Luận văn Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ hiện nay

Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII khẳng định: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng" [18, tr. 33].

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng" [39, tr. 269].

Cấp xã (xã, phường, thị trấn) là một cấp trong hệ thống hành chính bốn cấp của Nhà nước Việt Nam, là nền tảng của hệ thống chính trị. Cấp xã giữ một vai trò, vị trí hết sức quan trọng, là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật và nhiệm vụ cấp trên giao, là cấp chính quyền trực tiếp chăm lo đến đời sống của nhân dân, là cầu nối giữa nhà nước với nhân dân.

Qua từng thời kỳ lịch sử, chính quyền cấp xã không ngừng được xây dựng và củng cố, bảo đảm cho chính quyền nhà nước vững mạnh từ cơ sở.

Cán bộ là một yếu tố quan trọng nhất trong việc xây dựng và củng cố chính quyền cấp xã vững mạnh. Đồng thời muốn xây dựng và củng cố chính quyền cấp xã vững mạnh thì phải xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực và phẩm chất để thực hiện sự nghiệp đổi mới mà Đảng ta đã khởi xướng.

Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước đã xác định từ nay đến năm 2005, cần tập trung giải quyết mấy vấn đề cơ bản và bức xúc trong đó ghi rõ:

Xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân; trẻ hóa đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở [20, tr. 167-168].

Thực tế cho thấy, ở những xã chính quyền vững mạnh là do có đội ngũ cán bộ mạnh và những xã yếu kém thì thường cũng bắt đầu yếu kém từ khâu cán bộ. Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã trong cả nước nói chung và tỉnh Phú Thọ nói riêng đã có những mặt tiến bộ rõ nét.

Thực hiện Nghị quyết 09 ngày 14 tháng 8 năm 1997 của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Phú Thọ về xây dựng chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh, đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nhiều mặt, nhất là kiến thức quản lý nhà nước. Theo đó năng lực lãnh đạo, năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ của cán bộ chính quyền cấp xã không ngừng được nâng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới, góp phần tạo nên chuyển biến trên tất cả các mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, an ninh, quốc phòng trên địa bàn tỉnh.

Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước, của địa phương thì đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã còn nhiều bất cập. Trong năm 2001, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh đã tổ chức thi chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn giỏi tỉnh Phú Thọ lần thứ nhất. Qua cuộc thi cho thấy trình độ năng lực của đội ngũ chủ tịch UBND cấp xã còn nhiều hạn chế bất cập, nhất là sự hiểu biết về pháp luật liên quan đến quản lý nhà nước ở cấp xã, phường, thị trấn cũng còn nhiều hạn chế. Do những hạn chế đó, nên trong quá trình quản lý khi gặp những tình huống, những vụ việc rắc rối không đề ra được phương án giải quyết tối ưu. Cũng thông qua cuộc thi cho thấy có sự chênh lệch cả về nhận thức, năng lực giữa chủ tịch UBND các xã miền núi so với các xã, phường, thị trấn đồng bằng, thành phố, thị xã. Đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã của tỉnh hầu hết chưa qua đào tạo cơ bản, chủ yếu là qua các lớp bồi dưỡng ngắn ngày. Những lúng túng, va vấp, vi phạm trong công việc là điều khó tránh khỏi. Đây là một vấn đề rất lớn đặt ra cho Phú Thọ về đào tạo để nâng cao trình độ năng lực cho đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã. Bên cạnh những hạn chế do trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, một bộ phận không nhỏ cán bộ do tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, đã có biểu hiện suy thoái về phẩm chất, đạo đức, sống xa dân, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, mất dân chủ, tham nhũng, lãng phí, lợi dụng chức quyền làm trái các nguyên tắc quản lý, bán và sang nhượng đất trái phép, thậm chí bớt xét tham ô tiền của nhà nước, bị truy tố trước pháp luật. gây tổn hại không nhỏ đến uy tín và làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tình trạng khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện đông người vẫn còn. Bên cạnh đó, hoạt động của các đại biểu HĐND cấp xã còn nhiều hạn chế. Năng lực, trình độ của các đại biểu HĐND cấp xã không đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của nhiệm vụ mà nhân dân giao cho.

 

doc107 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1360 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII khẳng định: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng" [18, tr. 33]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng" [39, tr. 269]. Cấp xã (xã, phường, thị trấn) là một cấp trong hệ thống hành chính bốn cấp của Nhà nước Việt Nam, là nền tảng của hệ thống chính trị. Cấp xã giữ một vai trò, vị trí hết sức quan trọng, là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật và nhiệm vụ cấp trên giao, là cấp chính quyền trực tiếp chăm lo đến đời sống của nhân dân, là cầu nối giữa nhà nước với nhân dân. Qua từng thời kỳ lịch sử, chính quyền cấp xã không ngừng được xây dựng và củng cố, bảo đảm cho chính quyền nhà nước vững mạnh từ cơ sở. Cán bộ là một yếu tố quan trọng nhất trong việc xây dựng và củng cố chính quyền cấp xã vững mạnh. Đồng thời muốn xây dựng và củng cố chính quyền cấp xã vững mạnh thì phải xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực và phẩm chất để thực hiện sự nghiệp đổi mới mà Đảng ta đã khởi xướng. Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước đã xác định từ nay đến năm 2005, cần tập trung giải quyết mấy vấn đề cơ bản và bức xúc trong đó ghi rõ: Xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân; trẻ hóa đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở [20, tr. 167-168]. Thực tế cho thấy, ở những xã chính quyền vững mạnh là do có đội ngũ cán bộ mạnh và những xã yếu kém thì thường cũng bắt đầu yếu kém từ khâu cán bộ. Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã trong cả nước nói chung và tỉnh Phú Thọ nói riêng đã có những mặt tiến bộ rõ nét. Thực hiện Nghị quyết 09 ngày 14 tháng 8 năm 1997 của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Phú Thọ về xây dựng chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh, đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nhiều mặt, nhất là kiến thức quản lý nhà nước. Theo đó năng lực lãnh đạo, năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ của cán bộ chính quyền cấp xã không ngừng được nâng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới, góp phần tạo nên chuyển biến trên tất cả các mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, an ninh, quốc phòng trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước, của địa phương thì đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã còn nhiều bất cập. Trong năm 2001, ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh đã tổ chức thi chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn giỏi tỉnh Phú Thọ lần thứ nhất. Qua cuộc thi cho thấy trình độ năng lực của đội ngũ chủ tịch UBND cấp xã còn nhiều hạn chế bất cập, nhất là sự hiểu biết về pháp luật liên quan đến quản lý nhà nước ở cấp xã, phường, thị trấn cũng còn nhiều hạn chế. Do những hạn chế đó, nên trong quá trình quản lý khi gặp những tình huống, những vụ việc rắc rối không đề ra được phương án giải quyết tối ưu. Cũng thông qua cuộc thi cho thấy có sự chênh lệch cả về nhận thức, năng lực giữa chủ tịch UBND các xã miền núi so với các xã, phường, thị trấn đồng bằng, thành phố, thị xã. Đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã của tỉnh hầu hết chưa qua đào tạo cơ bản, chủ yếu là qua các lớp bồi dưỡng ngắn ngày. Những lúng túng, va vấp, vi phạm trong công việc là điều khó tránh khỏi. Đây là một vấn đề rất lớn đặt ra cho Phú Thọ về đào tạo để nâng cao trình độ năng lực cho đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã. Bên cạnh những hạn chế do trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, một bộ phận không nhỏ cán bộ do tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, đã có biểu hiện suy thoái về phẩm chất, đạo đức, sống xa dân, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, mất dân chủ, tham nhũng, lãng phí, lợi dụng chức quyền làm trái các nguyên tắc quản lý, bán và sang nhượng đất trái phép, thậm chí bớt xét tham ô tiền của nhà nước, bị truy tố trước pháp luật... gây tổn hại không nhỏ đến uy tín và làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tình trạng khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện đông người vẫn còn. Bên cạnh đó, hoạt động của các đại biểu HĐND cấp xã còn nhiều hạn chế. Năng lực, trình độ của các đại biểu HĐND cấp xã không đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của nhiệm vụ mà nhân dân giao cho. Trong bối cảnh trên, cần có một sự nghiên cứu toàn diện về đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã để có giải pháp nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ. Từ những phân tích nêu trên tác giả lựa chọn đề tài: " Nõng cao chất lượng đội ngũ cỏn bộ chớnh quyền cấp xó ở tỉnh Phỳ Thọ hiện nay " để làm luận văn thạc sĩ. Đây là vấn đề cấp bách, phù hợp với yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước hiện nay, phù hợp với thực tiễn của địa phương. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã từ năm 1991 đến nay đã được các nhà nghiên cứu khoa học xã hội và các nhà hoạt động chính trị quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau như: Học viện Hành chính Quốc gia năm 1991, đã công bố một cuốn sách về: "Cải cách bộ máy quản lý hành chính nhà nước và xây dựng đội ngũ công chức nhà nước". Có nhiều công trình khoa học, các luận văn thạc sĩ, cử nhân nghiên cứu về bộ máy chính quyền cấp xã trong đó có bàn về đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã. Đáng chú ý là các công trình sau đây: Giáo sư Hồ Văn Thông: "Tình hình các tổ chức chính trị ở nông thôn nước ta" được in trong cuốn sách "Kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam ngày nay", tập 2, Nxb Tư tưởng văn hóa, Hà Nội 1991; Lê Đình Chếch: "Về nhà nước xã hội chủ nghĩa và công tác cán bộ chính quyền cấp xã ở Hải Hưng", Luận văn thạc sĩ triết học, Hà Nội, 1994; Nguyễn Thị Hải: "Về đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã ở Thái Bình trong điều kiện cải cách nền hành chính nhà nước", Hà Nội, 2001. Trong điều kiện cải cách hành chính nhà nước, vấn đề đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã được đặc biệt quan tâm. Một số đề tài khoa học, công trình nghiên cứu đề cập trực tiếp đến vấn đề này và hoàn chỉnh hơn. Chẳng hạn: Phó giáo sư, tiến sĩ Bùi Tiến Quý "Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay ở nước ta", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000; Tiến sĩ Thang Văn Phúc và tiến sĩ Chu Văn Thành đồng chủ biên: "Chính quyền cấp xã và quản lý nhà nước cấp xã" của Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước, Ban Tổ chức Cán bộ chính phủ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hiến chủ biên "Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính ở Việt Nam" của Học viện Hành chính Quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001; Tiến sĩ Nguyễn Văn Sáu và giáo sư Hồ Văn Thông chủ biên: "Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay" của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001; Thạc sĩ Phạm Đức Thăng: "Mấy suy nghĩ về việc củng cố tổ chức Đảng và chính quyền cấp xã hiện nay", Thông tin Chính trị học, số 1(8)/2001; Phó giáo sư, tiến sĩ Hoàng Chí Bảo: "Một số vấn đề xử lý nạn quan liêu, tham nhũng như một tình huống chính trị", Thông tin Chính trị học, số 2 (9)/2001; Tiến sĩ Nguyễn Văn Sáu và Giáo sư Hồ Văn Thông chủ biên: "Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay", Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Đăng Dung: "Tổ chức chính quyền nhà nước ở địa phương", Nxb Đồng Nai, 1997. Ngoài ra, một số bài viết, nghiên cứu được đăng trên các Tạp chí Thông tin Chính trị học, Tạp chí Quản lý nhà nước, Nhà nước pháp luật như: Tiến sĩ Lê văn Hòe: "Về hoàn thiện tổ chức bộ máy hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi ", Đề tài độc lập cấp nhà nước: "Các giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị các tỉnh miền núi", Hà Nội, 2002. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đều đề cập vấn đề đội ngũ cán bộ của chính quyền cấp xã, hoặc là ở dạng chung nhất hoặc đặt nó nằm trong phạm vi nghiên cứu tổ chức hoạt động của bộ máy chính quyền cấp xã nói chung, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu có hệ thống dưới góc độ một luận văn khoa học về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở một tỉnh cụ thể như đề tài luận văn lựa chọn ở đây. Tuy nhiên, trong các công trình đã được công bố có những nội dung liên quan đến đề tài sẽ được tác giả luận văn tham khảo có kế thừa, chọn lọc. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích của luận văn Mục đích của luận văn là đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã của tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay. - Nhiệm vụ của luận văn Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau đây: + Phân tích cơ sở lý luận về cán bộ chính quyền cấp xã và chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã. Trong đó hệ thống hóa những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng, Nhà nước ta về đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã; khái niệm và những tiêu chí đánh giá, những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã. + Phân tích thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã tỉnh Phú Thọ, qua đó nêu ra những vấn đề tồn tại cần khắc phục cũng như phân tích các nguyên nhân hạn chế đến chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở Phú Thọ. + Đề xuất các phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng, đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở Phú Thọ nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn - Quan niệm về chính quyền cấp xã còn nhiều ý kiến khác nhau. Luận văn nghiên cứu đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã chỉ tập trung vào đội ngũ cán bộ của HĐND và UBND cấp xã. - Luận văn nghiên cứu đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở Phú Thọ nhưng chỉ giới hạn từ thời kỳ tái lập tỉnh Phú Thọ năm 1997 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Đảng và Nhà nước ta về nhà nước, pháp luật xã hội chủ nghĩa (XHCN), về cán bộ, về chính quyền cấp xã và đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã. - Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của triết học Mác - Lênin, kết hợp các phương pháp lịch sử - thực tiễn; phân tích tổng hợp, điều tra xã hội học; thống kê, so sánh... 6. Đóng góp mới của luận văn - Luận văn góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã. Đặc biệt làm rõ đặc điểm của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở một tỉnh trung du, miền núi như tỉnh Phú Thọ. - Trên cơ sở đánh giá thực trạng về chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã của tỉnh Phú Thọ, luận văn đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, đáp ứng nhiệm vụ cách mạng hiện nay đối với một tỉnh trung du miền núi, có nhiều dân tộc, đa dạng các loại hình kinh tế như tỉnh Phú Thọ. - Luận văn có thể làm tư liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 cƠ Sở lý luận về chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã 1.1. Chính quyền cấp xã và vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chính quyền cấp xã a) Khái niệm chung về chính quyền cấp xã Trong hệ thống hành chính nước ta, chính quyền xã - phường - thị trấn (gọi chung là cấp xã) là chính quyền cấp thấp nhất trong hệ thống chính quyền 4 cấp hoàn chỉnh: Trung ương, tỉnh, huyện, xã. Tính đến 19 tháng 4 năm 2002, nước ta có 10.579 đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn, trong đó có 8.964 xã, 573 thị trấn, 1.042 phường. Dưới xã, phường, thị trấn có các cộng đồng dân cư tự quản; dưới xã có thôn, làng, ấp, bản, buôn. Dưới phường, thị trấn có tổ dân phố, ở một số thành phố, thị xã giữa phường và tổ dân phố có cụm dân cư, giữa xã và thôn có khu hành chính. Số lượng xã, phường, thị trấn trong những năm qua không ổn định. Cùng với quá trình chia tách các tỉnh, huyện, việc thành lập mới các xã, phường, thị trấn diễn ra ở hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Chỉ trong vòng 7 năm từ 1995 đến 2002 đã tăng 357 đơn vị trong đó có 59 xã, 213 phường và 85 thị trấn. Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp thực hiện nhiệm vụ cụ thể quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội ở cơ sở, đảm bảo các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống, nâng cao mọi mặt đời sống của nhân dân. Sự trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả của chính quyền cấp xã đóng vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công phục vụ nhân dân. Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước, Đảng và nhân dân ta luôn dành sự quan tâm đối với chính quyền cấp xã. Cùng với việc hoàn thiện thể chế, chính sách đãi ngộ và đầu tư cơ sở vật chất, Đảng và Nhà nước luôn chăm lo xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã. Chính quyền cấp xã là cấp chính quyền gần dân nhất, là cầu nối trực tiếp giữa hệ thống chính quyền cấp trên với nhân dân, hàng ngày tiếp xúc, nắm bắt và phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Cấp xã có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế- xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Chính quyền được hiểu là bộ máy điều khiển, quản lý công việc của nhà nước và hoạt động của nó mang tính chất quyền lực của Nhà nước, bằng phương thức tác động của Nhà nước. Cấp xã là đơn vị cấp dưới cùng, vì thế Chính quyền cấp xã chỉ bao gồm HĐND và UBND. Qua đó có thể hiểu, chính quyền cấp xã là một cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền 4 cấp của Việt Nam, là nơi trực tiếp thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, các mục tiêu kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng ở cơ sở, thực hiện việc quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn. Từ những phân tích trên đây, có thể nêu khái quát khái niệm chính quyền cấp xã như sau: Chính quyền cấp xã bao gồm HĐND và UBND là cấp thấp nhất trong hệ thống chính quyền 4 cấp ở Việt Nam, thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương, có chức năng thay mặt nhân dân địa phương, căn cứ vào nguyện vọng của nhân dân địa phương, quyết định và tổ chức thực hiện những vấn đề có liên quan đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và đời sống của nhân dân địa phương, theo Hiến pháp, pháp luật và các mệnh lệnh, quyết định của cấp trên. b) Đặc điểm của chính quyền cấp xã Chính quyền cấp xã có những đặc điểm sau: Một là: Chính quyền cấp xã có HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương và UBND do HĐND bầu ra là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Vì thế, chính quyền cấp xã là cấp trực tiếp thực hiện nhiệm vụ cụ thể về quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng ở cơ sở, là cầu nối trực tiếp giữa nhà nước và nhân dân, xử lý trực tiếp, kịp thời những yêu cầu hàng ngày của nhân dân. Hai là: Chính quyền cấp xã khác với chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện: Tổ chức bộ máy chính quyền cấp xã chỉ bao gồm cơ quan quyền lực nhà nước là HĐND là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân ở địa phương và UBND là cơ quan chấp hành của HĐND và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, không có các cơ quan tư pháp: Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân. Ba là: Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp tiếp xúc với nhân dân; cán bộ chính quyền cấp xã là người hàng ngày trực tiếp giải quyết những vấn đề liên quan đến mọi quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân đảm bảo theo đúng đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, các văn bản pháp luật của cấp trên. UBND còn có trách nhiệm rất nặng nề phải quản lý mọi mặt đời sống của nhân dân địa phương cho nên trong hoạt động mang nhiều tính chất hành chính địa phương. Bốn là: Trong hoạt động của chính quyền cấp xã, giữa HĐND và UBND khó tách biệt nhau về các lĩnh vực thẩm quyền và UBND có ưu thế vượt trội: Chính quyền cấp xã được coi là một cấp chính quyền hoàn chỉnh, bao quát toàn diện đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa bàn cơ sở. Nội dung các nghị quyết của HĐND và quyết định của UBND nhìn chung là giống nhau, chỉ khác ở chỗ: HĐND quyết định biện pháp, còn UBND tổ chức thực hiện. Trong khi đó, tổ chức bộ máy của HĐND không đủ sức hoạt động độc lập mà chủ yếu dựa vào bộ máy của UBND để soạn thảo các nghị quyết. Theo Điều 5, Luật tổ chức HĐND và UBND (sửa đổi): "Hội đồng nhân dân cấp xã có Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân" [35, tr. 7]. Đối với cấp tỉnh và cấp huyện: "Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có Thường trực Hội đồng nhân dân và các ban của Hội đồng nhân dân" [35, tr. 7]. Với cơ cấu tổ chức như trên, các ban của HĐND cấp tỉnh và cấp huyện có khả năng soạn thảo các nghị quyết, thức hiện chức năng quyết định các biện pháp, chủ trương về các vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh, cấp huyện. Trong khi đó, ở cấp xã, do không có bộ máy giúp việc, đại biểu HĐND lại kiêm nhiệm, việc chuẩn bị các kỳ họp hoàn toàn dựa vào bộ máy của UBND và mỗi năm chỉ họp từ 3 - 4 lần. Trong điều kiện đó, hoạt động của UBND sẽ có ưu thế vượt trội hơn, dễ lấn át HĐND, dễ lâm vào tình trạng "vừa đá bóng, vừa thổi còi". Năm là: Các đơn vị hành chính cấp xã, được hình thành trên nền tảng những địa điểm quần cư, nó liên kết dân cư trong một khối liên hoàn thống nhất. Mọi vấn đề của địa phương đều liên quan chặt chẽ với nhau và cần phải được giải quyết trên cơ sở kết hợp hài hòa các lợi ích: Nhà nước, dân cư và giữa dân cư với nhau. Chính quyền ở đây không chỉ là cơ quan cai trị- quản lý mà còn là cơ quan thể hiện lợi ích chung của dân cư. Trong khi tổ chức quyền lực nhà nước ở cấp trung ương có việc phân chia, hoặc phân công phân nhiệm một cách rạch ròi giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cấp tỉnh, cấp huyện cũng có cơ quan tư pháp - Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân. Riêng cấp xã, trong cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền chỉ có HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương và UBND là cơ quan chấp hành của HĐND và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, thậm chí UBND cấp xã, phường, thị trấn trong nhiều trường hợp còn phải kiêm nhiệm luôn cả chức năng tư pháp (xét xử, hòa giải). 1.1.2. Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều đánh giá rất cao vai trò của đội ngũ cán bộ. Có đường lối đúng đắn nhưng thiếu đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực thì cách mạng cũng khó thành công. Cán bộ có vai trò quyết định thắng lợi của cách mạng. C. Mác, Ph. Ăngghen là người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học, là lãnh tụ vĩ đại đầu tiên của phong trào cách mạng vô sản trên thế giới đã đưa ra những tư tưởng, quan điểm cơ bản về tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ cán bộ. Song do điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, chưa có một đảng vô sản nào giành được chính quyền nên Mác và Ăngghen chưa thể bàn cụ thể về cán bộ và công tác cán bộ trong điều kiện Đảng cầm quyền. Nhưng chính các ông đã trực tiếp bắt tay vào việc tuyển chọn, xây dựng đội ngũ cán bộ cho tổ chức cộng sản có tính quốc tế đầu tiên là "ủy ban thông tin cộng sản". Trong Đại hội "Liên đoàn những người cộng sản", Mác và Ăngghen đã nêu rõ nguyên tắc tổ chức một đảng cách mạng của giai cấp vô sản là phải lựa chọn cho mình những đại biểu công nhân giác ngộ nhất, tiêu biểu nhất theo phương châm: Cần phải sàng lọc từng người một. V.I. Lênin là người đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước Nga. Trong tác phẩm "Những nhiệm vụ bức thiết của phong trào chúng ta", khi nói về vai trò của người lãnh đạo phong trào cách mạng, Người đã chỉ rõ: "Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh đạo chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào" [30, tr. 473]. Tổng kết những năm đầu của cách mạng (1917-1922), V.I. Lênin đã khẳng định: "Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt; nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn" [33, tr. 449]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc" [39, tr. 269]; "công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và qua thực tiễn cách mạng ở các nước, các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế đều chứng minh và khẳng định vai trò quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ. Tính đến 19/4/2002, nước ta có 10.579 đơn vị hành chính cấp xã. Trong kỳ bầu cử ngày 14/11/1999, tổng số đại biểu HĐND xã, phường, thị trấn được bầu là 227.000 đại biểu. Tổng số cán bộ xã, phường, thị trấn được hưởng sinh hoạt phí và phụ cấp hàng tháng từ các nguồn ngân sách và kinh phí khác nhau trong toàn quốc khoảng 2 triệu người, bình quân mỗi xã, phường, thị trấn có khoảng 190 cán bộ. Cán bộ chuyên trách bình quân mỗi xã có 22 người. Đại biểu HĐND bình quân mỗi xã có 22 đại biểu; cán bộ cấp thôn tổng số có khoảng 480.000 người; cán bộ y tế, giáo dục mầm non khoảng 200.000 người. Cán bộ không chuyên trách (như cán bộ phụ trách công tác dân số, Hội người cao tuổi, Hội chữ thập đỏ, cán bộ hoạt động văn hóa - thông tin...) có khoảng 780.000 người. Có thể thấy, số lượng cán bộ cấp xã là quá lớn, và xu hướng còn mở rộng thêm chứ không tinh giảm được do công việc dồn xuống cấp dưới quá nhiều, và nhiều ngành cũng như cấp tỉnh, huyện đều muốn có cán bộ của mình ở cơ sở cấp xã. Trong hệ thống chính trị ở cơ sở có cán bộ chuyên trách và không chuyên trách: Cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao động, làm việc tại công sở để thực hiện chức trách được giao, bao gồm: Cán bộ giữ chức vụ qua bầu cử gồm: Cán bộ chủ chốt của cấp ủy đảng, HĐND, UBND, những người đứng đầu ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội. Cán bộ chuyên môn được UBND tuyển chọn gồm trưởng công an, xã đội trưởng, cán bộ văn phòng, địa chính, tài chính - kế toán, tư pháp, văn hóa - xã hội. Số lượng cán bộ chuyên trách do Chính phủ quy định. Tổng số cán bộ chuyên trách ở một xã, phường, thị trấn tối thiểu là 17 người, tối đa là 25 người (chưa kể kiêm nhiệm). Cán bộ chuyên trách ở cấp xã có chế độ làm việc và được hưởng chính sách chế độ về cơ bản như cán bộ, công chức nhà nước; khi không còn là cán bộ chuyên trách mà chưa đủ điều kiện để hưởng chế độ hưu trí, được tiếp tục tự đóng bảo hiểm xã hội hoặc hưởng phụ cấp một lần theo chế độ nghỉ việc. Cán bộ, công chức cơ sở có đủ điều kiện được thi tuyển vào ngạch công chức ở cấp trên. Theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2003, tại điểm g và h khoản 1, Điều 1 quy định: Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực HĐND, UBND; Bí thư, Phó bí thư Đảng ủy; người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn và những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã được gọi là cán bộ công chức nhà nước trong biên chế, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự nghiệp theo quy định của pháp luật. Cán bộ chính quyền cấp xã là bộ phận lớn nhất và rất quan trọng trong đội ngũ cán bộ của bộ máy chính quyền ở nước ta. Họ vừa là người đại diện của nhân dân trong quản lý hành chính nhà nước ở địa phương, vừa là người trực tiếp tổ chức thực hiện quyền hành pháp và quản lý hành chính nhà nước, cũng như thực hiện các nhiệm vụ quản lý và phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng ở địa phương. Cán bộ chính quyền cấp xã đã có nhiều đóng góp, trưởng thành trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc qua các thời kỳ cách mạng trước đây và hiện nay, họ vẫn phát huy được những ưu điểm của mình. Tuy nhiên, đứng trước những nhiệm vụ to lớn của giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, trước những hoàn cảnh và tình thế mới, đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã cũng bộc lộ nhiều điểm bất cập cần phải nghiên cứu khắc phục. Trước hết, đó là mâu thuẫn giữa số lượng ngày một tăng của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã nhưng chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã tuy rất đông về số lượng nhưng không đủ sức đảm đương được những

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUANVAN.DOC
  • docBIA-THS.DOC
  • docMUCLUC.DOC
  • docVIETTAT.DOC
Tài liệu liên quan