Hoạt động kiểm sát điều tra (KSĐT), là một giai đoạn quan trọng trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự. Theo quy định của Bộ luật hình sự (BLHS) và Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam thì điều tra là một trong những hoạt động tư pháp quan trọng của Nhà nước ta nhằm bảo đảm mọi hành vi vi phạm pháp luật có tính chất nguy hiểm cho xã hội có dấu hiệu tội phạm phải được điều tra làm rõ.
KSĐT các vụ án hình sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tố tụng nói chung và trong lĩnh vực thực hành quyền công tố nói riêng; nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. KSĐT còn có vai trò đảm bảo mọi hành vi vi phạm và tội phạm phải được phát hiện và xử lý chính xác kịp thời, tăng cường đấu tranh phòng, chống tội phạm, ở nước ta hiện nay.
Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên và quan trọng của cả quá trình tố tụng nhằm xác định rõ hành vi phạm tội của tội phạm. Công tác kiểm sát được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật sẽ giúp cho cơ quan điều tra, hoạt động đúng hướng, khởi tố vụ án, khởi tố bị can được đúng người đúng tội; hoạt động điều tra được đầy đủ, chính xác và kịp thời. Kết quả điều tra vụ án hình sự là điều kiện tiên quyết thiết thực, trực tiếp cho việc thực hiện quyền công tố và công tác kiểm sát việc truy tố và công tác xét xử của tòa án được đúng người, đúng tội và đúng chính sách, pháp luật; tránh làm oan người vô tội và tránh bỏ lọt tội phạm.
Qua 20 năm đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong nhiều thành tựu và kinh nghiệm cho thấy Nhà nước ta đang hoàn thiện Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do dân và vì dân. Một trong những nội dung xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước là vấn đề cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Hoạt động điều tra, hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp và hoạt động xét xử, thi hành án được đặc biệt nhấn mạnh trong Nghị quyết số 08 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới" của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49 ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Là một trong những cơ quan trọng yếu trong bộ máy các cơ quan tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) với vị trí, vai trò là cơ quan bảo đảm cho nền pháp chế được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất cũng phải thực hiện sự đổi mới cả về tổ chức và hoạt động thì mới hoàn thành được nhiệm vụ của mình trước những yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới. Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND đã được Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị xác định:
Viện Kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án, trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ. Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, đảm bảo tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. [10].
Trước mắt Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân. Nghiên cứu việc chuyển đổi Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra [12].
Như vậy, trong giai đoạn hiện nay ngành kiểm sát nhân dân cần tăng cường thực hiện chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố nhà nước và kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động tư pháp. Nói chung là tăng cường công tác KSĐT đã đúng hướng, hoạt động kiểm sát điều tra là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật.
Về phương diện lý luận, áp dụng pháp luật nói chung đã được giới khoa học pháp lý làm sáng tỏ. Song áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự vẫn còn là một vấn đề cần được nghiên cứu cụ thể hơn từ khái niệm đến đặc điểm các giai đoạn áp dụng pháp luật và những yêu cầu cụ thể mà Viện kiểm sát (VKS) cũng như kiểm sát viên thực hiện. Áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra là mối quan hệ giữa "cái chung" và "cái riêng". Chắc chắn "cái riêng" bao giờ cũng phong phú, đa dạng và phức tạp hơn "cái chung". Nghiên cứu vấn đề này cũng là đáp ứng yêu cầu đòi hỏi từ thực tiễn đặt ra của vấn đề áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự của ngành kiểm sát nhân dân giai đoạn hiện nay. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án ở nước ta trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả. Sự phối hợp giữa cơ quan điều tra và VKS về cơ bản đã đáp ứng được nhiệm vụ đấu tranh phòng chống vi phạm và tội phạm.
Tuy nhiên, qua công tác tổng kết, đánh giá thực tế cho thấy, công tác KSĐT của VKS vẫn còn bộc lộ một số yếu kém, hạn chế như: Nhiều kiểm sát viên, nhiều đơn vị không thực hiện được công tác KSĐT ngay từ giai đoạn đầu, còn thụ động trong việc điều tra của cơ quan điều tra. Hoặc là vì sợ trách nhiệm nên làm thay một số thao tác của điều tra viên, không theo dõi đề ra yêu cầu điều tra. Hoặc là bỏ mặc cho điều tra viên tiến hành điều tra một cách độc lập dẫn tới nhiều vụ án còn bị kéo dài, phải ra hạn thời hạn điều tra, còn để lọt hành vi tội phạm, thậm chí còn làm oan người vô tội Những vi phạm trên cho thấy chất lượng và hiệu quả của công tác KSĐT của ngành Kiểm sát nhân dân vẫn còn bộc lộ yếu kém. Những yếu kém trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, có những nguyên nhân chủ quan cũng như những nguyên nhân khách quan. Trong đó chủ yếu là do ý thức pháp luật cao hay thấp và năng lực áp dụng pháp luật trong hoạt động thực tiễn của cơ quan điều tra, VKSND.
Để phát huy dân chủ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong thực hành quyền công tố nói chung và trong hoạt động áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự nói riêng. Vai trò của VKSND trong áp dụng pháp luật cần phải được nâng cao chất lượng và hiệu quả và coi đó là như là nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của ngành tư pháp nước ta cũng như của khoa học pháp lý cách mạng.
129 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1207 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động kiểm sát điều tra (KSĐT), là một giai đoạn quan trọng trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự. Theo quy định của Bộ luật hình sự (BLHS) và Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam thì điều tra là một trong những hoạt động tư pháp quan trọng của Nhà nước ta nhằm bảo đảm mọi hành vi vi phạm pháp luật có tính chất nguy hiểm cho xã hội có dấu hiệu tội phạm phải được điều tra làm rõ.
KSĐT các vụ án hình sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tố tụng nói chung và trong lĩnh vực thực hành quyền công tố nói riêng; nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. KSĐT còn có vai trò đảm bảo mọi hành vi vi phạm và tội phạm phải được phát hiện và xử lý chính xác kịp thời, tăng cường đấu tranh phòng, chống tội phạm, ở nước ta hiện nay.
Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên và quan trọng của cả quá trình tố tụng nhằm xác định rõ hành vi phạm tội của tội phạm. Công tác kiểm sát được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật sẽ giúp cho cơ quan điều tra, hoạt động đúng hướng, khởi tố vụ án, khởi tố bị can được đúng người đúng tội; hoạt động điều tra được đầy đủ, chính xác và kịp thời. Kết quả điều tra vụ án hình sự là điều kiện tiên quyết thiết thực, trực tiếp cho việc thực hiện quyền công tố và công tác kiểm sát việc truy tố và công tác xét xử của tòa án được đúng người, đúng tội và đúng chính sách, pháp luật; tránh làm oan người vô tội và tránh bỏ lọt tội phạm.
Qua 20 năm đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong nhiều thành tựu và kinh nghiệm cho thấy Nhà nước ta đang hoàn thiện Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do dân và vì dân. Một trong những nội dung xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước là vấn đề cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Hoạt động điều tra, hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp và hoạt động xét xử, thi hành án được đặc biệt nhấn mạnh trong Nghị quyết số 08 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới" của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49 ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Là một trong những cơ quan trọng yếu trong bộ máy các cơ quan tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) với vị trí, vai trò là cơ quan bảo đảm cho nền pháp chế được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất cũng phải thực hiện sự đổi mới cả về tổ chức và hoạt động thì mới hoàn thành được nhiệm vụ của mình trước những yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới. Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND đã được Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị xác định:
Viện Kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án, trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ. Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, đảm bảo tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác... [10].
Trước mắt Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân. Nghiên cứu việc chuyển đổi Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra [12].
Như vậy, trong giai đoạn hiện nay ngành kiểm sát nhân dân cần tăng cường thực hiện chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố nhà nước và kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động tư pháp. Nói chung là tăng cường công tác KSĐT đã đúng hướng, hoạt động kiểm sát điều tra là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật.
Về phương diện lý luận, áp dụng pháp luật nói chung đã được giới khoa học pháp lý làm sáng tỏ. Song áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự vẫn còn là một vấn đề cần được nghiên cứu cụ thể hơn từ khái niệm đến đặc điểm các giai đoạn áp dụng pháp luật và những yêu cầu cụ thể mà Viện kiểm sát (VKS) cũng như kiểm sát viên thực hiện. áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra là mối quan hệ giữa "cái chung" và "cái riêng". Chắc chắn "cái riêng" bao giờ cũng phong phú, đa dạng và phức tạp hơn "cái chung". Nghiên cứu vấn đề này cũng là đáp ứng yêu cầu đòi hỏi từ thực tiễn đặt ra của vấn đề áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự của ngành kiểm sát nhân dân giai đoạn hiện nay. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án ở nước ta trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả. Sự phối hợp giữa cơ quan điều tra và VKS về cơ bản đã đáp ứng được nhiệm vụ đấu tranh phòng chống vi phạm và tội phạm.
Tuy nhiên, qua công tác tổng kết, đánh giá thực tế cho thấy, công tác KSĐT của VKS vẫn còn bộc lộ một số yếu kém, hạn chế như: Nhiều kiểm sát viên, nhiều đơn vị không thực hiện được công tác KSĐT ngay từ giai đoạn đầu, còn thụ động trong việc điều tra của cơ quan điều tra. Hoặc là vì sợ trách nhiệm nên làm thay một số thao tác của điều tra viên, không theo dõi đề ra yêu cầu điều tra. Hoặc là bỏ mặc cho điều tra viên tiến hành điều tra một cách độc lập … dẫn tới nhiều vụ án còn bị kéo dài, phải ra hạn thời hạn điều tra, còn để lọt hành vi tội phạm, thậm chí còn làm oan người vô tội … Những vi phạm trên cho thấy chất lượng và hiệu quả của công tác KSĐT của ngành Kiểm sát nhân dân vẫn còn bộc lộ yếu kém. Những yếu kém trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, có những nguyên nhân chủ quan cũng như những nguyên nhân khách quan. Trong đó chủ yếu là do ý thức pháp luật cao hay thấp và năng lực áp dụng pháp luật trong hoạt động thực tiễn của cơ quan điều tra, VKSND.
Để phát huy dân chủ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong thực hành quyền công tố nói chung và trong hoạt động áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự nói riêng. Vai trò của VKSND trong áp dụng pháp luật cần phải được nâng cao chất lượng và hiệu quả và coi đó là như là nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của ngành tư pháp nước ta cũng như của khoa học pháp lý cách mạng.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: " Nõng cao chất lượng ỏp dụng phỏp luật trong kiểm sỏt điều tra cỏc vụ ỏn hỡnh sự của Viện kiểm sỏt nhõn dõn tỉnh Bắc Ninh " làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động điều tra hình sự, là một giai đoạn quan trọng quyết định lớn đến quá trình làm rõ các yếu tố cấu thành tội phạm, làm cơ sở cho việc truy tố và xét xử các hành vi vi phạm và tội phạm. Vì vậy đây là vấn đề thu hút các nhà hoạt động thực tiễn quan tâm nghiên cứu. Việc nghiên cứu đề tài này đã được thể hiện trong nhiều công trình khoa học được công bố trên các sách, báo, tạp chí chuyên ngành và các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, một số giáo trình giảng dạy về pháp luật. Có thể nêu ra như sau:
Sổ tay kiểm sát viên hình sự của Viện Khoa học hình sự Viện kiểm sát nhân dân tối cao, NXB Văn hóa dân tộc, 2006.
Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2006.
Mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động điều tra trinh sát và hoạt động điều tra tố tụng của Bộ Công an, NXB Công an nhân dân, 2006.
Đề tài cấp Bộ: "Cơ sở lý luận và thực tiễn của thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự" - Phó viện trưởng Viện Khoa học kiểm sát làm chủ biên, 2005.
Các sách chuyên khảo như: "Những điều cần hiểu về bắt người, tạm giữ, tạm giam … đúng pháp luật" của Phạm Thanh Bình - Nguyễn Văn Yên, Nxb Pháp lý, 1990.
Vũ Gia Lâm: "Bắt người trong tố tụng hình sự Việt Nam", Luận văn thạc sĩ luật học, 2000.
Các bài viết, công trình nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí của Trung ương như: "Hoàn thiện một số quy định của pháp luật có liên quan tới phân loại tội phạm" của Phạm Mạnh Hùng, Tạp chí Kiểm sát, tháng 12/2002.
Thái Văn Đoàn: "Để nâng cao chất lượng công tác phê chuẩn tạm giam", Tạp chí Kiểm sát, tháng 12/2002.
Trần Quang Tiệp: "Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự", Tạp chí Kiểm sát, tháng 4/2005.
Nguyễn Văn Nhật: "Khám nghiệm hiện trường trong hoạt động điều tra hình sự", Tạp chí Kiểm sát, tháng 4/2005.
Phạm Mạnh Hùng: "Những bất cập và hoàn thiện quy định pháp luật TTHS về khởi tố theo yêu cầu người bị hại", Tạp chí Kiểm sát, tháng 01/2003.
Trần Văn Thuận: "Nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra", Tạp chí Kiểm sát, tháng 9/2003.
Nguyễn Duy Giảng: "Thủ tục rút gọn trong các giai đoạn tố tụng", Tạp chí Kiểm sát, tháng 9/2003.
Nguyễn Văn Chiến: "áp dụng căn cứ không khởi tố vụ án hình sự và phạm vi áp dụng quyết định không khởi tố vụ án hình sự", Tạp chí Kiểm sát, tháng 12/2002.
Nguyễn Văn Thượng: "Quy định tách vụ án trong pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng", Tạp chí Kiểm sát, tháng 6/2005.
Phạm Hồng Thủy: "Những điểm xung đột pháp luật giữa chế định khởi tố vụ án hình sự quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự và Bộ luật tố tụng hình sự", Tạp chí Kiểm sát, tháng 5/2005 …
Qua nghiên cứu tình hình trên cho thấy chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật về việc nâng cao chất lượng áp dụng KSĐT các vụ án hình sự trong điều kiện tiến hành cải cách tư pháp hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung vào những vấn đề sau:
+ Những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật và áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự.
+ Thực tiễn áp dụng pháp luật trong KSĐT đối với hoạt động của cơ quan điều tra.
+ Nguyên nhân phát sinh những tồn tại trong áp dụng pháp luật của quá trình KSĐT và của cơ quan điều tra.
+ Những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong KSĐT đối với cơ quan điều tra của VKS.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Luận văn chủ yếu đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự của các cơ quan có thẩm quyền. Thời điểm nghiên cứu lấy từ năm 2001 đến năm 2005.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Về mục đích:
Luận văn nghiên cứu, đề xuất, đưa ra các luận chứng, các quan điểm, các giải pháp đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật đối với hoạt động của cơ quan điều tra và VKSND được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, bảo vệ lợi ích của Nhà nước; quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Góp phần hoàn thiện các quy định về tố tụng hình sự (TTHS) trong KSĐT các vụ án hình sự; thực hiện cải cách tư pháp theo đúng tinh thần Nghị quyết số 49 NQ/TW của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về chất lượng cải cách tư pháp.
- Về nhiệm vụ:
Luận văn có các nhiệm vụ sau:
+ Phân tích cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật và áp dụng pháp luật trong kiểm sát đối với hoạt động của cơ quan điều tra và VKSND.
+ Phân tích những ưu điểm và những tồn tại trong áp dụng pháp luật của VKSND các cấp trong kiểm sát đối với hoạt động của cơ quan điều tra trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự.
+ Đề xuất những giải pháp đảm bảo áp dụng pháp luật đúng đắn trong kiểm sát đối với hoạt động của cơ quan điều tra và trong điều tra các vụ án hình sự của cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Nhất là các quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp trong Nghị quyết số 08/NQTW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị: "Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới". Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng như: Phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp lịch sử cụ thể. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các phương pháp của các bộ môn khoa học khác: Thống kê tội phạm, luật học so sánh, phương pháp hệ thống …
6. ý nghĩa của luận văn
ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo phục vụ yêu cầu không ngừng nâng cao chất lượng công tác KSĐT các vụ án hình sự.
Bên cạnh đó, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và nghiên cứu một số chuyên đề khác, nhất là trong việc giảng dạy có liên quan đến thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp …
Mặt khác, nội dung của luận văn có thể sử dụng nhằm xây dựng kỹ năng nghề nghiệp, thao tác nghiệp vụ … của người cán bộ, kiểm sát viên trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
1.1. Khái niệm, đặc điểm của áp dụng pháp luật
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Khoa học pháp lý XHCN chỉ ra rằng, pháp luật XHCN là một hệ thống bao gồm tổng thể các quy tắc xử sự chung, thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo một trình tự, hình thức, thủ tục luật định, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng XHCN.
Trong đời sống và trong xã hội, pháp luật XHCN chiếm giữ vai trò vị trí đặc biệt quan trọng. Xét trong bình diện chung nhất, pháp luật là phương tiện để thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được triển khai thực hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội; là phương tiện để Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội; là phương tiện để nhân dân phát huy, thực hiện quyền dân chủ, các quyền và lợi ích hợp pháp, nghĩa vụ của công dân.
Pháp luật với tư cách là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, luôn tác động và ảnh hưởng tới các quan hệ xã hội, cũng như các yếu tố của thượng tầng kiến trúc pháp lý; duy trì trật tự xã hội có lợi cho giai cấp thống trị. Trong quan hệ với Nhà nước, vai trò của pháp luật luôn gắn liền với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, phát huy được vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện chức năng, quản lý, đưa xã hội phát triển. Đối với chính Nhà nước, pháp luật vừa là cơ sở tổ chức, hoạt động vừa là sức mạnh của quyền lực chính trị đồng thời nó cũng ràng buộc Nhà nước, tránh cho Nhà nước khỏi tình trạng hoạt động tùy tiện, vi phạm quyền và tự do của công dân. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật nói chung và pháp luật XHCN nói riêng, pháp luật luôn có vai trò, giá trị xã hội và tính pháp quyền mà không một công cụ, phương tiện điều chỉnh nào có thể thay thế được.
Tuy nhiên, vai trò của pháp luật chỉ có thể thực sự phát huy được hiệu quả khi các quy định của pháp luật do Nhà nước đặt ra được chính các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, các công dân thực hiện một cách chính xác, nghiêm minh và tự giác. Do đó, vấn đề đặt ra là không phải chỉ có đủ các văn bản pháp luật đáp ứng nhu cầu đời sống xã hội và đời sống Nhà nước, mà điều quan trọng hơn ở chỗ pháp luật đó có được thực hiện không, những yêu cầu của pháp luật có trở thành hiện thực không.
Về mặt lý luận, thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động của con người có tổ chức có chủ ý bao hàm những hành vi hợp pháp phù hợp với những quy định, những yêu cầu của pháp luật.
Thực hiện pháp luật có thể là hành vi của chính cá nhân con người nhưng cũng có thể là hành động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, là một hiện tượng xã hội có tính pháp lý thực hiện pháp luật: "là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống trở thành hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật" [30, tr. 455].
Các quy định pháp luật rất phong phú cho nên hình thức thực hiện pháp luật cũng rất phong phú và khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã xác định và khái quát hóa thành những hình thức thực hiện pháp luật như sau:
- Tuân thủ pháp luật (tuân theo pháp luật) là một hình thức thực hiện pháp luật, (xử sự thụ động). Trong đó, các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hành động mà pháp luật ngăn cấm.
- Thi hành pháp luật (chấp hành pháp luật); là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nhiệm vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Những quy phạm pháp luật bắt buộc được thực hiện ở hình thức này.
- Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền năng pháp lý của mình để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước và của các chủ thể khác. Những quy phạm pháp luật quy định các quyền về tự do dân chủ của công dân được thực hiện ở hình thức này. Hình thức này khác với các hình thức trên ở chỗ chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, chứ không bị ép buộc phải thực hiện pháp luật. Đó là quyền khiếu nại, tố cáo, đình công, kháng cáo …
- áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật; trong đó Nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật; hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra những quy định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật. Trong trường hợp này, các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật có sự can thiệp của Nhà nước. Trong một số trường hợp đặc biệt được Nhà nước ủy quyền theo quy định của pháp luật, cơ quan của một số tổ chức chính trị xã hội cũng có thể thực hiện hoạt động này.
Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình thức phổ biến mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật là hình thức đặc thù bởi luôn có sự tham gia của Nhà nước, thông qua các cơ quan hoặc nhà chức trách có thẩm quyền. áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật quan trọng. Thông qua hình thức này ý chí của Nhà nước được trở thành hiện thực, Nhà nước thực hiện được chức năng tổ chức, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội, kết hợp với trật tự xã hội, đảm bảo cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, các công chức nhà nước trong khuôn khổ pháp luật. Điều này có lý do bởi trong nhiều trường hợp, các quy định của pháp luật không thể thực hiện nếu chỉ bằng các hình thức tuân theo pháp luật, thi hành pháp luật hoặc sử dụng pháp luật. Lý do có thể các chủ thể không muốn thực hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện nếu thiếu sự thông qua của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sự áp dụng pháp luật cần phải được tiến hành qua các trường hợp sau:
- Trong trường hợp khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước, hoặc áp dụng chế tài xử lý đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Ví dụ, một công dân thực hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, hành vi đó đã có đầy đủ yếu tố cấu thành tội sử dụng trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999. Không phải ngay sau đó trách nhiệm hình sự tự động phát sinh và người vi phạm tự giác chấp hành các biện pháp chế tài tương xứng. Vì vậy, cần có hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật và những người có thẩm quyền nhằm điều tra, truy tố, xét xử để đối chiếu với quy định của pháp luật để ấn định trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi vi phạm và buộc người này phải chấp hành.
- Trong trường hợp khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể không mặc nhiên phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước. Ví dụ, công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của Nhà nước nhưng khi kinh doanh phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc trong quan hệ kinh tế liên quan đến việc ký kết thực hiện hợp đồng kinh tế mà các bên không tự giải quyết được khi có tranh chấp xảy ra, thì các bên phải nhờ đến Tòa án kinh tế giải quyết …
- Trong một số quan hệ pháp luật mà Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để giám sát, kiểm tra hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó; hoặc Nhà nước xác nhận sự tồn tại của một số vụ việc, sự kiện thực tế. Ví dụ, ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận việc đăng ký kết hôn, xác nhận di chúc, chứng thực thế chấp …
- Như vậy áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật đặc thù, do cơ quan nhà nước, công chức nhà nước được trao quyền tiến hành theo một thủ tục do pháp luật quy định; nhằm thực hiện các biện pháp cưỡng chế khi có hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm; khi phải giải quyết các tranh chấp về quyền chủ thể và các nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể trong một quan hệ pháp luật nhất định; hoặc khi Nhà nước thấy cần phải can thiệp, cần phải tham gia để bảo đảm việc thực thi trên thực tế của các chủ thể trên các lĩnh vực của đời sống xã hội theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật
Thứ nhất, áp dụng pháp luật mang tính tổ chức, thực hiện quyền lực của Nhà nước trong thực tế:
- Hoạt động áp dụng pháp luật chỉ do những cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành. Mỗi cơ quan nhà nước hay nhà chức trách trong phạm vi thẩm quyền được giao thực hiện một số hoạt động áp dụng pháp luật quyết định. Trong quá trình áp dụng pháp luật cơ quan áp dụng pháp luật phải tính đến mọi khía cạnh, mọi chi tiết và phải xem xét cẩn trọng, dựa trên cơ sở những quy định, yêu cầu của áp dụng pháp luật đã được xác định để ra quyết định áp dụng pháp luật. Như vậy, pháp luật là cơ sở xuất phát điểm để cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật thực hiện chức năng của mình.
Việc áp dụng pháp luật được xem là sự tiếp tục thực hiện ý chí của Nhà nước được thể hiện trong pháp luật. Do vậy, việc áp dụng pháp luật phải phù hợp với pháp luật, với chủ trương, chính sách của Nhà nước trong mỗi giai đoạn nhất định.
Trong lĩnh vực tư pháp, áp dụng pháp luật được các cán bộ công chức nhà nước có chức danh pháp lý tiến hành, như điều tra viên, kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên, … tiến hành theo một thủ tục tố tụng nhất định để thu thập chứng cứ, xác minh, điều tra làm rõ các tình tiết của vụ án nhằm xác định khách quan việc truy cứu trách nhiệm pháp lý; xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật.
- Tổ chức thực hiện quyền lực của Nhà nước được thể hiện ở chỗ hoạt động áp dụng pháp luật chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhân viên nhà nước có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật. Việc tiến hành áp dụng pháp luật và ra văn bản áp dụng pháp luật hoàn toàn theo quy định của pháp luật mà không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể áp dụng pháp luật.
- áp dụng pháp luật có tính bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng pháp luật và các chủ thể có liên quan.
- Văn bản áp dụng pháp luật chỉ do các cơ quan hay nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng pháp luật ban hành. Văn bản áp dụng pháp luật mang tính bắt buộc phải thực hiện đối với những tổ chức và cá nhân có liên quan. Trong những trường hợp cần thiết, quyết định áp dụng pháp luật được bảo đảm bằng biện pháp cưỡng chế Nhà nước.
Thứ hai, nếu quy phạm pháp luật là những khuôn mẫu chung, là những tiêu chuẩn chung cho xử sự giữa người với người trong mối quan hệ xã hội thì hoạt động áp dụng pháp luật luôn mang tính cụ thể.
Tính cụ thể của hoạt động áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ các địa chỉ để áp dụng pháp luật là xác định, gồm cả sự việc, con người, tập thể, thời gian, không gian; các quy định áp dụng pháp luật được ban hành luôn mang tính cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội xác định. Ví dụ, trong một vụ án hình sự được khởi tố thì các quyết định khởi tố của từng bị can có tính riêng biệt, không thể sử dụng một quyết định khởi tố bị can cho các bị can nếu vụ án có nhiều bị can bị khởi tố. Đối tượng của hoạt động áp dụng pháp luật là những quan hệ xã hội cần đến sự điều chỉnh cá biệt, trên cơ sở những mệnh lệnh chung trong quy phạm pháp luật. Bằng hành động áp dụng pháp luật những quy phạm pháp luật nhất định được cá biệt hóa một cách cụ thể và chính xác.
Thứ ba, việc ban hành một quyết định áp dụng pháp luật phải được thực hiện thông qua thủ tục nhất định. Các thủ tục để ban hành quyết định trong hoạt động áp dụng pháp luật phải được pháp luật quy định rất chặt chẽ và đòi hỏi các chủ thể phải tuân thủ nghiêm minh. Các thủ tục giúp cho các chủ thể áp dụng pháp luật thể hiện được nguyện vọng, mong muốn của mình một cách dân chủ, khách quan trong quá trình áp dụng pháp luật. Tính đơn giản hay tính phức tạp của các thủ tục này phụ thuộc vào tính chất nội dung sự việc cần phải áp dụng pháp luật. Để áp dụng các quy phạm pháp luật đơn giản như việc xử phạt vi phạm hành chính tại chỗ thì các thủ tục đặt ra phải đơn giản, phải nhanh chóng. Ví dụ, cảnh sát giao thông phạt người điều khiển xe gắn máy không đội mũ bảo hiểm khi đang điều khiển xe gắn máy trên đoạn đường bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm. Để áp dụng quy phạm pháp luật phức tạp, thì cần phải xác minh, điều tra, đánh giá kỹ những tình tiết, sự việc; việc xác định một người
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van.doc
- Muc luc.doc