh số thu nợ thấp cho thấy dư nợ quá hạn của ngân hàng cao, khả năng thu hồi vốn cho vay và lãi vay thấp, rủi ro tín dụng cao, vòng quay vốn tín dụng thấp, chất lượng hoạt động tín dụng không tốt. Thu nhập từ hoạt động tín dụng: Nhìn chung hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại thu nhập cao nhất cho ngân hàng, duy trì sự tồn tại và thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó không ngừng nâng cao lợi nhuận cho ngân hàng. Nếu doanh thu từ hoạt động tín dụng tăng trưởng liên tục, chứng tỏ khoản vay không những thu hồi được gốc mà còn có lãi. Vòng quay vốn tín dụng: Chỉ tiêu này thường được các ngân hàng thương mại tính toán hằng năm để đánh giá khả năng tổ chức, quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng. Doanh số thu nợ trong kỳ Vòng quay vốn tín dụng = Dư nợ bình quân Vòng quay vốn tín dụng phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng, phản ánh tốc độ luân chuyển vốn nhanh hay chậm. Vòng quay của vốn tín dụng càng cao chứng tỏ nguồn vốn ngân hàng luân chuyển càng nhanh, tham gia càng nhiều vào chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá, đồng thời nó cũng phản ánh tình hình quản lý vốn tín dụng có tốt hay không. Vòng quay vốn tín dụng cao, một mặt thể hiện khả năng thu nợ tốt. Mặt khác, thể hiện hiệu quả cho vay của ngân hàng. Một đồng vốn khi cho vay được nhiều lần sẽ đem lại nhiều lợi nhuận hơn. Tuy nhiên, cần xét đến yếu tố quan trọng là “dư nợ bình quân”. Khi dư nợ bình quân thấp sẽ làm cho vòng quay lớn hơn nhưng lại không phản ánh chất lượng khoản tín dụng là cao bởi thực tế nó thể hiện khả năng cho vay kém của ngân hàng. Nên chỉ tiêu này cần phải được xem xét với chỉ tiêu Hiệu suất sử dụng vốn. Hiệu suất sử dụng vốn: Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng của vốn cho khách hàng vay trong tổng nguồn vốn mà ngân hàng huy động được. Một tỷ lệ phù hợp, nó phụ thuộc vào cơ cấu của nguồn vốn huy động, và lĩnh vực hoạt động chủ yếu của ngân hàng, và các nhân tố khác. Nếu tỷ lệ này là rất cao, một mặt sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng vốn, góp phần làm tăng thu nhập cho ngân hàng, măt khác sẽ ảnh hưởng không tốt đến tính thanh khoản của ngân hàng. Tổng nguồn vốn huy động Hiệu suất sử dụng vốn = Tổng dư nợ Tỷ lệ nợ quá hạn Nợ quá hạn là hiện tượng phát sinh từ mối quan hệ tín dụng khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình cho Ngân hàng đúng hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của Ngân hàng thương mại ở một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = Tổng dư nợ Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN, của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ban hành ngày 22/4/2005, các khoản nợ được phân loại như sau: -Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn -Nhóm 2: Nợ cần chú ý -Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn -Nhóm 4: Nợ nghi ngờ -Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn Nợ quá hạn bao gồm các khoản nợ thuộc nhóm 2, nhóm 3, nhóm 4, nhóm 5. Tín dụng thì phải có hoàn trả, do đó tính an toàn là yếu tố quan trọng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3245.doc.doc
Tài liệu liên quan