Luận văn Nâng cao chất lượng giáo dục trung học cơ sở ở huyện Thanh Sơn- Tỉnh Phú Thọ trong thời kỳ định hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá

Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học từ lâu đời. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, truyền thống đó đã góp phần tạo nên nét đẹp của nền văn hiến Việt Nam và được phát huy hơn bao giờ hết trong thời đại mới,

Hơn thế kỷ qua, kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Trong sự nghiệp đấu tranh, bảo vệ và xây dựng đất nước, nền giáo dục nước nhà thực sự giữ một vai trò quan trọng, gánh vác những sứ mệnh quang vinh của sứ mạng dân tộc.

Ngày nay, trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xuống và lãnh đạo đã thu được nhiều thành tựu rực rỡ. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trưường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đã được hình thành và từng bước phát triển. Trình độ dân chí được nâng lên một bước làm cơ sở cho kinh tế- xã hội phát triển, tạo động lực cho sự nghiệp công nghiệp - hiện đại hoá đất nước.

Với xu thế quốc tế hoá ngày càng tăng lên, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ và phát triển với tốc độ cao. " khoa học đã trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp như Mác dự đoán, còn công nghệ đổi mới hết sức nhanh chóng. Trình độ dân trí và tiềm lực khoa học, công nghệ đã trở thành nhân tố quyết định sức mạnh và thế của mỗi Quốc gia trên thế giới" (Văn kiện hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp Hành Trung ương khoá VIII - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà nội;1997, tr 5).

Việc quan hệ ngày càng được mở rộng đã làm cho mỗi quốc gia hiểu sâu sắc thêm những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi nguồn sáng tạo, mọi của cải vật chất văn hoá và văn minh của mỗi quốc gia dân tộc và toàn nhân loại. Để có cơ hội hội nhập được với nền kinh tế mang tính chất khu vực hoá, toàn cầu hoá, nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực đã nhận thức và có chủ trương trong phát triển giáo dục.

Trong chiến lược phát triển KT - XH của đất nước, chúng ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm, phát huy nhân tố con người. Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển do con người và vì con người. Phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Đây là một trong những quan điểm cơ bản của cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH của chiến lược ổn định và phát triển KT - XH đến năm 2010 và 2020. Nguồn lực đó là đào tạo con người phát triển trí tuệ cao, tay nghề thành thạo, phẩm chất tốt đẹp, cưường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến là mục tiêu hướng tới của toàn Đảng, toàn dân ta.

Thực hiện quan điểm ấy là trách nhiệm của các cấp các ngành, nhưng trước hết phải là ngành giáo dục. Giáo dục là cách thức, là con đường cơ bản và ngắn nhất, bền vững nhất để hình thành và hoàn thiện con người mới XHCN - con người phát triển về trí tuệ, thể lực, đạo đức, lẽ sống, tình cảm.

Hai mươi năm đổi mới, nền giáo dục đào tạo của nước ta đã có nhiều chuyển biến và đạt được những thành tựu quan trọng. Hệ thống giáo dục quốc dân mới được xác lập, luật giáo dục ra đời, mạng lưới trường lớp phát triển rộng, đáp ứng được nhu cầu học tập của mọi người, qui mô có bước tăng trưởng khá, mặt bằng dân trí được nâng lên, nội dung, phươngpháp giảng dạy được cải cách theo hớng hiện đại, được coi trọng triển khai.

Tuy nhiên, trước những thách thức của sự phát triển kinh tế, KH - CN trong khu vực và trên thế giới, trước những đòi hỏi của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước nền giáo dục cần được phát triển theo tốc độ nhanh, chất lượng tốt hơn. "chúng ta chỉ có thể phát triển KT - XH một cách làm mạnh và bền vững bằng việc chăm lo phát triển giáo dục với tốc độ nhanh hơn, chất lượng tốt hơn, hiệu quả lớn hơn và đảm bảo công bằng trong giáo dục". (VK HN lần thứ 2 BCH TW Khoá 8, NXB CTQG, HN, 1997, tr 9). Song những thay đổi trong giáo dục - đào tạo vẫn còn chậm, còn nhiều bất cập so với yêu cầu của phát triển kinh tế và khoảng cách khá xa so với các nước trong khu vực. Bên cạnh đó cơ chế thị trưường cũng ảnh hưởng đến giáo dục cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. Những biểu hiện tiêu cực, thiếu kỷ cương trong giáo dục, xuống cấp về đạo đức và văn hoá, những yếu kém trong quản lí dạy thêm, học thêm tràn lan, chất lượng và hiệu quả GD - ĐT còn thấp chưa đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của xã hội ngày càng lớn về nguồn nhân lực có tri thức. Mặt khá, đời sống của đội ngũ cán bộ giáo viên, lực lượng trực tiếp quyết định chất lượng GD - ĐT còn nhiều khó khăn.

Bước vào kỷ nguyên mới, chúng ta đang có nhiều thời cơ mới để phát triển đồng thời cũng phải đương đầu với nhiều thử thách mới. Một trong bốn nguy cơ được Đảng ta xác định, đáng lo ngại nhất là tụt hậu về kinh tế. Với tư cách là động lực phát triển KT - XH, GD - ĐT phải tiếp tục đổi mới và phát triển, trong đó có bậc THCS (Trung học cơ sở). giáo dục THCS giúp học sinh củng cố và phát triển kết quả của giáo dục tiểu học và phổ cập GDTH đúng độ tuổi, tiếp tục học lên các bậc học trên hoặc đi vào cuộc sống lao động.

Trong những năm qua, cùng với sự phát triển GD - ĐT của cả nước, GD - ĐT ở tỉnh Phú Thọ nói chung và huyện Thanh Sơn nói riêng đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Mạng lưới trưường lớp được hình thành và phát triển ở các địa bàn đáp ứng nhu cầu học của mọi người, có đủ các loại hình trường lớp, các hình thức học, cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học được cải thiện, chất lượng giáo dục mũi nhọn ổn định và có tiến bộ nhất là ở bậc THCS, THPT số lượng học sinh TH trog những năm qua đều tăng đáng kể. Tuy nhiên điều kiện phục vụ cho giảng dạy và họctập còn nhiều khó khăn, cơ cấu đội ngũ giáo viên chưa đồng bộ, vừa thừa vừa thiếu, chất lượng đại trà còn yếu, một bộ phận giáo viên trẻ thiếu kinh nghiệm nhất là ở những xã ĐBKK và ATK. Đó là thực tế khách quan cần phải giải quyết nhằm đáp ứng nhu cầu học tập và yêu cầu đổi mới của sự nghiệp phát triển GD - ĐT, góp phần phát triển KT - XH ở địa phương.

Với kiến thức được học tập tại chương trình cao cấp lý luận chính trị của học viện Chính trị - Khu vực I, cùng thực tế công tác ở cơ quan quản lí giáo dục địa phương tôi mạnh dạn chọn vấn đề: "Nâng cao chất lượng giáo dục trung học cơ sở ở huyện Thanh Sơn- tỉnh Phú Thọ trong thời kỳ định hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá". Làm đề tài luận văn tốt nghiệp.

 

doc54 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1108 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng giáo dục trung học cơ sở ở huyện Thanh Sơn- Tỉnh Phú Thọ trong thời kỳ định hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu. 1. Lý do chọn đề tài: Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học từ lâu đời. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, truyền thống đó đã góp phần tạo nên nét đẹp của nền văn hiến Việt Nam và được phát huy hơn bao giờ hết trong thời đại mới, Hơn thế kỷ qua, kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Trong sự nghiệp đấu tranh, bảo vệ và xây dựng đất nước, nền giáo dục nước nhà thực sự giữ một vai trò quan trọng, gánh vác những sứ mệnh quang vinh của sứ mạng dân tộc. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xuống và lãnh đạo đã thu được nhiều thành tựu rực rỡ. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trưường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đã được hình thành và từng bước phát triển. Trình độ dân chí được nâng lên một bước làm cơ sở cho kinh tế- xã hội phát triển, tạo động lực cho sự nghiệp công nghiệp - hiện đại hoá đất nước. Với xu thế quốc tế hoá ngày càng tăng lên, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ khu vực Châu á - Thái Bình Dương và trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ và phát triển với tốc độ cao. " khoa học đã trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp như Mác dự đoán, còn công nghệ đổi mới hết sức nhanh chóng. Trình độ dân trí và tiềm lực khoa học, công nghệ đã trở thành nhân tố quyết định sức mạnh và thế của mỗi Quốc gia trên thế giới" (Văn kiện hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp Hành Trung ương khoá VIII - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà nội;1997, tr 5). Việc quan hệ ngày càng được mở rộng đã làm cho mỗi quốc gia hiểu sâu sắc thêm những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi nguồn sáng tạo, mọi của cải vật chất văn hoá và văn minh của mỗi quốc gia dân tộc và toàn nhân loại. Để có cơ hội hội nhập được với nền kinh tế mang tính chất khu vực hoá, toàn cầu hoá, nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực đã nhận thức và có chủ trương trong phát triển giáo dục. Trong chiến lược phát triển KT - XH của đất nước, chúng ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm, phát huy nhân tố con người. Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển do con người và vì con người. Phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Đây là một trong những quan điểm cơ bản của cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH của chiến lược ổn định và phát triển KT - XH đến năm 2010 và 2020. Nguồn lực đó là đào tạo con người phát triển trí tuệ cao, tay nghề thành thạo, phẩm chất tốt đẹp, cưường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến là mục tiêu hướng tới của toàn Đảng, toàn dân ta. Thực hiện quan điểm ấy là trách nhiệm của các cấp các ngành, nhưng trước hết phải là ngành giáo dục. Giáo dục là cách thức, là con đường cơ bản và ngắn nhất, bền vững nhất để hình thành và hoàn thiện con người mới XHCN - con người phát triển về trí tuệ, thể lực, đạo đức, lẽ sống, tình cảm. Hai mươi năm đổi mới, nền giáo dục đào tạo của nước ta đã có nhiều chuyển biến và đạt được những thành tựu quan trọng. Hệ thống giáo dục quốc dân mới được xác lập, luật giáo dục ra đời, mạng lưới trường lớp phát triển rộng, đáp ứng được nhu cầu học tập của mọi người, qui mô có bước tăng trưởng khá, mặt bằng dân trí được nâng lên, nội dung, phươngpháp giảng dạy được cải cách theo hớng hiện đại, được coi trọng triển khai. Tuy nhiên, trước những thách thức của sự phát triển kinh tế, KH - CN trong khu vực và trên thế giới, trước những đòi hỏi của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước nền giáo dục cần được phát triển theo tốc độ nhanh, chất lượng tốt hơn. "chúng ta chỉ có thể phát triển KT - XH một cách làm mạnh và bền vững bằng việc chăm lo phát triển giáo dục với tốc độ nhanh hơn, chất lượng tốt hơn, hiệu quả lớn hơn và đảm bảo công bằng trong giáo dục". (VK HN lần thứ 2 BCH TW Khoá 8, NXB CTQG, HN, 1997, tr 9). Song những thay đổi trong giáo dục - đào tạo vẫn còn chậm, còn nhiều bất cập so với yêu cầu của phát triển kinh tế và khoảng cách khá xa so với các nước trong khu vực. Bên cạnh đó cơ chế thị trưường cũng ảnh hưởng đến giáo dục cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. Những biểu hiện tiêu cực, thiếu kỷ cương trong giáo dục, xuống cấp về đạo đức và văn hoá, những yếu kém trong quản lí dạy thêm, học thêm tràn lan, chất lượng và hiệu quả GD - ĐT còn thấp chưa đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của xã hội ngày càng lớn về nguồn nhân lực có tri thức. Mặt khá, đời sống của đội ngũ cán bộ giáo viên, lực lượng trực tiếp quyết định chất lượng GD - ĐT còn nhiều khó khăn. Bước vào kỷ nguyên mới, chúng ta đang có nhiều thời cơ mới để phát triển đồng thời cũng phải đương đầu với nhiều thử thách mới. Một trong bốn nguy cơ được Đảng ta xác định, đáng lo ngại nhất là tụt hậu về kinh tế. Với tư cách là động lực phát triển KT - XH, GD - ĐT phải tiếp tục đổi mới và phát triển, trong đó có bậc THCS (Trung học cơ sở). giáo dục THCS giúp học sinh củng cố và phát triển kết quả của giáo dục tiểu học và phổ cập GDTH đúng độ tuổi, tiếp tục học lên các bậc học trên hoặc đi vào cuộc sống lao động. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển GD - ĐT của cả nước, GD - ĐT ở tỉnh Phú Thọ nói chung và huyện Thanh Sơn nói riêng đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Mạng lưới trưường lớp được hình thành và phát triển ở các địa bàn đáp ứng nhu cầu học của mọi người, có đủ các loại hình trường lớp, các hình thức học, cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học được cải thiện, chất lượng giáo dục mũi nhọn ổn định và có tiến bộ nhất là ở bậc THCS, THPT số lượng học sinh TH trog những năm qua đều tăng đáng kể. Tuy nhiên điều kiện phục vụ cho giảng dạy và họctập còn nhiều khó khăn, cơ cấu đội ngũ giáo viên chưa đồng bộ, vừa thừa vừa thiếu, chất lượng đại trà còn yếu, một bộ phận giáo viên trẻ thiếu kinh nghiệm nhất là ở những xã ĐBKK và ATK. Đó là thực tế khách quan cần phải giải quyết nhằm đáp ứng nhu cầu học tập và yêu cầu đổi mới của sự nghiệp phát triển GD - ĐT, góp phần phát triển KT - XH ở địa phương. Với kiến thức được học tập tại chương trình cao cấp lý luận chính trị của học viện Chính trị - Khu vực I, cùng thực tế công tác ở cơ quan quản lí giáo dục địa phương tôi mạnh dạn chọn vấn đề: "Nâng cao chất lượng giáo dục trung học cơ sở ở huyện Thanh Sơn- tỉnh Phú Thọ trong thời kỳ định hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá". Làm đề tài luận văn tốt nghiệp. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài: 2.1. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá một cách toàn diện, khách quan, khoa học, từ đó làm sáng tỏ những quan điểm, đường lối, chủ trương cũng như quá trình tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục THCS ở huyện Thanh Sơn tỉnh Phú Thọ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xuất phát từ cơ sở KH, những nguyên lí của chủ nghĩa Mác- lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta cúng lí luận về giáo dục dạy học để phân tích thực trạng công tác giáo dục bậc THCS ở huyện miền núi Thanh Sơn. Với những thành tích đã đạt được cùng những khuyết điểm, tồn tại và nguyên nhân của nó. Từ đó tìm ra giải pháp để nâng cao một bước về chất lượng giáo dục trong thời gian tới. 2.2.Nhiện vụ nghiên cứu: Trên cơ sở trình bày đặc điểm, tình hình KT-XH của huyện Thanh Sơn thỉnh Phú Thọ; Luận văn có nhiệm vụ: - Phân tích làm sáng tỏ thực trạng giáo dục - đào tạo ở huyện Thanh Sơn tỉnh Phú thọ từ năm 2000- 2005. - Bước đầu đánh giá những kết quả, hạn chế và rút ra một số nguyên nảan cơ bản, từ đó đưa ra giải pháp để nâng cao một bước về chất lượng giáo dục trong thời gian tới. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu thực trạng chất lượng GD THCS của huyện Thanh Sơn - tỉnh Phú Thọ, đặc biệt ở một số trường điển hình. Thời gian nghiên cứu đề tài trong 5 năm trở lại đây, từ năm 2000 khi ngành GD thực hiện NQ TW2 khoá 8 và NQ ĐH Đảng lần thứ IX, tiếp tục khẳng định giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. 4. Phương pháp nghiên cứu: - Đề tài sử dụng phương luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta. - Đề tài chú trọng phương pháp lịch sử và logíc, kết hợp lịch sử với lôgic, những pháp phân tích, tổng hợp, điều tra, thống kê,… - Sử dụng phương pháp văn bản, dựa vào các văn kiện Đảng, các Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng , các báo cáo của nghành, của tỉnh và của huyện của các trường Trung học cơ sở trên địa bàn. 5. Kết cấu của đề tài: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3 chương chính: Chương I: Cơ sở lí luận nâng cao chất lượng nền GD -ĐT.Việt Nam Chương II: Giáo dục THCS ở huyện Thanh Sơn tỉnh Phú Thọ. Hiện nay tình hình và những vấn đề đặt ra. Chương III: Phương hướng và giải pháp nâng cao chât slượng giáo dục THCS ở huyện Thanh sơn- tỉnh Phú Thọ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiẹp hoá, hiện đại hoá.. Chương I Cơ sở lí luận nâng cao chất lượng nền giáo dục - đào tạo. Việt nam I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về công tác giáo dục. 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Trong lịch sử nhân loại, bất cứ quốc gia nào, thời đại nào cũng phải xây dựng một hệ thống giáo dục với mục tiêu đào tạo ra những con người phù hợp với chế độ xã hội ấy. Môi trưường chủ yếu, tốt nhất để truyền thu kiến thức, giáo dục nhân cách chính là nhà trường. Một trong những tư tưởng của Mác Ăng ghen đã nêu trong tuyên ngôn của Đảng cộng sản là phát triển con người toàn diện. Đồng thời còn nhấn mạnh làm sao con người được phát triển tự do, mỗi cá nhân, người lao động có tính độc lập và cá tính, làm cho mỗi người thành một đơn vị chủ thể của đội ngũ nhân lực, là nguồn vốn tạo ra sản phẩm, chất lượng, hiệu quả, làm cho lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đạt trình độ phát triển mới. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: ý thức là một phạm trù triết học, một hiện tượng tâm lý phức tạp bao gồm tri thức, tình cảm, cảm giác, tri giác, nghị lực, lòng tin... trong đó quan trọng nhất là trí thức, đó là toàn bộ hiểu biết của con người về thế giới càng cao hơn, đầy đủ hơn. Nếu ý thức không dựa trên trí thức, tức là không xây dựng trên cơ sở hiểu biết thì cái ý thức ấy chỉ là đồng nghĩa với lòng tin tôn giáo mà thôi. Theo Mác: "Con người là tổng hoá các mối quan hệ xã hội". Con người là sản phẩm của tất cả các mối quan hệ xã hội nói chung trong đó có nhà trường là phương tiện, là môi trưường chủ yếu hình thành nhân cách và trang bị cho thế hệ trẻ những tri thức, phát triển trí tuệ để con người thành năng lực của bản thân và có năng lực phát triển sáng tạo ra những tri thức mới về tự nhiên - xã hội. giáo dục với tư cách là một bộ phận của xã hội có nhiệm vụ đào tạo ra thế hệ tương lai. Nhng làm sao để có tri thức? Lênin nói: "không có sách thì không có tri thức, không có tri thức thì không có CNXH cà CNCS". Điều đó có nghĩa là: Muốn có tri thức thì phải được học, được giáo dục, tri thức của nhân loại là vô hạn. Vì vậy, Lênin đã dạy "Học, học nữa , học mãi". Phê phán nền giáo dục của các chế độ xã hội từ phong kiến đến TBCN, nhận thức vị trí vai trò quan trọng của giáo dục, các nhà kinh điển Mác xít đã chỉ ra phương hướng, nhiệm vụ của nền giáo dục mới là phải đào tạo ra những con người mới phát triển toàn diện có trí tuệ, hoàn thiện nhân cách phục vụ chế độ xã hội mới. Quá trình hình thành nhân cách ở mỗi người là quá trình lâu dài; khi trẻ em mới sinh ra chỉ là một cơ thể sinh học có hàng loạt các thuộc tính tiềm năng, quá trình giáo dục sẽ phát triển các thuộc tính tiềm năng ấy, biến đứa trẻ thành người với thức thể trí tuệ có khả năng sáng tạo. Nếu không được giáo dục (từ cha mẹ, gia đình, xã hội) thì đứa trẻ không thể nào thích ứng được với cuộc sống hiện tại. Giáo dục với t cách là quá trình văn hoá góp phần quan trọng hình thành nhân cách ở mỗi con người nhằm thích ứng với cuộc sống lao động. Nghĩa là quá trình giáo dục đó dạy cho họ cách ứng xử làm thế nào để đạt được mục đích chủ yếu, cơ bản của cuộc sống, học để tồn tại và phát triển. Như vậy, sự hình thành nhân cách chỉ có thể thông qua giáo dục. 2. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh vị lãnh tụ thiên tài của nhân dân Việt Nam, Danh nhân văn hoá thế giới trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, người đặc biệt coi trọng vấn đề giáo dục - đào tạo. Ngay từ lúc Cách mạng Vịêt Nam còn trong thời kỳ trứng nước, người đã tổ chức đưa con em nước ta ra nước ngoài để mở lớp đào tạo, học tập lí luận chủ nghĩa Mác - Lênin, bồi dưỡng về đường lối Cách mạng vô sản. Người đã trực tiếp giảng dạy và huấn luyện lớp học đầu tiên tại, (Quảng Châu). Sau khi lớp học kết thúc hầu hết các học viên đều đã trở thành chiến sĩ cách mạng. Trong đó, nhiều người trở thành lãnh tụ cùng người lãnh đạo cách mạng nước ta giành thắng lợi, khai sinh ra nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam á vào năm 1945.Sau ngày nước nhà độc lập trong khi khó khăn chồng chất, người nhận định rằng: nhân dân ta đang phải đối mặt với nhiều trở ngại lớn đó là; giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Người viết: "Chúng ta đã giành được độc lập, một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí, để mọi người Việt Nam có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà". Người kêu gọi toàn dân chung lòng góp sức tiêu diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Đông thời, người xác định, "dốt nát chính là kẻ địch"và "một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Do đó, ngay sau khi cách mạng tháng 8 thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ, nhiệm vụ đặt ra là toàn dân học chữ quốc ngữ, sau hơn một năm thực hiện chính sách diệt giặc dốt, nhân dân nước ta từ trên 90% dân số bị mù chữ đã biết đọc, biết viết. Đây là một kỳ tích mà nhân dân ta đã đạt được trong cuộc cách mạng cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới. Trong ngày khai trưường đầu tiên (3 / 9/ 1945) chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi th cho các cháu học sinh cả nước. Trong th gửi các cháu học sinh, người bày tỏ tình cảm và gửi gắm niềm tin vào thế hệ trẻ tương lai: "Non sông Việt nam có trở nên vẻ vang hay không? Dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cưường quốc năm châu hay không? Chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu? (Hồ Chí Minh về Giáo Dục, Nhà Xuất Bản, Hà Nội 1962)". Theo Hồ Chí Minh thì sự nghiệp trồng người là công việc lâu dài và khác hẳn so với công việc khác. Nó đòi hỏi phải chuẩn bị chu đáo và tỉ mỉ, không được nóng vội. Chính vì thế, người đa ra khẩu hiệu: Vì sự nghiệp mời năm trồng cây, vì sự nghiệp trăm năm trồng người. Và để xây dựng xã hội chủ nghĩa người đã nói rằng: "Muốn có chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa". Người đặt ra động cơ và mục tiêu GD - ĐT là: "Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, tổ quốc và nhân loại". (HCM về GD, NXB GD, tái bản năm 1990) và theo người "Học là để sửa chữa t tưởng". "Học để tu dỡng đạo đức cách mạng", "Học để tin tưởng" và "Học để hành". (HCM toàn tập, T4, NXB sự thật, H - 1995). Những quan điểm , tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục là di sản quí báu đóng góp vào kho tàng lí luận quản lí, chỉ đạo công tác giáo dục ở nước ta. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, những giá trị lí luận, giá trị thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đã trở thành, định hướng giá trị cho mỗi con người và cho cả dân tộc Việt Nam. 3. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam: Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã nhận thức đúng đắn vai trò quan trọng của GD - ĐT trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước, đặc biệt là thời kỳ CNH, HĐH. Sáu mươi năm qua, dới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta, ngành giáo dục, đào tạo cùng nhân dân cả nước vượt qua khó khăn thực hiện thắng lợi đường lối giáo dục và đổi mới về giáo dục, đa sự nghiệp giáo dục và đào tạo tiến lên đạt nhiều thành tựu mới, góp phần quan trọng trong việc đào tạo lớp lớp các thế hệ cán bộ phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng Tổ quốc. Trong văn kiện hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 2 khoá VIII đã nêu rõ những quan điểm cơ bản của Đảng ta về giáo dục, đào tạo là giữ vững mục tiêu định hướng XHCN: "Nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của giáo dụclà nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lí tưởng độc lập dân tộc và CNXH, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quố; CNH, HĐH đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có t duy sáng tạo, có kĩ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tỉnh tổ chức và kỉ luật, có sức khoẻ, là những người thừa kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "Hồng" vừa "Chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ".(Văn kiện hội nghị BCH TW lần thứ 2 khoá 8 tr 28- 29). Về mục tiêu đi lên CNXH Đảng ta khẳng định: "Giữ vững mục tiêu XHCN trong nội dung, phương pháp giáo dục, đào tạ, trong các chính sách nhất là chính sách công bằng xã hội. Phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trưường đối với giáo dục, đào tạo. Chống khuynh hướng thương mại hoá; đề phòng khuynh hớng phi chính trị hoá giáo dục, đào tạo không truyền bá tôn giáo trong trưường học". (ĐCS VN , văn kiện HN TW2 khoá 8, NXB chính trị QG, H - 1997, Tr 28, 29). Đảng ta thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đây là chủ trương lớn được Đảng ta xác định từ Đại hội toàn quốc lần thứ VII. Chủ trương này tiếp tục được nhấn mạnh và cụ thể hoá trong văn kiện hội nghị Trung ương lần thứ 4 - khoá VII, hội nghị Trương ương lầ thứ 2, khoá 8, hội nghị Trung ương lần thứ 6 khoá 9. Đảng ta đã khẳng định 1 cách nhất quán là: "Giáo dục, đào tạo là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Đầu tư cho giáo dụ, đào tạo là đầu tư cho sự phát triển thực hiện các chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với giáo dục, đào tạo, đặc biệt là chính sách đầu t và chính sách tiền lương. Có các giải pháp mạnh mẽ để phát triển GD". (Đảng cộng sản Việt Nam NQ TW 6, khoá IX). Đảng ta cũng xác định, giáo dục, đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Mọi người dân có quyền lợi và nghĩa vụ học tập. Mọi cơ quan của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể xã hội đều có trách nhiệm chăm lo cho sự nghiệp giáo dục. Các tổ chức kinh tế xã hội, các gia đình và cá nhân có trách nhiệm tích cực tham gia các phong trào nhằm phát triển sự nghiệp GD - ĐT. phối kết hợp một cách chặt chẽ và thống nhất về mục tiêu, nội dung GD giữa nhà trưường, gia đình và xã hội. Phát triển giáo dục, đào tạo gắn liền với yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội , khoa học kỹ thuật, công nghệ và củng cố an ninh quốc phòng. Do đó, phát triển giáo dục cần coi trọng cả 3 mặt: Mở rộng qui mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Thực hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo dục với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, học đi đôi với hành, gia đình gắn liền với xã hội, lý luận gắn liền với thực tiễn. Đảng và Nhà nước ta tạo mọi điều kiện để thực hiện công bằng trong giáo dục, để ai có nhu cầu được học tập cũng được đi học. Đối với người nghèo nhà nước và cộng đồng giúp đỡ. Đối với những người học giỏi, các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế tạo điều kiện để họ tiếp tục phát triển trở thành nhân tài của đất nước. Để giữ vững định hướng XHCN thì các trưường công lập phải giữ vai trò nòng cốt trong sự nghiệp giáo dục. Nhà nước thống nhất quản lí về nội dung, chương trình, qui chế học tập, thi cử, văn bằng, tiêu chuẩn giáo viên, tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội lựa chọn hình thức học tập phù hợp với hoàn cảnh của mình. Phát triển các trưường bán công, dân lập ở những nơi có điều kiện, từng bước mở các trường tư thục Mầm non, THPT, TH chuyên nghiệp, dạy nghề và đại học. Mở thêm các loại hình đào tạo không tập trung, đào tạo từ xa... Trong văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IX một lần nữa khẳng định: "phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững". (Văn kiện ĐH IX, H - 2001- Tr 108 - 109). Trên đây là những quan điểm cơ bản của Đảng ta về GD - ĐT nói chung và sự nghiệp GD - ĐT trong quá trình đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước. Những quan điểm đó là biểu hiện tập trung của việc nghiên cứu và vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin, t tưởng HCM vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Những quan điểm nêu trên sẽ là cơ sở cho việc nhận thức hoạt động giáo dục ở từng địa phương, phân tích mặt mạnh, mặt yếu và tồn tại. từ đó tìm ra giải pháp đúng đắn nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở các địa phương nói riêng và phát triển sự nghiệp GD - ĐT của nước ta nói chung. II. Vị trí, vai trò của GD THCS trong thời kỳ CNH, HĐH. Trong hệ thống giáo dục - ĐT , GD phổ thông đóng vai trò đặc biệt quan trọng, nó đặt nền móng cho việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo ra những con người có kiến thức, văn hoá lao động tự chủ, sáng tạo có kĩ thuật, giàu lòng nhân ái, yêu CNXH, sống lành mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước. Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hoá của một đất nước, là sức mạnh tương lai của dân tộc. Trong hệ thống Giáo dục phổ thông, THCS là một điểm chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo. Đại hội IX của Đảng đề ra đường lối phát triển của giáo dục, đào tạo: "phát triển giáo dục Mầm non, củng cố vững chắc kết qủa xóa mù chữ và phổ cập Trung học cơ sở trong cả nước..." (ĐCS VN - VKĐHTQ lần T9 - NXB CTQG 2001 - Tr2002). THCS là mắt xích quan trọng trong hệ thống giáo dục phổ thông hoản chỉnh (Vừa tiếp nối vừa chuyển tiếp). Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp cho học sinh củng cố và phát triển những kết quả của phổ cập giáo dục tiểu học và phổ cấp giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, giúp học sinh củng cố vững chắc, phát triển những kiến thức mà học sinh đã được học ở Tiểu học, đồng thời có học vấn đêtrung học cơ sở, có những hiểu biết thông thường về kĩ thuật dạy nghề phổ thông, trung học chuyên nghiệp, để vào cuộc sống. ở lứa tuổi học tập này, qua môi trường giáo dục, học sinh bộc lộ rõ tài năng và hình thành hướng đi sau này cho bản thân. Vì vậy, đầu t và nâng cao chất lượng giáo dục trung học cơ sở là vô cùng quan trọng, cần thiết là phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010 trên phạm vi cả nước; góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho CNH, HĐH đất nước như kế hoạch đã đề ra. Giáo dục phổ thông là nền tảng của sự hình thành nhân cách, trong đó giáo dục trung học cơ sở có ý nghĩa quyết định đến việc hình thành nhân cách học sinh. Mặc dù đây chưa phải là bậc cuối cùng, song nó cũng có vai trò quyết định đến việc hình thành nhân cách cho học sinh. Đây là một cấp học tiếp tục góp phần phát triển nhân cách cho học sinh giúp cho các em có chí hướng phấn đấu học lên bậc trung học phổ thông để tạo nguồn, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước: "Giáo dục nhằm mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách XHCN của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ lao động có kĩ thuật đồng bộ về ngành nghề, phù hợp với yêu cầu phân công lao động xã hội " (Văn kiện ĐH 8 - NXB CTQG - 1996 - Tr 81). Chất lượng con người phải đi từ nền tảng ban đầu ở các cấp học nhất là trung học cơ sở. Nếu không có các giải pháp để phát triển giáo dục trung học cơ sở tạo nền móng vững chắc thì không thể nói đến tương lai của lớp người xây dựng và bảo vệ tổ quốc kế tiếp của lịch sử dân tộc. chương II: Thực trạng chất lượng giáo dục trung học cơ sở ở huyện Thanh Sơn - tỉnh Phú Thọ. từ năm 2000-2005. I. khái quát tình hình kinh tế - xã hội huyện Thanh Sơn 1. Đặc điểm tự nhiên. Thanh Sơn là một huyện miền núi phía Tây - Bắc tỉnh Phú Thọ, có vị trí là nơi chung chuyển giữa khu vực tây bắc (Hoà Bình - Sơn La - Yên Bái) của Tổ quốc với thủ đô Hà Nội. Nối các khu vực đó là đưường quốc lộ 32A và một số đưởng tỉnh lộ cùng hệ thống sông, suối đáng kể nhất là sông Đà, sông Bứa. Huyện có diện tích tự nhiên 1.309,21 Km2, dân số hơn 19 vạn người sinh sống trong cộng đồng của 23 dân tộc. Chủ yếu là dân tộc Mưường (60,6%) dân tộc kinh (34%) còn lại là các dân tộc Tày, Nùng, Dao,….. Toàn huyện có 39 xã và 1 thị trấn trong đó có 25 xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK) và an toàn khu (ATK). Là một huyện có diện tích rộng chiếm 38,2% diện tích toàn tỉnh song phần lớn diện tích đất tự nhiên là diện tích đồi núi và sông suối; huyện là vùng chịu tác động của khí hậu khắc nghiệt, luôn tiềm ẩn yếu tố thời tiết và nhiều nguy cơ bất thường khác, giao thông đi lại khó khăn, ảnh hưởng đến sự phát triển . 2. Tình hình kinh tế - xã hội Huyện Thanh Sơn là một huyện dân tộc miền núi đặc thù được Đảng, Nhà nước quan tâm với nhiều chủ trương chính sách lớn, kịp thời. Người dân Thanh Sơn có truyền thống đoàn kết, cần cù, dũng cảm, sáng tạo trong lao động sản xuất. Cán bộ đảng viên, nhân dân Thanh Sơn đã kiên trì nỗ lực phấn đấu vợt qua khó khăn thử thách thu được nhiều thắng lợi to lớn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCL GIAO DUC.doc
Tài liệu liên quan