Luận văn Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã có một bề dày lịch sử rất vẻ vang. Đảng đã lãnh đạo nhân dân các bộ tộc Lào đánh thắng thực dân, phong kiến và đi lên con đường xã hội chủ nghĩa; thực hiện đường lối đổi mới, phấn đấu xây dựng nước Lào thành một nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Để đưa đất nước phát triển, không có con đường nào khác là Đảng NDCM Lào phải có đường lối phát triển kinh tế đúng đắn và có hiệu quả. Chính vì vậy, Đảng Nhân dân Cách mạng (NDCM) Lào đã không ngừng tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra những giải pháp phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội của nước mình, nhằm thúc đẩy nền kinh tế Lào phát triển.

Nhưng, cho đến hôm nay, nền kinh tế của Lào vẫn chưa thoát ra khỏi tình trạng của một nền kinh tế nhỏ bé, lạc hậu. Đời sống nhân dân còn thấp và còn nhiều hộ đói nghèo. Nếu Đảng và Nhà nước không tìm ra phương pháp hữu hiệu thúc đẩy nền kinh tế Lào phát triển thì sẽ làm cho nước Lào tụt hậu nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới (tụt hậu về kinh tế sẽ dẫn đến tụt hậu về chính trị, khủng hoảng chính trị và không đảm bảo an ninh chính trị.).

Mặt khác, trong tiến trình phát triển của lịch sử, ngày nay khoa học - công nghệ trên thế giới đang phát triển như vũ bão; xu thế hội nhập giữa các nước trong khu vực và trên toàn thế giới ngày càng phát triển. Vấn đề toàn cầu hóa đang là vấn đề được thế giới rất quan tâm. Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào cũng nằm trong quỹ đạo đó. Vì vậy, để có thể hội nhập với thế giới, đòi hỏi nước Lào phải xây dựng được một nền kinh tế vững mạnh. Thực hiện được mục đích đó, Đảng và Nhà nước Lào đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Trong đó, xác định đổi mới kinh tế là Trung tâm. Đảng và Nhà nước Lào đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước đối với việc phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Điều đó đã đưa nền kinh tế quốc dân phát triển lên một bước; đồng thời, nâng cao đời sống nhân dân và tạo tiền đề của chủ nghĩa xã hội.

Trong văn kiện Đại hội lần thứ VII của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào năm 2001 đã khẳng định: "Sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là điều cần thiết, khách quan. Nhà nước phải có giải pháp đúng đắn, thực hiện có hiệu quả để quản lý kinh tế phát triển toàn diện, quản lý và phát triển tất cả các thành phần kinh tế - xã hội" [36, tr.13-14].

 

doc132 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1479 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã có một bề dày lịch sử rất vẻ vang. Đảng đã lãnh đạo nhân dân các bộ tộc Lào đánh thắng thực dân, phong kiến và đi lên con đường xã hội chủ nghĩa; thực hiện đường lối đổi mới, phấn đấu xây dựng nước Lào thành một nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Để đưa đất nước phát triển, không có con đường nào khác là Đảng NDCM Lào phải có đường lối phát triển kinh tế đúng đắn và có hiệu quả. Chính vì vậy, Đảng Nhân dân Cách mạng (NDCM) Lào đã không ngừng tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra những giải pháp phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội của nước mình, nhằm thúc đẩy nền kinh tế Lào phát triển. Nhưng, cho đến hôm nay, nền kinh tế của Lào vẫn chưa thoát ra khỏi tình trạng của một nền kinh tế nhỏ bé, lạc hậu. Đời sống nhân dân còn thấp và còn nhiều hộ đói nghèo. Nếu Đảng và Nhà nước không tìm ra phương pháp hữu hiệu thúc đẩy nền kinh tế Lào phát triển thì sẽ làm cho nước Lào tụt hậu nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới (tụt hậu về kinh tế sẽ dẫn đến tụt hậu về chính trị, khủng hoảng chính trị và không đảm bảo an ninh chính trị...). Mặt khác, trong tiến trình phát triển của lịch sử, ngày nay khoa học - công nghệ trên thế giới đang phát triển như vũ bão; xu thế hội nhập giữa các nước trong khu vực và trên toàn thế giới ngày càng phát triển. Vấn đề toàn cầu hóa đang là vấn đề được thế giới rất quan tâm. Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào cũng nằm trong quỹ đạo đó. Vì vậy, để có thể hội nhập với thế giới, đòi hỏi nước Lào phải xây dựng được một nền kinh tế vững mạnh. Thực hiện được mục đích đó, Đảng và Nhà nước Lào đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Trong đó, xác định đổi mới kinh tế là Trung tâm. Đảng và Nhà nước Lào đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước đối với việc phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Điều đó đã đưa nền kinh tế quốc dân phát triển lên một bước; đồng thời, nâng cao đời sống nhân dân và tạo tiền đề của chủ nghĩa xã hội. Trong văn kiện Đại hội lần thứ VII của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào năm 2001 đã khẳng định: "Sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là điều cần thiết, khách quan. Nhà nước phải có giải pháp đúng đắn, thực hiện có hiệu quả để quản lý kinh tế phát triển toàn diện, quản lý và phát triển tất cả các thành phần kinh tế - xã hội" [36, tr.13-14]. Đây là nội dung đường lối phát triển kinh tế mà Đảng NDCM Lào đã xác định và coi trọng để tìm ra các giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế ở Lào từ nay đến năm 2020. Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và xuất phát từ tình hình thực tiễn trong nước trong những năm qua và hiện nay, tôi thấy rất cần thiết phải nghiên cứu vấn đề này. Đó là lý do tôi chọn vấn đề: "Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực và hiệu quả của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế đã được nhiều tác giả trong nước và ngoài nước nghiên cứu. - Bên cạnh lý luận của kinh tế học tư sản, có một dòng lý luận khác, lý luận Mác xít. Các Mác rất coi trọng giải pháp, vai trò hiệu lực của nhà nước trong điều tiết kinh tế. Sau Mác, Người kế thừa và phát triển học thuyết Mác là V.I.Lênin, không chỉ bổ sung về mặt lý luận mà còn áp dụng nó vào thực tiễn, phát triển kinh tế - xã hội ở Liên Xô trong giai đoạn đầu của cách mạng Nga. Với chính sách NEP của mình, ông đã kết hợp một hệ thống các giải pháp có hiệu lực phát huy vai trò của nhà nước với nền kinh tế thị trường và đề cao tự do trao đổi hàng hóa trên cơ sở có sự quản lý của nhà nước. ở Lào đã có một số luận văn đề cập đến vấn đề kinh tế của Lào như: Pheng Ta Vi La Vông, Phát triển kinh tế hộ gia đình nông dân ở CHDCND Lào, Luận án tiến sĩ, 1991; Khăm Phăn Phun Bo Lin, Một số đặc điểm mới cơ chế quản lý kinh tế ở CHDCND Lào, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1991; Bun Thi Khưa Mi Xay, Phát triển thị trường nông thôn ở CHDCND Lào, Luận án tiến sĩ, năm 1999. ở Việt Nam có nhiều nhà kinh tế đã rất quan tâm nghiên cứu về vấn đề kinh tế thị trường. Luận án tiến sĩ kinh tế của Đặng Ngọc Lợi (1995), Phạm Khánh Phương, Tìm hiểu vai trò của nhà nước trong quản lý nền kinh tế thị trường, Nxb Phân viện thành phố Hồ Chí Minh, 1995. Tiểu luận tốt nghiệp lý luận chính trị cao cấp của Đoàn Thị Ngọc Thanh, 2000... Đảng và Nhà nước Lào đã quan tâm đến việc phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay, đã được thể hiện trong Văn kiện Đại hội của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, trong đó có đề cập đến việc nghiên cứu về giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế ở Lào từ nay đến năm 2020. (Đại hội của Đảng NDCM Lào lần thứ năm 2001). 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài a. Mục đích: Trên cơ sở phân tích rõ thực trạng, nguyên nhân nền kinh tế, từ đó đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế ở Lào. b. Nhiệm vụ - Phân tích, khái quát tình hình lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Lào đối với sự phát triển kinh tế trong những năm qua và khẳng định những thành tựu, hạn chế; những vấn đề đặt ra cần có giải pháp và hiệu lực của nhà nước để quản lý và phát triển kinh tế trong thời đại mới. - Đề xuất phương hướng giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế ở Lào trong giai đoạn hiện nay đến 2020. c. Phạm vi nghiên cứu Đề tài chủ yếu đề cập đến nội dung, phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường hiệu lực của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế ở Lào dưới góc độ chính trị học. - Thời gian khảo sát thực tế từ năm 1986 đến nay. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu đề tài - Cơ sở lý luận của đề tài là các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước của Lào đối với sự phát triển kinh tế ở Lào trong giai đoạn mới. - Kết hợp khảo sát thực tiễn, phân tích, khái quát, tổng hợp. 5. Những đóng góp về khoa học của luận văn - Đề tài đánh giá những mặt thành công và chỉ ra những hạn chế trong sự phát triển kinh tế ở Lào trong những năm qua đến nay. - Góp phần chỉ ra một cách tương đối cụ thể nội dung phương hướng, một số giải pháp chủ yếu và có tính khả thi để nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế từ nay đến 2020. - Kết quả của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những nhà quản lý, trường chính trị cán bộ, học viên để nghiên cứu. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy ở hệ thống trường chính trị, hành chính và làm tài liệu tham khảo cho các cấp ủy trong quá trình lãnh đạo, phát triển kinh tế trong thời đại mới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết. Chương 1 Một số lý luận và thực tiễn về vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế và tính tất yếu phải tăng cường vai trò của nhà nước Lào đối với kinh tế 1.1. Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế 1.1.1. Một số tư tưởng trước Mác về vai trò của Nhà nước đối với việc phát triển nền kinh tế - xã hội Từ cuối thế kỷ XV, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã xuất hiện. Đó là một trào lưu lý luận đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người phê phán chủ nghĩa tư bản một cách có hệ thống và có cơ sở thực tiễn ngay từ khi chủ nghĩa tư bản mới đang trong quá trình hình thành và phát triển. Chủ nghĩa xã hội không tưởng có cống hiến lớn nhất cho loài người là đã chỉ ra một cách đúng đắn những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản. Đó là bản chất bóc lột, tính tự phát vô Chính phủ của nền sản xuất, sự phân hóa về mặt xã hội và khẳng định khuyết tật của chế độ tư hữu là nguyên nhân gây nên mọi bất công trong xã hội tư bản. Nhưng hạn chế lớn nhất của chủ nghĩa xã hội không tưởng ở thế kỷ thứ XVIII là không chỉ ra được lực lượng giai cấp vô sản đủ sức để thực hiện được sứ mệnh lịch sử là xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chế độ xã hội XHCN. Trong đó, nổi lên tư tưởng kinh tế và vai trò của nhà nước đối với việc phát triển kinh tế của chủ nghĩa xã hội không tưởng trong hai giai đoạn: 1) Chủ nghĩa xã hội không tưởng Tây Âu (từ cuối thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XIX. 2) Chủ nghĩa xã hội không tưởng Nga cuối thế kỷ XIX. 1.1.1.1. Tư tưởng kinh tế của chủ nghĩa xã hội không tưởng từ cuối thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX, tiêu biểu: a) Thomas More (1478-1535) Với tác phẩm "Đảo ước mơ" 1516 xuất bản tại Bỉ, Thomas More đã phản ánh được thực trạng khốn khổ của đại đa số nông dân Anh trong giai đoạn tích luỹ nguyên thủy của CNTB. Ông khẳng định chế độ tư hữu của CNTB là nguyên nhân gây nên sự khốn khổ của nông dân Anh. Đồng thời, ông cũng nêu lên một xã hội tốt đẹp không có chế độ tư hữu tư nhân. Nhưng, tư tưởng kinh tế của Thomas More bị hạn chế bởi chủ nghĩa nhân đạo. Ông không chỉ ra được những cách thức, con đường cho nhân loại xây dựng xã hội tốt đẹp đó bằng con đường phát triển kinh tế và vai trò của Nhà nước trong việc phát triển xã hội. b) Thomas Campanenla (1568-1639) - Tác phẩm "Thành phố mặt trời" viết 1601, xuất bản lần đầu năm 1623 ở Đức. Campanenla cũng viết về một xã hội tốt đẹp không có người bóc lột người, chỉ có một chế độ sở hữu xã hội. Mọi người đều có trách nhiệm lao động và đều được đánh giá như nhau; quan hệ phân phối theo nguyên tắc bình quân và không dùng tiền tệ để trao đổi. Đồng tiền chỉ dành cấp cho các đại sứ và những nhân viên tình báo hoạt động ở nước ngoài. Ăngghen sau này đã phê phán, cho tư tưởng này là sai lầm. Nhưng cả Thomas More và Campanenla đã có ảnh hưởng nhất định tới CNXH không tưởng ở Tây Âu, và các ông xứng đáng là những người đi tiên phong trong trào lưu phê phán CNTB và đi đầu trong học thuyết kinh tế thời bấy giờ. c) Saint Simon (1761-1825) - Điểm tiến bộ của Simon so với các nhà không tưởng khác là ông dự kiến xã hội tương lai là một "hệ thống công nghiệp khoa học" như một tất yếu lịch sử mà nhân loại phải đi đến. Trong xã hội đó, lao động đã trở thành sự tự giác của mọi người. - Khi nói về vai trò của Nhà nước, Sain Simon cho rằng: Nhà nước với tư cách là người đứng ra tổ chức xã hội phải do một Hội đồng các nhà bác học, nghệ sĩ và các nhà công thương giỏi điều hành. Nhà nước cần phải tịch thu hết tài sản, tư liệu sản xuất... để trao cho những người có khả năng nhất trong việc tạo ra của cải vật chất để đáp ứng tối đa cho lợi ích xã hội. Tư tưởng của Simon về vai trò nhà nước đã là lý luận có ý nghĩa nhất định đối với Mác và Ăngghen trong quá trình xây dựng học thuyết về CNXH khoa học sau này. d) R.Owen có nhiều quan điểm tiến bộ mà sau này Mác đã tiếp thu, kế thừa và phát triển. Đó là - sự phê phán nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, với chế độ tư hữu dẫn đến sự hỗn loạn, đầy mâu thuẫn chiến tranh và sự đói nghèo của đa số những người lao động trong xã hội. *Tư tưởng kinh tế của R.Owen có xu hướng thực tiễn rõ rệt. Ông không những đả kích mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản bóc lột mà còn xây dựng các dự án cải cách xã hội. Trong những năm 1815-1817, ông đã nhiều lần đề nghị Chính phủ Anh thực hiện các dự án: hạn chế ngày lao động, tổ chức các công xã lao động nhưng đều bị bác bỏ. Năm 1924, ông sang Mỹ thành lập công xã lao động - sự hòa hợp mới. Nhưng chỉ duy trì được năm 1929, sau đó bị phá sản và ông phải trở về Anh tham gia phong trào hợp tác xã và xuất bản tạp chí "Khủng hoảng". Các tác phẩm chính của ông gồm: Báo cáo về giảm nhẹ tình cảnh của công nhân công nghiệp và nông nghiệp (1820); những nhận xét về ảnh hưởng của hệ thống công nghiệp. Báo cáo về kế hoạch giảm nhẹ bớt tai họa xã hội (1818); về sự hình thành đặc tính con người (năm 1814); về thế giới đạo đức mới (1844). Theo ông, xã hội tương lai gồm 6 phần: nông nghiệp, công nghiệp, văn hóa, khoa học và giáo dục; kinh tế gia đình; kinh tế công nông và thương nghiệp. Ông dự đoán: lao động là nghĩa vụ của mọi người. Đặc biệt, phân phối sản phẩm sẽ theo nguyên tắc "làm theo năng lực, hưởng theo lao động". Ông có tư tưởng tiến bộ: là người đầu tiên nêu lên tư tưởng về hợp tác hóa trong sản xuất và tiêu dùng. Đồng thời, thực hiện chế độ "tiền công" và "trao đổi công bằng" sẽ là biện pháp để chuyển sang chế độ xã hội chủ nghĩa. Tiền lao động sẽ là thước đo giá trị sức lao động của con người. Bên cạnh đó, ông còn đề ra tư tưởng, cho rằng: lập các hợp tác xã cộng đồng để cải tạo nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mỗi hợp tác xã là một đơn vị kinh tế, có vai trò như tế bào của một xã hội tương lai. Chế độ sở hữu công cộng sẽ là nền tảng của hợp tác xã và lao động theo chế độ tập thể vì lợi ích chung. Ông còn cho rằng, tổ chức lao động đúng, áp dụng khoa học kỹ thuật sẽ tạo năng suất sản phẩm gấp 10 lần. CNXH của Ooen có xu hướng tiến bộ đến rất gần với xã hội cộng sản hôm nay. 1.1.1.2. Tư tưởng kinh tế của chủ nghĩa xã hội không tưởng Nga cuối thế kỷ XIX a) Tiêu biểu là Gerson (1812-1870), ông là người "trải qua chủ nghĩa duy vật biện chứng nhưng dừng lại trước chủ nghĩa duy vật lịch sử - Lênin". - Các tác phẩm chính của ông về kinh tế: chế độ sở hữu được rửa tội (1889); gửi người bạn cũ (1869). Ông phê phán mạnh mẽ CNTB và phân biệt chế độ tư sản khác chế độ phong kiến ở hình thức và phương pháp bóc lột; phương thức kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động đương thời... Học thuyết về chủ nghĩa xã hội của A.Gersen là chủ nghĩa xã hội nông dân. Đó là thứ chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở phê phán chủ nghĩa không tưởng Tây Âu và chủ nghĩa tư bản hiện thời. Ông đã cho rằng: giai cấp vô sản Tây Âu và giai cấp nông dân Nga là những giai tầng bị áp bức cực khổ nhất, họ sẽ vùng dậy đấu tranh và chủ nghĩa xã hội sẽ ra đời. Nhìn chung, tư tưởng của A.Gersen đã tiếp cận gần được với chủ nghĩa xã hội khoa học, nhưng hạn chế của Gersen ở chỗ ông chưa thấy hết được vai trò của giai cấp công nhân mà mới chỉ thấy được vai trò của giai cấp nông dân. Song tư tưởng của ông đã có một vai trò quan trọng nhất định đối với nước Nga đang tìm cách lật đổ chế độ Sa hoàng. b. N.Tshecnuisepski (1828-1889) N.Tshecnuisepski là một nhà cách mạng dân chủ nổi tiêng sở Nga trong thế kỷ XIX, với những tác phẩm: "Về ruộng đất như một phần của cải (1854); về những điều kiện tiêu dùng của nông thôn (1857); về chế độ sở hữu ruộng đất (1857); tư bản và lao động (1869); nhận xét cuốn sách, những cơ sở của kinh tế chính trị, của Min (1861)... Tư tưởng kinh tế của ông là đỉnh cao của lý luận kinh tế trước Mác. Ông cho rằng, phải thủ tiêu chế độ nông nô, không cho phát triển chủ nghĩa tư bản ở Nga và sử dụng những di sản của nền nông nghiệp công xã để xây dựng những hiệp hội. Nhà nước sở hữu tất cả ruộng đất, nhưng giao quyền quản lý cho công xã. Điều quan trọng và được coi là tiến bộ trong học thuyết của ông ở chỗ: ông dự đoán được Nga có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nếu biết sử dụng công xã và thực hiện chế độ sở hữu tập thể. Nhưng lý luận của N.TShecnuisepski đã thể hiện tính chất không tưởng ở chỗ quá đề cao vai trò của công xã Nga trong khi tư bản chủ nghĩa đã để các công xã nằm ngoài các quan hệ kinh tế của nó. Nhưng dù sao thì học thuyết của ông cũng đã được Lênin đánh giá rất cao về lý luận kinh tế, và nó là cơ sở để các ông nghiên cứu hoàn chỉnh về nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Nhìn chung, chủ nghĩa xã hội không tưởng cuối thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng về tư duy và nhận thức của con người, về sự phát triển của kinh tế - xã hội và vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế. Đồng thời, nó là cơ sở quan trọng để sau này Mác - Lênin kế thừa, phát triển thành học thuyết về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Trong xã hội muốn phát triển, thông qua các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo và sự quản lý, tổ chức thực hiện của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tập trung lãnh đạo và quản lý phát triển nền kinh tế đất nước. Thực tiễn đã chứng minh: chỉ đến khi Mác - Ăngghen và Lênin, với bộ óc thiên tài, các ông đã đưa lý luận chủ nghĩa xã hội không tưởng trở thành hiện thực. Nhà nước pháp quyền của nhân dân lao động là nhà nước với vai trò quản lý kinh tế - xã hội, điều hành thực hiện xây dựng một nền kinh tế XHCN và cộng sản chủ nghĩa. 1.1.2. Quan điểm của Mác - Lênin về vai trò của Nhà nước đối với việc phát triển kinh tế và lý thuyết của Keynes Sa muel Son về vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế a. Quan điểm của Mác - Lênin Lịch sử loài người những năm 40 của thế kỷ XIX cũng là lúc hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa đã chiếm địa vị thống trị ở nhiều nước Tây Âu và nước Mỹ. Đó là thời điểm lịch sử ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin - người thầy của cách mạng vô sản Nga và thế giới đã có đánh giá: "học thuyết Mác:... ra đời là sự thừa kế thẳng và trực tiếp những học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học và trong chủ nghĩa xã hội" [13, tr.49-50]. Lênin cho rằng: Học thuyết của Mác (trong đó có phần quan trọng là kinh tế chính trị học. Đó là sự kế thừa tất cả những gì tinh hoa nhất mà tư tưởng loài người sáng tạo ra thuộc địa phận của xã hội loài người. Đồng thời, chủ nghĩa Mác ra đời là một bước ngoặt căn bản trong triết học, kinh tế - chính trị và trong các khoa học xã hội khác. Đó chính là thành tựu của xã hội loài người về sự phát triển kinh tế. Giá trị của chủ nghĩa Mác đã đem lại cho loài người những vũ khí vĩ đại để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử - một trong những phát minh vĩ đại nhất của Mác, một lý luận khoa học hoàn chỉnh và chặt chẽ. Mác phát hiện ra tính quy luật của sự phát triển xã hội; sự bóc lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản và tính tất yếu của sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác. Có thể nói ngắn gọn rằng: học thuyết kinh tế của Mác và vai trò của Nhà nước đối với kinh tế được chia làm ba giai đoạn. Đó là: 1) Giai đoạn hình thành cơ sở và phương pháp luận của học thuyết kinh tế của Mác (từ 1843 đến 1848); 2) Giai đoạn Mác nghiên cứu, xây dựng hệ thống các phạm trù và quy luật kinh tế (1848-1867); 3) Giai đoạn hoàn thiện học thuyết kinh tế (1867-1895). Trong học thuyết của Mác, học thuyết kinh tế chiếm vị trí quan trọng, hàng đầu. Nó là cơ sở để nhà nước thực hiện vai trò lãnh đạo, quản lý việc xây dựng và phát triển nền kinh tế. Mác đã trình bày khoa học có sức thuyết phục về nguyên lý kinh tế mác xít, về thị trường của chủ nghĩa tư bản hình thành ngay trong quá trình phát triển của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Học thuyết kinh tế của Mác được tập trung ở "Bộ tư bản" mà Mác đã nghiên cứu và viết trong một thời gian dài từ 1843 đến 1895. Từ bản thảo "Đấu tranh giai cấp ở Pháp, cách mạng và phản cách mạng ở Đức". Nhất là "Bản thảo kinh tế", "tiền tệ hay lưu thông giản đơn", đến "phê phán kinh tế chính trị" (1863)... Mác đều thông qua vấn đề kinh tế để phân tích bản chất của Nhà nước, của giai cấp tư sản (chủ nghĩa tư bản). Đồng thời với những quy luật của kinh tế và sự quản lý của Nhà nước, quá trình vận động và phát triển hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa. Trên cơ sở tổng kết về bản chất giai cấp vô sản và tư sản; Nhà nước của giai cấp tư sản khác hẳn Nhà nước của giai cấp vô sản (tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa) ngay trong quá trình thực hiện vai trò quản lý nền kinh tế - xã hội. Mác cũng chỉ rõ: Nhà nước trong chủ nghĩa tư bản với bản chất bóc lột bằng giá trị thặng dư (giai cấp vô sản) làm cách mạng vô sản sẽ là cơ sở để nổ ra cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mác đã khẳng định đối tượng của kinh tế chính trị là quan hệ sản xuất, tức là các mối quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Từ đó ông nêu rõ quy luật vận động phát triển của quan hệ sản xuất tức là các quy luật kinh tế. Dựa trên quan điểm lịch sử Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng về học thuyết giá trị lao động, giá trị thặng dư. Với lý luận về giá trị thặng dư, Mác đã vạch trần gốc rễ của bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự đối lập, giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong chế độ nhà nước tư bản. Mác cũng đã phân tích những điều kiện tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng: sự tự do cạnh tranh của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đó là những mâu thuẫn tất yếu dẫn đến khủng hoảng thừa, khủng kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Từ cơ sở lý luận "chế độ tư hữu và nhà nước", về kinh tế tư bản chủ nghĩa của Mác cũng như toàn bộ lý luận, vấn đề kinh tế và nhà nước trong xã hội tư bản. Lênin đã kế thừa và phát triển, nâng cao tầm lý luận và cụ thể về vấn đề kinh tế và sự quản lý của nhà nước đối với kinh tế. Lênin đã viết nhiều tác phẩm như: "Bàn về cái gọi là vấn đề thị trường" (1893); "những người bạn dân là gì và họ đấu tranh chống những người xã hội dân chủ như thế nào" (1894). Lênin đã đánh bại chủ nghĩa dân tuý về tư tưởng trong tác phẩm "Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga". Thành công giá trị của Lênin trong việc phát triển lý luận mác xít về vấn đề ruộng đất ở Nga. Lênin đã khẳng định chủ nghĩa đế quốc là sự phát triển kế tục các thuộc tính cơ bản "chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp và bảo vệ, phát triển lý luận mác xít" [1, tr.150]. Lênin đã vạch rõ địa vị lịch sử của chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản lũng đoạn, ăn bám và thối nát. Lênin cũng đã tìm ra quy luật phát triển không đều về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa và ông đã rút ra kết luận quan trọng: chủ nghĩa xã hội có thể thắng lợi trước tiên ở mốt ố nước (có khi ở trong một nước riêng lẻ). Theo Lênin, sự khủng hoảng toàn diện của chủ nghĩa tư bản, giai đoạn lịch sử trong đó chế độ tư bản chủ nghĩa sụp đổ và chế độ mới cao hơn - chế độ xã hội chủ nghĩa nhất định sẽ ra đời và chiến thắng. Lênin còn khẳng định: chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước và bộ máy nhà nước tư sản phục vụ cho tổ chức lũng đoạn. Chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước, một mặt, nó là hình thức cao nhất của xã hội hóa tư bản chủ nghĩa nền sản xuất, là sự chuẩn bị cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, nó tăng cường bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Lý luận kinh tế - chính trị và vai trò của Nhà nước đối với kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin ngày càng được thể hiện rõ trong quá trình xây dựng nhà nước Xô viết, cũng như nó tiếp tục được phát triển trong các văn kiện của các Đảng Cộng sản ở Liên Xô (trước đây) và các nước xã hội chủ nghĩa. Về lý luận, Lênin đã trình bày rõ quan điểm vai trò của Nhà nước trong việc quản lý và điều tiết nền kinh tế với kế hoạch hóa tập trung, thống nhất. "Nhà nước và cách mạng" là tác phẩm của Lênin nghiên cứu và xây dựng một số vấn đề cơ bản về vai trò của Nhà nước trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Nó khác về chất với nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Đó là dưới CNXH là chế độ sở hữu tư liệu sản xuất bằng hai hình thức toàn dân và tập thể, làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Giai đoạn phát triển cao hơn nhà nước chỉ với một hình thức sở hữu tư liệu sản xuất của toàn dân và thực hiện chế độ làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu, là việc thực hiện tổ chức sản xuất, quản lý sản xuất, thị trường tiêu thụ, phân phối sản phẩm theo kế hoạch hóa tập trung, thống nhất có sự quản lý điều tiết của Nhà nước bằng pháp luật. Với bộ óc thiên tài, Lênin đã phát triển học thuyết của Mác về Đảng cách mạng, về triết học, kinh tế chính trị và Người đã vận dụng, phát triển thành công chủ nghĩa Mác vào cách mạng tháng Mười Nga (1917). Trong đó, vấn đề kinh tế và vai trò của Nhà nước đối với việc quản lý nền kinh tế chiếm một phần rất quan trọng của Nhà nước Xô viết. b. Một số lý thuyết về kinh tế và vai trò của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế * Lý thuyết kinh tế của Keynes: Vào những năm 30 của thế kỷ XX, lực lượng sản xuất đã phát triển, chế độ tư bản độc quyền ra đời và bành trướng thế lực thì cũng là lúc lý luận kinh tế cổ điển và tân cổ điển của Smith và D.Ricacdo, Leon Walras với tư tưởng cơ bản về sự điều tiết của cơ chế thị trường đã bị cuộc khủng hoảng 1929-1933 của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phá sản. Trước tình hình đó, đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế và lý thuyết Keynes đã ra đời (1884-1946) (người Anh) với tác phẩm nổi tiếng của ông "Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ" xuất bản 1936. Trong đó, Keynes đã phê phán các quanđiểm của trường phái cổ điển, tân cổ điển về một số vấn đề lý luận, chủ yếu là quan điểm kinh tế "tự điều chỉnh". Ông đã trình bày một số quan điểm cơ bản về kinh tế, vai trò của Nhà nước đối với kinh tế và vấn đề khủng hoảng, thất nghiệp và vai trò điều tiết của Nhà nước đối với kinh tế. Ông khẳng định một vấn đề quan trọng là cần có nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường. Vai trò đó thể hiện tập trung ở việc điều chỉnh tổng cầ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van1.doc
  • docMục lục.doc
Tài liệu liên quan