Nhà nước pháp quyền - nhà nước xác định pháp luật ở vị trí tối thượng, tổ chức và hoạt động theo pháp luật, sử dụng pháp luật trong quản lý xã hội - như kinh nghiệm lịch sử cho thấy là hình thức tổ chức nhà nước có thể đáp ứng được các yêu cầu phát triển của xã hội. Trong thời đại ngày nay, xây dựng nhà nước pháp quyền đã trở thành một trong những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của các quốc gia, nhất là đối với các nước đang phát triển. Xây dựng nhà nước pháp quyền, một mặt, là xây dựng một nhà nước có khả năng thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mọi nguồn lực sáng tạo của nhân dân cho phát triển đất nước, mặt khác, còn là cơ sở đảm bảo sự ổn định, sự bền vững của bản thân nhà nước.
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (NDCM) xác định phải từng bước đổi mới và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân và vì dân. Bởi vì, đối với nước CHDCND Lào - một nước còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội còn thấp như hiện nay - thì việc xây một nhà nước pháp quyền càng có ý nghĩa quyết định. Việc đặt vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền theo định hướng XHCN ở Lào hiện nay, một mặt, là đòi hỏi khách quan của việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, của quá trình dân chủ hoá xã hội và quá trình hội nhập quốc tế, mặt khác, còn là yêu cầu của việc xây dựng và củng cố chế độ dân chủ nhân dân theo định hướng XHCN.
Xây dựng nhà nước pháp quyền dù ở quốc gia nào cũng là một quá trình lịch sử, là kết quả của sự phát triển của sự phát triển kinh tế, chính trị và xã hội. Trong những điều kiện lịch sử nhất đinh, việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở mỗi nước lại lại đòi hỏi những cách làm cụ thể - những giải pháp cụ thể, phù hợp. Xây dựng nhà nước pháp quyền trong điều kiện ở Lào là một công việc lâu dài, phức tạp và hệ trọng, đòi hỏi nhiều giải pháp các yếu tố liên quan đến điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội, truyền thống lịch sử, văn hóa, tâm lý dân tộc, nhu cầu xã hội, quan hệ quốc tế. Việc xác định các giải pháp đòi hỏi phải gắn được lý luận với thực tiễn, các giải pháp được nêu ra cần phải phù hợp với điều kiện trong nước của Lào và xu hướng phát triển của thế giới.
Quá trình xây dựng nhà nước hiện nay ở Lào được tiến hành trong giai đoạn đầu của sự nghiệp đổi mới với điều kiện kinh tế - xã hội còn thấp, trình độ dân trí văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ chưa phát triển cao, dân chủ hóa trong xã hội còn hạn chế. Do vậy, trong các phương hướng và giải pháp cần xác định được những mô hình, cách thức tổ chức thích hợp, khả thi và có hiệu quả thiết thực tạo cơ sở vững chắc cho các bước đi trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào. Việc xác định những giải pháp ấy phải dựa trên cơ sở thực tiễn khách quan của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng củng cố bộ máy nhà nước và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng qua từng giai đoạn nhằm đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân các bộ tộc Lào trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
113 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1135 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Một số giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Trang
Mở đầu
1
Chương 1: Phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Lào hiện nay
6
1.1. Phát triển nền kinh tế thị trường, chuẩn bị công nghiệp hóa, hiện đại hóa là yêu cầu và điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào hiện nay
6
1.2. Tuyên truyền giáo dục ý thức dân chủ, ý thức pháp luật nâng cao dân trí trong nhân dân
22
Chương 2: Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào hiện nay
33
2.1. Nhận thức về đổi mới và hoàn thiện theo hướngxây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào hiện nay
33
2.2. Hướng đổi mới tổ chức và hoạt động Nhà nước nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào hiện nay và những năm tới
61
Chương 3: Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào hiện nay
79
3.1. Đổi mới tư duy về sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước theo hướng Đảng lãnh đạo Nhà nước pháp quyền ở Lào hiện nay
79
3.2. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào hiện nay
89
Kết luận
101
Danh mục tài liệu tham khảo
103
Danh mục Những chữ viết tắt
CHDCND : Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
NDCM : Nhân dân Cách mạng
Nxb. : Nhà xuất bản
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước pháp quyền - nhà nước xác định pháp luật ở vị trí tối thượng, tổ chức và hoạt động theo pháp luật, sử dụng pháp luật trong quản lý xã hội - như kinh nghiệm lịch sử cho thấy là hình thức tổ chức nhà nước có thể đáp ứng được các yêu cầu phát triển của xã hội. Trong thời đại ngày nay, xây dựng nhà nước pháp quyền đã trở thành một trong những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của các quốc gia, nhất là đối với các nước đang phát triển. Xây dựng nhà nước pháp quyền, một mặt, là xây dựng một nhà nước có khả năng thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mọi nguồn lực sáng tạo của nhân dân cho phát triển đất nước, mặt khác, còn là cơ sở đảm bảo sự ổn định, sự bền vững của bản thân nhà nước.
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (NDCM) xác định phải từng bước đổi mới và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân và vì dân. Bởi vì, đối với nước CHDCND Lào - một nước còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội còn thấp như hiện nay - thì việc xây một nhà nước pháp quyền càng có ý nghĩa quyết định. Việc đặt vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền theo định hướng XHCN ở Lào hiện nay, một mặt, là đòi hỏi khách quan của việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, của quá trình dân chủ hoá xã hội và quá trình hội nhập quốc tế, mặt khác, còn là yêu cầu của việc xây dựng và củng cố chế độ dân chủ nhân dân theo định hướng XHCN.
Xây dựng nhà nước pháp quyền dù ở quốc gia nào cũng là một quá trình lịch sử, là kết quả của sự phát triển của sự phát triển kinh tế, chính trị và xã hội. Trong những điều kiện lịch sử nhất đinh, việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở mỗi nước lại lại đòi hỏi những cách làm cụ thể - những giải pháp cụ thể, phù hợp. Xây dựng nhà nước pháp quyền trong điều kiện ở Lào là một công việc lâu dài, phức tạp và hệ trọng, đòi hỏi nhiều giải pháp các yếu tố liên quan đến điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội, truyền thống lịch sử, văn hóa, tâm lý dân tộc, nhu cầu xã hội, quan hệ quốc tế. Việc xác định các giải pháp đòi hỏi phải gắn được lý luận với thực tiễn, các giải pháp được nêu ra cần phải phù hợp với điều kiện trong nước của Lào và xu hướng phát triển của thế giới.
Quá trình xây dựng nhà nước hiện nay ở Lào được tiến hành trong giai đoạn đầu của sự nghiệp đổi mới với điều kiện kinh tế - xã hội còn thấp, trình độ dân trí văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ chưa phát triển cao, dân chủ hóa trong xã hội còn hạn chế. Do vậy, trong các phương hướng và giải pháp cần xác định được những mô hình, cách thức tổ chức thích hợp, khả thi và có hiệu quả thiết thực tạo cơ sở vững chắc cho các bước đi trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào. Việc xác định những giải pháp ấy phải dựa trên cơ sở thực tiễn khách quan của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng củng cố bộ máy nhà nước và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng qua từng giai đoạn nhằm đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân các bộ tộc Lào trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Việc nghiên cứu một cách trực tiếp và có hệ thống về “Một số giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay” là có ý nghĩa thiết thực về lý luận và thực tiễn đối với quá trình xây dựng và phát triển đất nước ở CHDCND Lào.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quan điểm của Đảng NDCM Lào về đổi mới và hoàn thiện nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền ở CHDCND Lào đã được nêu trong một số văn kiện của Đảng, đã được cụ thể hóa một bước thành Hiến pháp (Hiến pháp 1991, Hiến pháp sửa đổi 2003) và một số đạo luật khác. Theo tinh thần ấy, ở Lào đã có một số công trình khoa học đề cập tới vấn đề xây dựng nhà nước, nhưng chủ yếu mới dừng lại ở vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền như là một tất yếu khách quan của việc đảm bảo quyền lực của nhân dân lao động, củng cố hoàn thiện bộ máy nhà nước nói chung. Cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập cụ thể đến các giải pháp cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào. Tuy nhiên, những công trình đã có có thể xem là những cơ sở, những tiền đề có thể kế thừa, khai thác phục vụ đề tài của luận văn này. Có thể xem đề tài về các giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào (đề tài luận văn này) là sự tiếp nối các đề tài, các công trình nghiên cứu đã có về tính tất yếu, những đặc điểm, những yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào. Có thể thấy một số công trình sau đây:
1. Khăm Cải Viêng Xa Văn (1995), Sự kiện lịch sử của việc thành lập Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Tạp chí A Lun May (CHDCND Lào).
2. Phông Xa Vặt Búp Pha (1996), Sự phát triển của Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Tạp chí A Lun May (CHDCND Lào).
3. Chả Lơn Dia Pao Hơ (1995), Sự vững mạnh của quyền lực nhà nước là yếu tố đảm bảo cho nền độc lập chủ quyền quốc gia, Tạp chí Xây dựng Đảng Nhân dân cách mạng Lào.
4. En Sô La Thi (2000), Xây dựng nhà nước đảm bảo quyền lực của nhân dân lao động ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu với những quy mô và cấp độ khác nhau về nhà nước pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền được thực hiện từ những năm 1991 -1995 và từ 1995 đến nay. Có thể thấy nhiều đề tài lớn đã được thực hiện trong những năm 1991 -1995 như một số đề tài cấp Nhà nước thuộc Chương trình KX. 05, một số đề tài cấp Nhà nước thuộc các Chương trình KX. 08 và KX. 10 cho đến nay. Những kết quả nghiên cứu trên là những cơ sở hết sức quý giúp cho việc thực hiện đề tài của luận văn này.
Đăc biệt, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền đã được nhiều tác giả nghiên cứu dưới góc độ của khoa học chính trị, trong đó có Chính trị học. Có thể nêu một số công trình sau đây:
1. Nguyễn Thị Tâm (2002), Đổi mới phương thức lãnh đạo đối với nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Võ Văn Bơ (1999), Xây dựng nhà nước pháp quyền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp cử nhân chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
3. Phạm Ngọc Hà (2002), Nhà nước pháp quyền với việc thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở Việt Nam hiện nay, Luận án thạc sĩ Chính trị học.
4. Nguyễn Quốc Bảo (2000-2003), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm phát huy quyền lực chính trị của nhân dân lao động thể hiện trên địa bàn huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Luân văn tốt nghiệp cử nhân chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
5. Nguyễn Cộng Hòa (2002), Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Những công trình nêu trên chủ yếu đề cập tới việc xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền nói chung. Chưa có công trình nào đề cập trực tiếp và có hệ thống tới vấn đề những giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền. Có thể nói, đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu có hệ thống về vấn đề này.
Với việc xác định các giải pháp này, luận văn sẽ góp phần làm rõ căn cứ lý luận và thực tiễn cho quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở CHDCND Lào hiện nay và những năm tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu của luận văn
Mục đích trên luận văn là xác định một số giải pháp cần thiết, phù hợp và có tính khả thi cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở ở nước CHDCND Lào hiện nay và những năm tới.
Nhiệm vụ của luận văn là lý giải những cơ sở lý luận và thực tiễn của một số giải pháp về: 1) kinh tế; 2) chính trị và 3) xã hội đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở CHDCND Lào.
Luận văn giới hạn nghiên cứu ở một số giải pháp chủ yếu về kinh tế, chính trị và xã hội để xây dựng nhà nước pháp quyền ở CHDCND Lào hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng NDCM Lào và của Đảng Cộng sản Việt Nam làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu.
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp của chính trị học và xã hội học mácxít, gắn phân tích lý luận với tổng kết thực tiễn.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn của một số giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền ở CHDCND Lào trên cơ sở tư duy mới về việc phát triển kinh tế thị trường, xây dựng xã hội công dân, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở Lào hiện nay.
6. ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước CHDCND Lào theo hướng nhà nước pháp quyền.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu, học tập và giảng dạy trong các cơ sở đào tạo về một số nội dung liên quan đối với những giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
Phát triển kinh tế - xã hội tạo điều kiện cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào hiện nay
1.1. phát triển nền kinh tế thị trường, chuẩn bị công nghiệp hóa, hiện đại hóa là yêu cầu và điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào
1.1.1. Về quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa ở Lào hiện nay
1.1.1.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội ở Lào thời kỳ trước đổi mới
CHDCND Lào là một nước nhỏ bé nằm trong bán đảo Đông Dương với diện tích 236.800 km2 có dân số hơn 5 triệu người (thống kê dân số cuối năm 2004), mật độ dân số bình quân 12 người/1km2. Lào có hơn 49 các bộ tộc khác nhau cùng sinh sống và được chia thành ba khối dân tộc lớn: dân tộc Lào Lum, dân tộc Lào Thâng, dân tộc Lào Xung. Trong đó dân tộc Lào Lum chiếm 60% của dân số các bộ tộc Lào.
Về tổ chức hành chính của Nhà nước Lào được chia thành bốn cấp: Trung ương, tỉnh, huyện, bản - làng. Về phong tục tập quán các bộ tộc Lào phần lớn theo Phật giáo. Về kinh tế nhìn chung Lào là một nước nông nghiệp lạc hậu, một nền kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên. Sản xuất nông nghiệp phân tán, manh mún, nặng tính tự cấp, tự túc. Sản xuất với công cụ phương thức canh tác gồm nhiều loại hình, từ loại sản xuất kiểu xa xưa trước phong kiến cho đến canh tác hiện đại đan xen nhau, nhưng nhìn chung còn rất lạc hậu cả về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mức sống của nhân dân các bộ tộc còn nghèo nàn.
Những đặc điểm đó được thể hiện rõ nét trên các vùng địa bàn miền núi, các tỉnh phía Bắc và phía Đông. Sản xuất và đời sống của nhân dân phần lớn phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Các bộ tộc miền núi sống du canh, du cư, phá rừng đốt nương làm rẫy, tận hưởng trực tiếp vật phẩm của tự nhiên để duy trì cuộc sống thường ngày của họ. ở các vùng thung lũng và đồng bằng nhỏ ven các triền sông, suối, nông dân trồng lúa nước một vụ kết hợp với chăn nuôi trong gia đình và đánh bắt hái lượm tự nhiên để sinh sống. ở các vùng đồng bằng, thành phố, thị xã trục đường giao thông ven các triền sông lớn và sông Mê Kông sản xuất phát triển hơn so với các vùng khác. Nhưng nhìn chung sản xuất nông nghiệp là chính và vẫn giữ phương thức canh tác tiểu nông sản xuất nông nghiệp chủ yếu là dựa vào sức kéo của trâu bò, sức người với các công cụ lao động thô sơ như: cày, cuốc, dao, liềm. Công cụ cơ khí nhỏ chưa được sử dụng phổ biến, việc dùng phân bón, thuốc trừ sâu và kỹ thuật canh tác như thâm canh, tăng vụ còn rất hạn chế, cho nên hiệu quả, năng suất chất lượng lao động sản xuất còn rất thấp kém. Nông sản làm ra chỉ đủ để ăn và tiêu dùng trong cuộc sống hàng ngày.
Trong nông nghiệp và nông thôn cũng chưa có phân công chuyên môn hóa rõ rệt, sản xuất của các hộ nông dân là vừa trồng trọt, vừa chăn nuôi, cho nên hiệu quả năng suất còn thấp.
Năng suất lúa nước bình quân đạt: năm 1976 là 1,43 tấn/ha, 1980 là 1,65 tấn/ha, 1985 là 2,11 tấn/ha. Trồng trọt độc canh, trồng lúa nếp là chủ yếu, kỹ thuật canh tác lạc hậu và chỉ làm một vụ, chăn nuôi cũng chỉ là hoạt động mang tính chất kinh tế gia đình chưa thành sản xuất hàng hóa [45, tr.36].
Hoạt động lâm nghiệp chủ yếu tập trung khai thác gỗ, lâm sản để tiêu dùng trong cuộc sống và một phần để xuất khẩu. Một số lâm sản có giá trị rất cao và rất quý, nhưng phương thức khai thác còn thô sơ, tùy tiện và coi thường các biện pháp tu bổ tái tạo rừng. Sản xuất tự nhiên dựa vào rừng núi, sông hồ chủ yếu chỉ cung cấp cho tiêu dùng hàng ngày của nhân dân địa phương, chưa tận dụng một cách hợp lý và có hiệu quả những tiềm năng sắn có ấy, chưa được bảo vệ và khai thác đúng mức.
Trước ngày giải phóng kinh tế - xã hội của Lào là từng trải qua một thời kỳ có hai vùng kinh tế - xã hội khác nhau:
Vùng kinh tế - xã hội mang tính chất dân chủ nhân dân (vùng giải phóng cũ) là nơi căn cứ cách mạng. Đây là vùng có quan hệ mật thiết và được sự giúp đỡ của các nước thuộc phe XHCN trước đây, đặc biệt là Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Vùng kinh tế - xã hội mang tính chất phụ thuộc vào sự viện trợ của chủ nghĩa thực dân đế quốc, nhất là Mỹ với mục đích chiến tranh xâm lược. Đây là vùng kiểm soát tạm thời của chính quyền ngụy Viêng Chăn.
Sau năm 1975 kinh tế - xã hội hai vùng đã thống nhất thành nền kinh tế - xã hội dân chủ nhân dân và đã từng trải qua thời kỳ cơ chế quan liêu bao cấp. Trong thời kỳ này nhà nước ưu tiên bảo hộ kinh tế tập thể và quốc doanh, trên cơ sở những điều kiện, sự viện trợ giúp đỡ của các nước XHCN.
Tuy vậy, sau hàng chục năm về cơ bản nền kinh tế Lào vẫn chưa thoát ra khỏi tính chất tự nhiên, tự cấp, tự túc, rất nhỏ bé, phân tán và lạc hậu. Điều đó thể hiện rõ trong cơ cấu kinh tế ngành. Theo những số liệu thống kê gần đây, cơ cấu kinh tế Lào với những ngành chính là [46]:
Ngành
1980
1984
1985
1986
Nông nghiệp
83,00
73,00
73,10
73,30
Công nghiệp
6,00
8,60
9,9
10,50
Dịch vụ
11,00
17,90
17,00
16,20
Tính theo %
Một cơ cấu kinh tế như vậy ảnh hưởng đến sự phát triển đi lên của đất nước. Như vậy, nhiệm vụ trọng tâm chiến lược của đất nước vẫn là làm thế nào để đưa Lào thoát khỏi nền kinh tế nhỏ bé, phân tán lạc hậu. Phải làm sao xây dựng được cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mới. Trong đó căn bản, trọng tâm nhất là phải xây dựng cho được lực lượng sản xuất mới.
Song việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, chiến lược đó vào cuối những năm 1980 trở đi không còn nằm trong bối cảnh phát triển thuận chiều với những quan hệ kinh tế được triển khai một cách truyền thống theo hướng có sự giúp đỡ một chiều của các nước XHCN phát triển đi trước. Dù còn sơ khai nhỏ bé nhưng nền kinh tế đất nước vẫn phải tự tìm đường tồn tại và phát triển trên cơ sở bình đẳng, hai bên cùng có lợi với các nước XHCN và quan hệ thị trường sòng phẳng với các nền kinh tế khác trên thế giới. Đó là những thách thức rất to lớn và căng thẳng đối với nền kinh tế cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của đất nước Lào.
Trước những đòi hỏi gay gắt và nghiêm trọng đó của thực tế lịch sử, Đảng NDCM Lào đã khởi xướng sự nghiệp đổi mới, tiếp nhận xu thế đổi mới đúng đắn của một số nước XHCN anh em, đặc biệt là Việt Nam. Đại hội Đảng lần thứ IV (1986) đã khẳng định: "Quyết tâm chuyển nền kinh tế tự nhiên, nửa tự nhiên sang nền kinh tế hàng hóa với một kiểu cơ cấu mới, gắn nông nghiệp, lâm nghiệp với công nghiệp và dịch vụ" [43, tr.25].
1.1.1.2. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội ở Lào thời kỳ đổi mới
Thực hiện đường lối đổi mới trong đó có đổi mới kinh tế mà trọng tâm là đổi mới cơ chế quản lý, sự phát triển của nền kinh tế Lào đã từng bước có những chuyển biến rất quan trọng. Có thể thấy những chuyển biến cơ bản sau đây:
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ lệ công nghiệp và dịch vụ
Cơ cấu kinh tế trước năm đổi mới (1985), tiêu biểu là các năm 1980-1984, 1985 và 1986 nông nghiệp chiếm 73-83%, công nghiệp chiếm 6-10%, dịch vụ chiếm 11-17% (như đã thể hiện ở bảng trên).
Qua đổi mới cơ cấu kinh tế đã có sự đổi thay đáng kể: về cơ cấu nông nghiệp năm 1995 chiếm 54,3%, 1996 chiếm 52%, 1997 chiếm 51,5% và 1998 chiếm 52,8%. Công nghiệp năm 1995 chiếm 18,8%, 1996 chiếm 20,6%, 1997 chiếm 20,82%, 1998 chiếm 21,73%. Dịch vụ năm 1995 chiếm 27,00%, 1996 chiếm 27,4%, 1997 chiếm 26,96% và 1998 chiếm 26,2% của GDP [47, tr.83].
Với sự chuyển dịch tích cực của cơ cấu kinh tế đó nên tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hàng năm đã tăng trưởng đáng kể: "Năm 1990 tăng 6,7%, năm 1991 tăng 4,00%, năm 1992 tăng 7,0%, năm 1993 tăng 5,9%, năm 1994 tăng 8,1%, năm 1995 tăng 7,0%, năm 1996 tăng 6,9%, năm 1997 tăng 6,9%, năm 1998 tăng 4,0%” [35, tr.73, 83].
+ Chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước
Trong những năm qua ở Lào đã có chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, mệnh lệnh, hành chính từ trên xuống dưới sang cơ hế thị trường. Nhà nước thực hiện vai trò định hướng và điều tiết vĩ mô, để cho các đơn vị sản xuất kinh doanh là người tự chủ, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy luật cung - cầu, theo yêu cầu của thị trường. Thực tế kinh nghiệm bước đầu ở Lào đã cho thấy phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường vẫn cần phải có kế hoạch, nhất là với những nền kinh tế còn nhỏ bé và nhiều yếu kém. Nhà nước sử dụng kế hoạch làm công cụ định hướng, cần thiết điều tiết sự phát triển của thị trường đúng hướng, có trọng tâm, trọng điểm, tạo ra sức mạnh cần thiết cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế theo định hướng XHCN. Kế hoạch trong cơ chế mới là kế hoạch được hình thành thông qua những căn cứ của thị trường.
Sự thay đổi về cơ chế quản lý kinh tế từ chế độ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, có thể nói, là sự thay đổi căn bản nhất, tạo nền tảng cho những thay đổi về chính trị và xã hội Lào trong những năm qua và hiện nay. Có thể thấy những thay đổi lớn trong cơ chế kinh tế mới như:
Một là, để thích ứng với thị trường ở Lào đã từng bước thực hiện trao đổi thông qua giá cả và tỷ giá theo cơ chế thị trường. Nhà nước chỉ quản lý giá cả của những sản phẩm chủ yếu mang tính chiến lược như điện lực, nước sạch, thông tin liên lạc, hàng không. Việc thực hiện chính sách kinh tế mới, những năm vừa qua đã thúc đẩy sản xuất kinh doanh, mở rộng ngành nghề tạo công ăn việc làm cho người lao động, tỷ lệ lạm phát giảm (89% của năm 1989, xuống 10% của những năm 1990-1996).
Hai là, đã chuyển đổi hệ thống ngân hàng, từ hệ thống ngân hàng một cấp thành hệ thống ngân hàng hai cấp với chức năng nhiệm vụ khác nhau: Ngân hàng Trung ương làm nhiệm vụ quản lý điều tiết tầm vĩ mô về mặt lưu thông tiền tệ; Ngân hàng Thương mại làm nhiệm vụ lưu động tín dụng và cung ứng dịch vụ vốn cho các đơn vị sản xuất kinh doanh. Tách Kho bạc Nhà nước khỏi hệ thống Ngân hàng Quốc gia. Đồng thời đã cho một ngân hàng nước ngoài mở chi nhánh tại CHDCND Lào, nhằm mở rộng thị trường vốn, tăng đầu tư cho nền kinh tế.
Việc thực hiện chính sách trên đã góp phần làm cho kinh tế thị trường ổn định và mở rộng. Tuy nhiên, hoạt động của hệ thống ngân hàng vẫn còn nhiều yếu kém, chưa thực sự trở thành công cụ điều tiết chủ đạo cho nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Điều này thể hiện rõ trong việc đồng Kíp hiện đang ngày càng có nguy cơ tụt xuống làm cho thị trường giá cả biến động liên tiếp.
Ba là, hệ thống tài chính nhà nước được chuyển từ hệ thống tài chính dưới hình thức làm nghĩa vụ cho nhà nước của các đơn vị kinh doanh, các hộ gia đình thành hệ thống nộp thuế theo pháp luật. Sự thay đổi trên đã góp phần làm cho chính sách tài chính cấp vĩ mô của Nhà nước có hiệu lực và có khả năng huy động nguồn tài chính ngày càng tăng cho ngân sách nhà nước, góp phần thúc đẩy việc đầu tư vào sản xuất. Tuy nhiên, hệ thống tài chính các cấp chưa hẳn là công cụ điều tiết có hiệu quả, nhất là trong nền kinh tế thị trường của một quốc gia kém phát triển. Việc quản lý, sử dụng, kiểm soát ngân sách vốn đầu tư cả trong và ngoài nước chưa chặt chẽ. Hiện tượng bội chi ngân sách vẫn thường xảy ra. Do những yếu kém đó nên chưa phát huy tối đa tiềm lực tài chính của đất nước, cũng như việc thu hút các nguồn tài chính từ bên ngoài.
Bốn là, đã cải cách hệ thống quản lý hành chính về kinh tế từ quản lý kinh tế theo sự phân cấp như tỉnh, huyện và Trung ương sang quản lý theo ngành trong hệ thống chiều dọc. Giảm biên chế bộ máy hành chính từ 106.000 người năm 1986 xuống còn 76.000 người năm 1994.
+ Chuyển từ thừa nhận hai thành phần kinh tế sang thừa nhận nhiều thành phần kinh tế
Trước đổi mới nền kinh tế của CHDCND Lào có hai thành phần kinh tế chủ yếu là quốc doanh và tập thể. Bước vào thời kỳ đổi mới đã có sự điều chỉnh lớn trong quan hệ sản xuất với việc thừa nhận nhiều thành phần kinh tế. Đây là một trong những chính sách cơ bản, trụ cột về phát triển kinh tế. Sự chuyển đổi này từng bước khơi dậy các tiềm năng phát triển của nền kinh tế đất nước.
Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần là việc chuyển các đơn vị kinh tế nhà nước và tập thể hoạt động kém hiệu quả và không mang tính chất chiến lược sang các hình thức sở hữu khác như cho thuê, tư nhân góp vốn cùng kinh doanh hay bán cho tư nhân trong và ngoài nước theo thời gian hợp đồng. Đã có hàng loạt doanh nghiệp nhà nước quy mô vừa và nhỏ thuộc cấp tỉnh, cấp Trung ương đã chuyển sang hình thức trên. Nhà nước chỉ nắm giữ một số đơn vị kinh tế có tính chất chiến lược, có liên quan tới nhu cầu ổn định đời sống của toàn xã hội như điện lực, nước sạch, hàng không, xăng dầu, bưu chính viễn thông v.v.. ở Lào hiện nay đang tồn tại và phát triển nhiều thành phần kinh tế. Trong đó có cả các thành phần kinh tế có vốn đầu tư 100% vốn nước ngoài và vốn liên doanh trong - ngoài nước.
Các đơn vị kinh tế từng bước hoạt động sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường và bình đẳng trước pháp luật. Từng bước phát huy tính chủ động và sáng tạo trong sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp.
+ Chuyển từ quan hệ trao đổi hiện vật sang quan hệ trao đổi hàng hóa, tiền tệ
Quan hệ hàng hóa tiền tệ là một vấn đề cơ bản của sự chuyển đổi sang hệ thống kinh tế thị trường. Ngay từ khi bắt đầu thực hiện chính sách đổi mới Nhà nước Lào đã chuyển đổi từ cơ chế chi - trả có tính chất hành chính sang chế độ chi - trả bằng tiền mặt theo quy luật thị trường, mở rộng buôn bán tự do hợp pháp, chuyển từ chế độ tiền lương cung cấp theo phiếu sổ tay sang chế độ lĩnh lương bằng tiền mặt. Chuyển từ hệ thống nhiều tỷ giá trao đổi của nhà nước sang hệ thống giá cả và tỷ giá trao đổi đơn nhất. Xóa bỏ những hàng rào ngăn sông cấm chợ giữa các tỉnh và địa phương với nhau.
Trao đổi buôn bán theo cơ chế thị trường được mở rộng giữa thành thị và nông thôn trên cả nước và mở rộng buôn bán qua biên giới.
Theo thống kê, năm 1994-1995 giá trị lưu thông hàng hóa cả nước so với năm 1985 tăng 9 lần, riêng năm 1995 khả năng sức mua tăng lên 11,3% so với năm 1994. Việc buôn bán với nước ngoài ngày càng phát triển. Đến nay CHDCND Lào đã có quan hệ buôn bán với hơn 30 nước trên thế giới với tổng giá trị buôn bán năm 1994-1995 đạt đến 759,7 triệu USD so với năm 1993-1994 tăng 461%, trong đó xuất khẩu đạt 274 triệu USD so với năm 1985 tăng 24,7 lần, nhập khẩu đạt tới 485 triệu USD, so với năm 1985 tăng 24,4 lần [36, tr.59].
+ Chuyển sang mở rộng và đa phương hóa các quan hệ kinh tế với nước ngoài
Trước khi có những biến động lớn ở Liên Xô và Đông Âu những năm 1990-1991, Lào có quan hệ kinh tế chủ yếu với các nước XHCN. Trong đó, chủ yếu Lào tiếp nhận viện trợ từ các nước XHCN. Hiện nay, một mặt Lào tiếp tục củng cố, mở rộng quan hệ với các nước XHCN anh em truyền thống - trong đó có Việt Nam và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV.doc