Con người muốn tồn tại trước hết phải ăn, ở, mặc và đi lại v.v. Để thoả mãn nhu cầu tối thiểu đó người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Việc thoả mãn nhu cầu sinh sống phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Trong thực tế không phải bao giờ con người cũng gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và điều kiện sống. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiếu tác động làm cho con người bị giảm hoặc bị mất thu nhập và các điều kiện sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau, bệnh tật, tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già đến không còn khả năng lao động. Để giải quyết tình trạng này Bảo hiểm xã hội(BHXH) đã được ra đời. BHXH ra đời đã góp một phần to lớn trong việc bảo đảm thu nhập cho người lao động khi không may họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm.
Trên thế giới, BHXH đã có từ đầu thế kỷ 19 và nó thực sự trở thành hoạt động mang tính xã hội cao. Hiện nay BHXH được thực hiện tại nhiều quốc gia và trở thành một bộ phận quan trọng của tổ chức Liên hợp quốc. Trong tuyên ngôn của Liên hợp quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 có ghi: “ Tất cả mọi người, với tư cách là thành viên của xã hội, có quyền hưởng BHXH. Quyền đó dặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người”.
Ở Việt Nam, ngay sau khi Cách mạng tháng 8/1945 thành công, trải qua nhiều giai đoạn và gặp nhiều khó khăn nhưng Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến chính sách BHXH cho người lao động. Từ bản hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến các bản hiến pháp sau này đều khẳng định quyền hưởng BHXH của người lao động. Tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá IX đã thông qua Bộ luật lao động, trong đó có nội dung của các chế độ BHXH được đổi mới, sự đổi mới này được nghiên cứu và xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc và yêu cầu của cơ chế mới.
Trong công cuộc toàn Đảng, toàn Dân đang thi đua tích cực đổi mới nhằm phát triển kinh tế, chính sách BHXH được củng cố hoàn thiện đáp ứng với cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ Nghĩa, đối tượng tham gia của BHXH không chỉ bó hẹp trong công nhân viên chức Nhà nước, mà ngày càng được mở rộng sang người lao động làm việc trong nhiều thành phần kinh tế khác nhau. BHXH huyện Sóc Sơn không ngừng phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu mà ngành BHXH Việt Nam giao cho. Trong những năm qua, bên cạnh việc đạt được những thành tích đáng kể BHXH huyện Sóc Sơn còn tồn tại một số vấn đề, đặc biệt là vấn đề BHXH cho người lao động khu vực ngoài quốc doanh.
Với lý luận cơ bản được nghiên cứu trong quá trình học tập và kinh nghiệp thực tiễn thu được trong quá trình thực tập ở BHXH huyện Sóc Sơn, em chọn đề tài : “Một số kiến nghị nhằm nầng cao hiệu quả thực hiện BHXH trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Sóc Sơn” để đóng góp một phần công sức giúp BHXH huyện Sóc Sơn có thể hoạt động hiệu quả hơn, và đây cũng là đề tài mà em chon để thực hiện viết luận văn tốt nghiệp cuối khoá của mình.
Kết cấu luận văn của em gồm 3 chương:
- Chương I: Lý luận chung về BHXH.
- Chương II: Thực trạng việc thực hiện BHXH trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Sóc Sơn.
- Chương III: Một số giải pháp, kiến nghị.
84 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1239 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Một số kiến nghị nhằm nầng cao hiệu quả thực hiện BHXH trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Sóc Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Con người muốn tồn tại trước hết phải ăn, ở, mặc và đi lại v.v... Để thoả mãn nhu cầu tối thiểu đó người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Việc thoả mãn nhu cầu sinh sống phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Trong thực tế không phải bao giờ con người cũng gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và điều kiện sống. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiếu tác động làm cho con người bị giảm hoặc bị mất thu nhập và các điều kiện sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau, bệnh tật, tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già đến không còn khả năng lao động.... Để giải quyết tình trạng này Bảo hiểm xã hội(BHXH) đã được ra đời. BHXH ra đời đã góp một phần to lớn trong việc bảo đảm thu nhập cho người lao động khi không may họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm.
Trên thế giới, BHXH đã có từ đầu thế kỷ 19 và nó thực sự trở thành hoạt động mang tính xã hội cao. Hiện nay BHXH được thực hiện tại nhiều quốc gia và trở thành một bộ phận quan trọng của tổ chức Liên hợp quốc. Trong tuyên ngôn của Liên hợp quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 có ghi: “ Tất cả mọi người, với tư cách là thành viên của xã hội, có quyền hưởng BHXH. Quyền đó dặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người”.
ở Việt Nam, ngay sau khi Cách mạng tháng 8/1945 thành công, trải qua nhiều giai đoạn và gặp nhiều khó khăn nhưng Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến chính sách BHXH cho người lao động. Từ bản hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến các bản hiến pháp sau này đều khẳng định quyền hưởng BHXH của người lao động. Tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá IX đã thông qua Bộ luật lao động, trong đó có nội dung của các chế độ BHXH được đổi mới, sự đổi mới này được nghiên cứu và xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc và yêu cầu của cơ chế mới.
Trong công cuộc toàn Đảng, toàn Dân đang thi đua tích cực đổi mới nhằm phát triển kinh tế, chính sách BHXH được củng cố hoàn thiện đáp ứng với cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ Nghĩa, đối tượng tham gia của BHXH không chỉ bó hẹp trong công nhân viên chức Nhà nước, mà ngày càng được mở rộng sang người lao động làm việc trong nhiều thành phần kinh tế khác nhau. BHXH huyện Sóc Sơn không ngừng phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu mà ngành BHXH Việt Nam giao cho. Trong những năm qua, bên cạnh việc đạt được những thành tích đáng kể BHXH huyện Sóc Sơn còn tồn tại một số vấn đề, đặc biệt là vấn đề BHXH cho người lao động khu vực ngoài quốc doanh.
Với lý luận cơ bản được nghiên cứu trong quá trình học tập và kinh nghiệp thực tiễn thu được trong quá trình thực tập ở BHXH huyện Sóc Sơn, em chọn đề tài : “Một số kiến nghị nhằm nầng cao hiệu quả thực hiện BHXH trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Sóc Sơn” để đóng góp một phần công sức giúp BHXH huyện Sóc Sơn có thể hoạt động hiệu quả hơn, và đây cũng là đề tài mà em chon để thực hiện viết luận văn tốt nghiệp cuối khoá của mình.
Kết cấu luận văn của em gồm 3 chương:
- Chương I: Lý luận chung về BHXH.
Chương II: Thực trạng việc thực hiện BHXH trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Sóc Sơn.
Chương III: Một số giải pháp, kiến nghị.
Chương I: Lý luận chung về BHXH
I. Bản chất và sự ra đời của BHXH
1. Bản chất của BHXH
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn công nhân trở nên phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công cho người lao động, nhưng về sau đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản... Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập buộc họ phải bỏ ra một lúc những khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thể mâu thuẫn chủ- thợ phát sinh. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, nhà nước phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này nhằm làm tăng vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán dựa trên cơ sở xác xuất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả giới chủ và giới thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Nhờ vậy, mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của họ và gia đình họ được bảo đảm ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo.
Với cách hiểu như trên, bản chất BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động đạt đến một mức độ nào đó. Kinh té càng phát triển BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt qua trạng thái kinh tế của mỗi nước.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao độngvà diền ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH, bên được BHXH. bên tham gia BHXH chỉ có thể là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH(bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình của họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.... Hoặc những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản v.v... đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và cả ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc bị mất đi khi gặp phải những rủi ro, biến cố sẽ được bù đắp thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động khi bị mất hoặc giảm khả năng lao động. Mục tiêu này được tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hoá như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảm nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật.
+ Xây dựng các điều kiện sống đáp ứng nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
ở nước ta, BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách bảo đảm xã hội. Ngoài BHXH, chính sách bảo đảm xã hội còn có cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội. Mặc dù có nhiều điểm khác nhau về đối tượng và phạm vi , song BHXH, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội là những chính sách không thể thiếu được của mỗi quốc gia. Những chính sách này bổ sung và hỗ trợ cho nhau và tất cả đều góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
2. Sự ra đời của BHXH
BHXH ra đời từ đầu thế kỷ 19. Bộ luật đầu tiên về chế độ bảo hiểm được hình thành tại nước Anh năm 1819 với tên gọi “ Luật nhà máy” và tập trung vào bảo hiểm cho lao động trong các phân xưởng thợ. Vào năm 1883, luật bảo hiểm ốm đau được hình thành tại Đức. Cũng tại Đức, một số luật khác được hình thành sau đó chẳng hạn như luật tai nạn lao động hình thành năm 1884, luật bảo hiểm người già và tàn tật do lao động hình thành năm 1889. Đến nay BHXH được thực hiện tại rất nhiều nước và trở thành một bộ phận quan trong trong hoạt động của Liên hợp quốc. Trong tuyên ngôn của Liên hợp quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 có khẳng định quyền hưởng BHXH là quyền của mọi người dân. Như vậy, ta thấy rằng BHXH gắn liền với sự phát triển của sản xuất công nghiệp.
Tại Việt Nam, trong gần một thế kỷ bị bọn thực dân Pháp cai trị, chúng không đề ra những gì nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của con người. Không thực hiện chế độ BHXH đối với người lao động Việt Nam. Ngay sau khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Nhà nước ta đã thực hiện các chế độ BHXH cho công nhân viên chức trong phạm vi cho phép, với các chế độ như chế độ bảo hiểm ốm đau, chế độ bảo hiểm sinh đẻ, chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, chế độ hưu trí. Tuy nhiên việc thực hiện chế độ trong thời kỳ này rất phân tán, không được tập trung.
Tháng 12 năm 1961, Nhà nước ban hành chế độ BHXH thống nhất và thi hành từ ngày 1/1/1962 trên cơ sở hình thành và sử dụng quỹ BHXH tập trung, dựa vào sự đóng góp của các doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước. Quỹ BHXH được sử dụng vì lợi ích của công nhân viên chức. Các chế độ BHXH được thực hiện trong thời gian này bao gồm các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bênh nghề nghiệp, hưu trí, mất sức lao động, tử tuất.
Việc ban hành và thực hiện các chế độ BHXH ban hành năm 1961 là nỗ lực, cố gắng lớn của Đảng, Nhà nước và của nhân dân ta, mang lại hiệu quả xã hội to lớn. Trong hơn 30 năm qua đã có hàng triệu lượt người được hưởng các chế độ về BHXH.
Tuy nhiên các chế độ BHXH ban hành thời kỳ đó còn mang tính tập trung và bao cấp, bộc lộ nhiều điểm cần phải khắc phục, đổi mới khi nước ta chuyển sangnền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước nhu cầu đổi mới toàn diện về kinh tế, xã hội, năm 1994, Bộ luật Lao động đã được Quốc hội nước ta thông qua tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá IX. Trong dó có nêu nội dung của các chế độ BHXH được đổi mới. BHXH đã được tổ chức và hoàn thiện hơn. Trong những năm qua Nhà nước đã không ngững sửa đổi bổ sung các chế độ BHXH nhằm nâng cao hiệu qủa hoạt động của BHXH trước những yêu cầu mới.
II. Khái niệm, nguyên tắc và chức năng của BHXH.
1. Khái niệm về BHXH.
BHXH là một trong những nội dung quan trọng của chính sách xã hội mà Nhà nước bảo đảm trước pháp luật cho mỗi người dân nói chung và người lao động nói riêng. Khái niệm về BHXH được hiểu trên các khía cạnh như sau:
Theo quan điểm của ILO: BHXH được hiểu như là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng bằng pháp luật, trách nhiệm của Chính phủ để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm thu nhập gây ra bởi: ốm đau mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật... Thêm vào đó BHXH bảo vệ được chăm sóc sức khoẻ và trợ cấp cho các gia đình đông con.
Theo cách tiếp cận từ phía thu nhập: BHXH là sự đảm bảo , thay thế, bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp những biến cố làm giảm hoặc làm mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
2. Chức năng của BHXH.
BHXH có những chức năng chủ yếu sau đây:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia BHXH khi họ bị giảm hoặc bị mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc làm mất thu nhập, người lao động sẽ được hưởng trợ cấp BHXH theo điều kiện cần thiết, với thời điểm và thời hạn theo quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức của BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những người sử dụng lao động. Các bên tham gia phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số người tham gia. Như vậy, theo quy luật số động bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những người có thu nhập cao và thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc v.v... Thực hiện chức năng này có nghĩa BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất, người lao động được chủ lao động trả tiền lương hoặc tiền công. Khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hoặc nghỉ về già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, người lao động luôn yêu tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ rất tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là tăng năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa người lao động và xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động vốn có mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công và thời gian lao động v.v... Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt, cả hai giới đều thấy nhờ vào BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn.
3. Những nguyên tắc của BHXH.
a. BHXH là sự bảo đảm về mặt xã hội để người lao động có thể duy trì và ổn định cuộc sống khi bị mất sức lao động tạm thời hoặc hết tuổi lao động.
Đây là nguyên tắc bảo đảm ý nghĩa và tính chất của bảo hiểm. Nó vừa mang giá trị vật chất, vừa mang tính chất xã hội. Điều này được thể hiện trước hết là sự bảo đảm bằng vật chất qua các chế độ BHXH. Mức bảo đảm về vật chất cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự tham gia vào BHXH và vì vậy ảnh hưởng đến sự nghiệp phát triển của sự nghiệp này. Về mặt xã hội, theo nguyên tắc này, BHXH lấy số đông bù số ít, lấy quãng lao động thực tế có thu nhập là cơ sở bảo đảm quãng đời không tham gia vào lao động khi bị mất sức hoặc hết tuổi lao động.
b. BHXH vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện
Tính bắt buộc thể hiện ở nghĩa vụ tham gia và mức tham gia tối thiểu(thời gian, mức đóng bảo hiểm...). Như vậy, Nhà nước đóng vai trò tổ chức, định hướng để người lao động và người sử dụng lao động hiểu được trách nhiệm hợp lý tham gia vào các quan hệ BHXH. Điều này được thể chế hoá trong Bộ luật Lao động và các văn bản pháp quy về BHXH. Tính tự nguyện có ý nghĩa khuyến khích mức tham gia, các loại hình và chế độ bảo hiểm, mà người lao động có thể tham gia trên cơ sở sự phát triển của hệ thống BHXH của một nước trong từng giai đoạn nhất định. Nguyên tắc này cho phép BHXH có điều kiện để phát triển và mở rộng.
c. Xác định đúng đắn mức tối thiểu của các chế độ BHXH
Vấn đề này có quan hệ trực tiếp đến các khía cạnh có liên quan đến việc thiết kế các chính sách và nội dung cụ thể của từng chế độ BHXH. Mức tối thiểu của từng chế độ là mức đóng định kỳ hàng tháng, mức thời gian cần thiết tối thiểu để tham gia và hưởng một chế độ BHXH cụ thể. Các mức tối thiểu này, khi thiết kế thường dựa vào lương tối thiểu, tiền lương bình quân, quãng đời lao động... Mặt khác, mức tối thiểu còn phải tính đến giá trị của các chế độ BHXH mà người tham gia được hưởng. Nguyên tắc này liên quan trực tiếp đến việc tạo nguồn, xây dựng quỹ BHXH, và khuyến khích người lao động và các tầng lớp dân cư tham gia.
d. BHXH phải bảo đảm sự thống nhất và liên tục cả về mức tham gia và thời gian thực hiên, đảm bảo quyền lợi của người lao động.
Nguyên tắc này đảm bảo sự thích hợp của BHXH trong cơ chế thị trường, trong đó sự di chuyển và biến động lao động có thể xảy ra, thậm chí mang tính thường xuyên. Sự thay đổi nơi làm việc và thay đổi hợp đồng lao động cả về nội dung, đối tác... tạo ra những giai đoạn có thể về thời gian và không gian của quá trình làm việc. Điều này có thể xảy ra trong cả các quan hệ về BHXH. Việc đảm bảo cho người tham gia BHXH có thể duy trì quan hệ một các liên tục theo thời gian có tham gia và thống nhất cề các chế độ sẽ tạo ra sự linh hoạt cần thiết và sự thuận tiện cho người lao động tham gia vào các quan hệ BHXH tốt hơn, đầy đủ và tích cực hơn. Do vậy mức tham gia và thời gian thực tế tham gia là căn cứ chủ yếu nhất duy trì quan hệ BHXH đối với người lao động.
e. Công bằng trong BHXH
Đây là nguyên tắc rất quan trọng song cũng rất phức tạp trong chính sách BHXH. Quan hệ BHXH được thực hiện trong một thời gian dài, cả trong và ngoài quá trình lao động. Trong quá trình đó có thể có những thay đổi diễn ra. Mức và thời gian tham gia của từng người và mức hưởng lương của họ cũng có thể không giống nhau. Việc theo dõi và ghi nhận các vấn đề này không đơn giản, nhất là trong điều kiện một hệ thống BHXH đang còn có những khác biệt về đối tượng thành phần và khu vực tham gia ở nước ta hiện nay. Do vậy, bảo đam công bằng trong BHXH là cần thiết nhưng khó đảm bảo tính tuyệt đối.
Sự công bằng, trước hết là phải đặt trong quan hệ giữa sự đóng góp và được hưởng. Điều này được thể hiện trong nội dung và và điều kiện tham gia trong từng chế độ về BHXH. Xét trong góc độ khác, công bằng còn đặt trong các quan hệ xã hội giữa những người tham gia trong từng khu vực hay giữa các vùng, địa bàn, ngành nghề khác nhau... dựa trên nguyên tắc tính xã hội của bảo hiểm.
Năm nguyên tắc trên là rất quan trọng, đó là những nguyên tắc mà chúng ta phải tính đến khi thiết kế và thực hiện các quan hệ và các chế độ về BHXH.
III. những quan điểm cơ bản về BHXH
Khi thực hiện BHXH các nước đều phải lựa chọn hình thức, cơ chế và mức độ thoả mãn các nhu cầu BHXH phù hợp với tập quán, khả năng trang trải và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của nước mình. Đồng thời phải nhận thức thống nhất các quan điểm về BHXH sau đây:
1. Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là một bộ phận quan trọng nhất trong chính sách xã hội
Mục đích của chính sách này nhằm bảo đảm đời sống cho người lao động và gia đình họ, khi người lao động bị giảm hoặc bị mất thu nhập do bị giảm hoặc bị mất khả năng lao động, mất việc làm. ở nước ta, BHXH nằm trong hệ thống các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước. Thực chất, đây là một trong những loại chính sách đối với con người nhằm đáp ứng một trong những quyền và nhu cầu hiển nhiên của con người, nhu cầu an toàn về việc làm, an toàn lao động, an toàn xã hội v.v... Chính sách BHXH còn thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi quốc gia. Trong một chừng mực nhất định, nó còn thể hiện tính ưu việt của một chế độ xã hội. Nếu tổ và thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ là động lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của người lao động và trong quý trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2. Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm BHXH cho người lao động
Người sử dụng lao động thực chất là các tổ chức, các doanh nghiệp và cá nhân có thuê mướn lao động. Họ có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH và có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với người lao động mà mình sử dụng theo đúng luật pháp quy định. Người sử dụng lao động muón ổn định và phát triển kinh doanh thì ngoài việc phải chăm lo đầu tư để có máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến còn phải chăm lo tay nghề và đời sống cho người lao động mà mình sử dụng. Khi người lao động làm việc bình thường thì phải trả lương thoả đáng cho họ. Khi họ gặp rủi ro, bị ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp v.v... trong đó có rất nhiều trường hợp gắn với quá trình lao động vơi những điều kiện lao động cụ thể của doanh nghiệp thì phải có trách nhiệm BHXH cho họ. Chỉ có như vậy, người lao động mới yên tâm, tích cực lao động sản xuất, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.
3. Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH, không phân biệt nam nữ, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp v.v...
Điều đó có nghĩa là mọi người lao động trong xã hội đều được hưởng BHXH như tuyên ngôn nhân quyền đã nêu, đồng thời bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi trợ cấp BHXH. Người lao động khi gặp rủi ro không mong muốn và không phải hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của người khác thì trước hết đó là rủi ro của bản thân. Vì thế, nếu muốn được BHXH tức là muốn nhiều người khác hỗ trợ cho mình dàn trải rủi ro của mình cho nhiều người khác thì tự mình phải gánh chịu trực tiếp và trứoc hết. Điều đó có nghĩa là bản thân người lao động phải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho mình.
Tuy nhiên, nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động về BHXH còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, vào các mối quan hệ chính trị, xã hội và lịch sử của mỗi quốc gia. Nhìn chung, khi sản xuất phát triển, kinh tế tăng trưởng, chính trị, xã hội ổn định thì người lao động thì người lao động tham gia và được hưởng trợ cấp BHXH ngày càng đông.
4. Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố
- Tình trạng mất khả năng lao động
Tiền lương lúc đi làm
Tuổi thọ bình quân người lao động
Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước từng thời kỳ.
Tuy nhiên, về nguyên tắc mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức lương lúc đi làm, nhưng thấp nhất cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu.
Quan điểm này vừa phải phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa phản ánh nguyên tắc phân phối lại quỹ BHXH cho người lao động tham gia BHXH. Trợ cấp BHXH là loại trợ cấp thay thế tiền lương. Mà tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động khi họ thực hiện được những công việc hoặc định mức công việc nào đó. Nghĩa là, chỉ người lao động có sức khoẻ bình thường, có việc làm bình thường và thực hiện được những công việc nhất định mới có tiền lương. Khi đã bị ốm đau, tai nạn hay tuổi già không làm việc được mà trước đó tham gia BHXH thì chỉ có trợ cấp BHXH và trợ cấp đó không thể bằng tiền lương do lao động tạo ra được. Nếu mức trợ cấp bằng hoặc cao hơn tiền lường thì không một người lao động nào phải cố gắng tìm kiếm việc làm và tích cực làm việc để có tiền lương, mà ngược lại sẽ lợi dụng BHXH để nhận trợ cấp. Hơn nữa cách lập quỹ BHXH theo phương thức dàn trải rủi ro cũng không cho phép trả trợ cấp BHXH bằng tiền lương lúc đang đi làm. Và như vậy chẳng khác gì người lao động bị rủi ro qua rủi ro của mình dàn trải hết cho người khác.
Như vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi làm. Tuy nhiên, do mục đích bản chất và phương thức BHXH thì mức trợ cấp thấp nhất cũng không thể thấp hơn mức sống tối thiểu.
5. Nhà mước quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức bộ máy thực hiện chính sách BHXH
Bởi vì, BHXH là là một bộ phận cấu thành của các chính sách xã hội, nó vừa là nhân tố ổn định, vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế -xã hội. Cho nên, vai trò của Nhà nước là rất quan trọng. Thực tế đã chỉ rõ, nếu không có sự can thiệp của Nhà nước, nếu không có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước thì mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động sẽ không được duy trì bền vững, mối quan hệ ba bên trong BHXH sẽ bị phá vỡ.
Hơn nữa, BHXH được thực hiện thông qua một quy trình, từ hoạch định chính sách, đảm bảo vật chất đến việc xét trợ cấp v.v... Vì vậy, Nhà nước quản lý toàn bộ quy trình này, hay có những giới hạn về mức độ và mực tiêu.
Trước hết, phải khẳng định rằng việc hoạch định chính sách BHXH là khâu đầu tiên và quan trọng nhất. Sự quản lý của Nhà nước về vấn đề này thể hiện ở việc xây dựng các dự án luật, các văn bản pháp quy về BHXH và ban hành thực hiện. Sau đó là hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá nhân thực hiện chính sách.
Đối với việc đảm bảo vật chất cho BHXH thì vai trò của Nhà nước phụ thuộc vào chính sách BHXH do Nhà nước quy định. Có mô hình về bảo đảm vật chất cho BHXH do ngân sách Nhà nước cung cấp thì vai trò quản lý của Nhà nước là trực tiếp và toàn diện, nếu nguồn đảm bảo trợ cấp do người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước đóng góp thì Nhà nước tham gia quản lý.
Để quản lý BHXH, Nhà nước sử dụng các công cụ chủ yếu như pháp luật và bộ máy tổ chức. Nhìn chung, hầu hết các nước trên thế giới, việc quản lý vĩ mô BHXH đều được Nhà nước giao cho Bộ lao động hoặc Bộ xã hội trực tiếp quản lý.
IV. nguồn quỹ BHXH và mục đích sử dụng quỹ
1. Nguồn quỹ BHXH
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước. Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
Người sử dụng lao động đóng góp,
Người lao động đóng góp,
Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm,
- Các nguồn khác( như cá nhân và các tổ chức từ thiện
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100689.doc