Trước nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Bộ Chính trị đã ban hành nhiều Nghị quyết "về cải cách Tư pháp ". Mục tiêu của các Nghị quyết này là xây dựng nền Tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong đó trọng tâm là "hoạt động xét xử" của Toà án phải được tiến hành một cách có hiệu quả và hiệu lực cao.
Trong những năm qua, thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước, nhất là Nghị quyết số 08- NQ/ TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác Tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/ 6/ 2005 của Bộ chính trị "về cải cách tư pháp đến năm 2020" công cuộc cải cách Tư pháp đã được các cấp uỷ, Đảng lãnh đạo và tổ chức thực hiện với quyết tâm cao, đạt được nhiều kết quả. Nhận thức và sự quan tâm đối với công tác Tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực, chất lượng hành động Tư pháp đã được nâng lên mật bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an Toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tuy nhiên, những kết quả đó mới chỉ là bước đầu và mới tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn bất cập chưa được sửa đổi bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp, vẫn còn tình trạng oan sai trong điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của các cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu.
Trong bối cảnh chung đó, hệ thống toà án của tỉnh Điện Biên nói chung, toà án huyện Điện Biên Đông nói riêng cũng phải đối mặt với không ít những khó khăn, bất cập. Toà án Điện Biên Đông là một toà án thuộc huyện vùng cao của tỉnh Điện Biên mới được thành lập từ tháng 5/ 1996. Hiện nay biên chế của cơ quan mới chỉ có 05 đồng chí trong đó 03 Thẩm phán, 02 Cán bộ, không có thư ký chuyên trách . Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của đơn vị còn nhiều thiếu thốn. Bên cạnh đó kinh tế - xã hội huyện Điện Biên Đông chậm phát triển, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu, kinh tế tự cung, tự cấp là chủ yếu. Địa bàn rộng, giao thông đi lại khó khăn, trình độ dân chí thấp, nhất là hiểu biết về pháp luật còn nhiều hạn chế. đồng thời xuất hiện nhiều loại tội phạm như: Ma tuý, trộm cắp, cưỡng đoạt tài sản, tranh chấp đất đai và các tệ nạn xã hội khác .
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định song xét cả về chủ quan và khách quan, có thể khẳng định rằng Toà án nhân dân huyện Điện Biên Đông chưa thể theo kịp những yêu cầu đặt ra trong cải cách tư pháp hiện nay. Chính vì vậy nghiên cứu những vấn về lý luận và thực tiễn nhằm tìm ra những giải pháp tích cực giúp Toà án Điện Biên Đông bắt kịp và đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay trở thành vấn đề vô cùng bức xúc.
Là một cán bộ công tác lâu năm trong ngành Toà án tỉnh Điện Biên, là một cán bộ chủ chốt của Tòa án huyện Điện Biên Đông. Tôi chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử của Toà án nhân dân huyện Điện Biên Đông - Tỉnh Điện Biên" là luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị của mình.
56 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1238 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử của Toà án nhân dân huyện Điện Biên Đông - Tỉnh Điện Biên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phần nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trước nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Bộ Chính trị đã ban hành nhiều Nghị quyết "về cải cách Tư pháp ". Mục tiêu của các Nghị quyết này là xây dựng nền Tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong đó trọng tâm là "hoạt động xét xử" của Toà án phải được tiến hành một cách có hiệu quả và hiệu lực cao.
Trong những năm qua, thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước, nhất là Nghị quyết số 08- NQ/ TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác Tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/ 6/ 2005 của Bộ chính trị "về cải cách tư pháp đến năm 2020" công cuộc cải cách Tư pháp đã được các cấp uỷ, Đảng lãnh đạo và tổ chức thực hiện với quyết tâm cao, đạt được nhiều kết quả. Nhận thức và sự quan tâm đối với công tác Tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực, chất lượng hành động Tư pháp đã được nâng lên mật bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an Toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tuy nhiên, những kết quả đó mới chỉ là bước đầu và mới tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn bất cập chưa được sửa đổi bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp, vẫn còn tình trạng oan sai trong điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của các cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu.
Trong bối cảnh chung đó, hệ thống toà án của tỉnh Điện Biên nói chung, toà án huyện Điện Biên Đông nói riêng cũng phải đối mặt với không ít những khó khăn, bất cập. Toà án Điện Biên Đông là một toà án thuộc huyện vùng cao của tỉnh Điện Biên mới được thành lập từ tháng 5/ 1996. Hiện nay biên chế của cơ quan mới chỉ có 05 đồng chí trong đó 03 Thẩm phán, 02 Cán bộ, không có thư ký chuyên trách . Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của đơn vị còn nhiều thiếu thốn. Bên cạnh đó kinh tế - xã hội huyện Điện Biên Đông chậm phát triển, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu, kinh tế tự cung, tự cấp là chủ yếu. Địa bàn rộng, giao thông đi lại khó khăn, trình độ dân chí thấp, nhất là hiểu biết về pháp luật còn nhiều hạn chế. đồng thời xuất hiện nhiều loại tội phạm như: Ma tuý, trộm cắp, cưỡng đoạt tài sản, tranh chấp đất đai và các tệ nạn xã hội khác….
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định song xét cả về chủ quan và khách quan, có thể khẳng định rằng Toà án nhân dân huyện Điện Biên Đông chưa thể theo kịp những yêu cầu đặt ra trong cải cách tư pháp hiện nay. Chính vì vậy nghiên cứu những vấn về lý luận và thực tiễn nhằm tìm ra những giải pháp tích cực giúp Toà án Điện Biên Đông bắt kịp và đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay trở thành vấn đề vô cùng bức xúc.
Là một cán bộ công tác lâu năm trong ngành Toà án tỉnh Điện Biên, là một cán bộ chủ chốt của Tòa án huyện Điện Biên Đông. Tôi chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử của Toà án nhân dân huyện Điện Biên Đông - Tỉnh Điện Biên" là luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị của mình.
2. Mục đích đề tài.
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Toà án nhân dân nói chung, Toà án cấp huyện nói riêng. Làm rõ thực trạng chất lượng xét xử của Toà án nhân dân
huyện Điện Biên Đông. Trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp có cơ sở khoa học và có tính khả thi để có thể vận dụng trong thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng xét xử của Toà án nhân dân cấp Huyện nói chung và của Toà án nhân dân Huyện Điện Biên Đông nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài:
- Đề tài được nghiên cứu dựa trên những cơ sở về quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin, Tư Tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và nhà nước ta về nhà nước và pháp luật nói chung và nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu của đề tài: được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp điều tra, phân tích tổng hợp, xử lý tài liệu thông tin bám sát các quan điểm mới của Đảng, kết hợp giữa phân tích lý luận và nghiên cứu thực tiễn xét xử.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Đề tài được nghiên cứu về chất lượng xét xử của Toà án nhân dân Huyện Điện Biên Đông trong 5 năm (2001-2005) và phương hướng giải pháp trong năm tới (2006-2010).
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận. Nội dung của luận văn tốt nghiệp được chia thành 3 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận và pháp luật của vấn đề nâng cao chất lượng xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện.
- Chương II: Thực trạng hoạt động xét xử của Toà án nhân dân Huyện Điện Biên Đông - Tỉnh Điện Biên từ (2001- 2005).
- Chương III: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng xét xử của Toà án nhân dân Huyện Điện Biên Đông.
- Kết luận:
- Tài liệu tham khảo:
phần nội dung
Chương I.
Cơ sở lý luận và pháp luật của vấn đề nâng cao chất lượng
xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện.
1. Vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của Toà án nhân dân.
1.1: Vị trí, vai trò của Toà án nhân dân:
Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam quy định bộ máy Nhà nước gồm 04 loại cơ quan: Cơ quan quyền lực Nhà nước, cơ quan hành chính Nhà nước, cơ quan Viện kiểm sát và cơ quan xét xử (Toà án nhân dân). Mỗi cơ quan đều có chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động và thẩm quyền khác nhau. Trong quá trình thực hiện chức năng của mình, các cơ quan của bộ máy Nhà nước có tính độc lập tương đối, nhưng hoạt động trong một chỉnh thể thống nhất, phối hợp chặt chẽ với nhau, nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ chung của bộ máy Nhà nước.
Nghị quyết Đại biểu toàn quốc lần thứ IX cuả Đảng Cộng sản Việt nam và Hiến pháp năm 1992đã khẳng định: "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền hợp pháp, hành chính và Tư pháp".( Văn kiện đại hội Đảng thời kỳ đổi mới NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội - 2005, tr 674
Điều 2 Hiến pháp 1992
) Cơ quan Toà án và Viện kiểm sát là các cơ quan được Quốc hội phân công trực tiếp thực hiện quyền Tư pháp và được gọi là cơ quan thuộc hệ thống Tư pháp. Toà án là một cơ quan nhà nước, Toà án nhân dân có một vị trí đặc biệt quan trọng, Nhà nước thông qua Toà án để thực hiện quyền Tư pháp của mình. ở nước ta trong hệ thống các cơ quan Tư pháp, Toà án nhân dân là khâu trọng yếu, cơ bản, là bộ phận không thể thiếu được của Bộ máy nhà nước.
Ngay sau khi cách mạng tháng 8 thành công, thành lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Đảng và Nhà nước ta đã khẩn trương xây dựng và kiện Toàn bộ máy nhà nước trong đó có Toà án, là công cụ sắc bén của nhà nước công nông đầu tiên ở Đông nam á để bảo vệ thành quả cách mạng non trẻ, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và của nhân dân. Xuất phát từ nhiệm vụ chiến lược đó-Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ký sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9 1945 thành lập cácToà án quan sự ở cả ba miền: Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ với nhiệm vụ : "Toà án quân sự sẽ xử tất cả các người nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà" và sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán.
Tháng 4/1946, Quốc hội khoá I kỳ họp thứ II đã thông qua Hiến pháp 1946, trong đó có 7 điều qui định việc tổ chức bộ máy và các nguyên tắc hoạt động của Toà án.
Thực hiện việc cải cách Tư pháp, Chủ Tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ban hành sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy Tư pháp và luật tố tụng. Theo sắc lệnh này thì tổ chức Toà án bao gồm: Toà án sơ cấp (Toà án cấp huyện) và Toà án đệ nhị cấp (Toà án cấp Tỉnh). Vào thời điểm này Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quan trọng để kiện toàn và tăng cường hiệu lực của Toà án. Đặc biệt tạo kỳ họp thứ I Quốc hội khoá II (ngày 14/7/1960) đã thông qua Luật tổ chức Toà án nhân dân. Đây là một Luật tổ chức Toà án đầu tiên của Nhà nước ta qui định tất cả các hoạt động của Toà án đều phải tuân theo pháp luật. Đồng thời có những thay đổi quan trọng như: Toà án không còn trực thuộc Hội đồng Chính phủ mà chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội, Hôị đồng nhân dân. Hệ thống Toà án được hình thành từ Trung ương đến địa phương. Toà án hoạt động theo nguyên tắc: Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; Toà án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc xét xử của Toà án có Hội thẩm nhân dân tham gia và quyết định theo đa số. Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 còn tăng thẩm quyền cho Toà án nhân dân cấp huyện: Sơ thẩm những vụ án dân sự, sơ thẩm những vụ án hình sự có thể phạt từ hai năm tù trở xuống.
Sau khi hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, đất nước thống nhất tại kỳ họp thứ VII Quốc hội khoá VI đã thông qua bản Hiến pháp mới - Hiến pháp 1980. Trên cơ sở đó Luật tổ chức Toà án nhân dân mới cũng được Quốc hội thông qua ngày 03 tháng 7 năm 1981 và được sửa đổi bổ sung ngày 22/ 12/ 1988 đã tiếp tục nâng cao vị trí, vai trò của Toà án trong hệ thống các cơ quan tư pháp. Cơ cấu tổ chức của Tòa án đã được thành lập các Toà án chuyên trách như Toà hình sự, Tòa dân sự (ở Toà án nhân dân Tối cao và Toà án nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương). Đồng thời Toà án nhân dân cấp huyện đã được mở rộng thẩm quyền về hình sự đối với những vụ án có mức phạt tù từ bảy năm trở xuống.
Tiếp đến Hiến pháp 1992 ra đời và trên cơ sở đó bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân đã mở rộng thẩm quyền của Toà án và thành lập thêm các Tòa chuyên trách khác nằm trong hệ thống Toà án nhân dân như: Toà Kinh tế, Toà Lao động, Toà Hành chính (ở Toà án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân Tỉnh, Thành phố Trực thuộc Trung ương). Cùng với sự việc thành lập các Toà án chuyên trách khác thì chế độ bổ nhiệm Thẩm phán của Chủ tịch nước đã thay thế cho chế độ bầu cử Thẩm phán trước đây. Trên cơ sở Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi bổ sung năm 200, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá X đã thông qua Luật Tổ chức Tòa án ngày 02/04/2002. Điều 17 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 quy định: "Toà án nhân dân Tối cao quan lý các Toà án địa phương về mặt tổ chức có sự phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân địa phương",2 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002- NXB - Trng 13; 29
. Điều 40 Luật tổ chức Tòa án quy định: "Thẩm phán các Toà án nhân dân địa phương, Toà án Quân sự khu vực do Chánh án Toà án nhân dân Tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán"
.
Điều này đã làm cho công tác quản lý và công tác xét xử của Toà án được đảm bảo hiệu quả hơn và thống nhất hơn.
Đồng thời tại Điều 170-Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định: Việc tăng thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án Quân sự khu vực được xét xử các vụ án hình sự mà khung hình phạt tù từ 15 năm tù trở xuống. Đây là chủ trương về cải cách, tổ chức và đổi mới hoạt động các cơ quan Tư pháp đã được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII, Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII; Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX và Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị "về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới".
Đặc biệt là Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã ghi rõ: "Trong tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức hoạt dộng của Toà án nhan dân". Đây là quan điểm đúng đắn của Đảng ta vì trong bất kỳ Nhà nước pháp quyền đích thực nào quyền Tư pháp mà hiện diện là Toà án cũng được coi và cần phải được coi là "Trọng tâm" và là hệ thống cấu thành quan trọng nhất của Bộ máy quyền lực Nhà nước, là "linh hồn" và "Thanh lá chắn thép" trong sự nghiệp cao cả của việc bảo vệ một cách vững chắc và hữu hiện của sự công bằng xã hội, các quyền và tự do của con người cũng như các lợi ích của xã hội và của Nhà nước để góp phần khẳng định các nguyên tắc được thừa nhận chung của Nhà nước pháp quyền với tính chất là những giá trị xã hội cao quý nhất của nền văn minh nhân loại.
Tóm tại: Toà án là khâu trọng yếu, cơ bản trong hệ thống các cơ quan Tư pháp và là một bộ phận không thể thiếu được của Bộ máy Nhà nước.
Chính vì vậy ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta (Hiến pháp 1946) đã quy định hệ thống Toà án bên cạnh hai hệ thống cơ quan Nhà nước: Cơ quan đại diện (gồm Nghị viện, Hội đồng nhân dân) và cơ quan chấp hành (Chính phủ, Uỷ ban hành chính).Song xét về mặt vị trí, vai trò so với cơ quan hành pháp thì khi thực hiện quyền lực của mình, Tòa án không thể tự mình thay đổi hoặc bãi bỏ các phán quyết của mình khi giải quyết một vụ án, mà nó phụ thuộc vào Toà án cấp trên theo trình tự thủ tục mà Pháp luật tố tụng qui định. Nó cũng khác với cơ quan lập pháp ở chỗ Toà án không phải ban hành ra pháp luật mà chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước là Quốc hội và Hội đông nhân dân.
Với tư cách là một cơ quan bảo vệ pháp luật, hoạt động xét xử của Toà án được thực hiện thông qua việc áp dụng pháp lụât và các văn bản dưới luật để giải quyết các tranh chấp xẩy ra trong đời sống xã hội buộc mọi người phải tuân theo. Điều 12 luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 quy định: " Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi người tôn trọng.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành" Luật tổ chức TAND năm 2002 - NXB Chính trị Quốc gia - tr.11
.
Chính vì vậy, Toà án có vị trí trung tâm là "Cầu nối" giữa pháp luật của Nhà nước với đời sống xã hội, làm cho pháp luật được thực thi. Bằng kết quả hoạt động xét xử, Toà án đã góp phần quan trọng phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,bảo vệ chế độ củng cố chính quyền nhân dân. Thực hiện dân chủ và công bằng xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Toà án:
Điều 127 Hiến pháp 1992 quy định: "Toà án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của các nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam" Hiến pháp năm 1992 - NXB Chính trị Quốc gia Hà nội năm 2004 - tr.40
. Như vậy chỉ có Toà án mới có quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, hành chính và lao động. Ngoài Toà án ra không có một cơ quan nhà nước nào có chức năng xét xử. Toà án nhân dân thực hiện chức năng xét xử nhân danh Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Chính bằng hoạt động xét xử Toà án đã góp phần giáo dục công dân trung thành với tổ quốc, tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của nhân dân.
Khi thực hiện chức năng xét xử, Toà án phải căn cứ vào các quy định của pháp luật, cả pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng. Toà án thực hiện chức năng xét xử của mình bằng việc ra bản án, quyết định. Các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành.
Điều 72 Hiến pháp 1992 và điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: "Không ai bị coi là có tội và chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật" Bộ luật tố tụng hình sự - NXB Chính trị Quốc gia Hà nội năm 2006 - tr.12
.
Hoạt động xét xử của Toà án có một vai trò và ý nghĩa to lớn trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Toà án nhân danh nhà nước giải quyết đến cận cùng mọi tranh chấp trong xã hội . Bản án, quyết định của Toà án là quyết định cuối cùng, thay thế tất cả các quyết định giải quyết của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội khác. Chính vì vậy thông qua hoạt động xét xử của Toà án mà kỷ cương phép nước được giữ vững, quyền và lợi ích hợp của công dân được đảm bảo.
Điều 126 Hiến pháp 1992 qui định: "Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính năng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của nhân dân" Hiến pháp 1992
. Đây cũng là các nhiệm vụ chính của Toà án nhân dân trong thực hiện chức năng của mình. Là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng, Toà án phải đảm bảo cho mọi hoạt động tố tụng của mình được tiến hành theo đúng qui định của pháp luật tố tụng, luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 cũng như các qui định của Hiến pháp về chức năng, nhiệm vụ của Toà án nhân dân trung thành với tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật,tôn trọng những nguyên tắc xử sự trong cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng chống tội phạm. Ngoài ra Toà án còn phối hợp với các cơ quan nhà nước như: Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Tổ chức xã hội.... Tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân thông qua các phiên toà xét xử, nhất là các phiên toà xét xử lưu động tại cơ sở địa phương nơi xẩy ra tội phạm cũng như các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình… đồng thời kết hợp với các cơ quan trong khối nội chính thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước, có nhiều biện pháp hữu hiệu phòng ngừa tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Ngoài chức năng xét xử ra, theo qui định của Pháp luật nước ta, trong quá trình giải quyết các vụ án về dân sự, kinh tế, hành chính và lao động thì Toà án còn có một chức năng nữa đó là "Người trung gian" tham gia vào việc hoà giải giữa các bên đương sự với nhau trước khi mở phiên toà, vì hoà giải là nguyên tắc bắt buộc đối với Toà án (Trừ một số trường hợp luật qui định không phải hòa giải). Trong quá trình hoà giải giữa các bên đương sự với nhau ngoài vai trò là người trung gian phân tích, hướng dẫn, giải thích pháp luật cho các bên đương sự hiểu được việc đúng sai của mình mà còn có ý nghĩa hết sức quan trọng được thực hiện nhằm mục đích phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng dân cư, nâng cao kết quả giải quyết những tranh chấp trong nhân dân. Đồng thời làm tốt hoà giải sẽ hạn chế những tốn kém về tiền bạc, thời gian của Nhà nước, công sức của cán bộ Nhà nước cũng như của công dân, hạn chế được khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp.
2. Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân.
Toà án là cơ quan trong bộ máy Nhà nước thuộc hệ thống các cơ quan Tư pháp, cho nên hoạt động của Toà án cũng phải tuân thủ những nguyên tắc hoạt động chung của bộ máy Nhà nước như: Nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc Pháp chế XHCN…
Tuy nhiên với chức năng của mình là cơ quan xét xử, nên nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Toà án mang tính chất đặc thù riêng và được quy định ngay từ trong Hiến pháp 1946.
Hiến pháp năm 1992 cũng như Luật tổ chức TAND năm 2002 đều quy định những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân như sau:
Một là : "Việc xét xử của Toà án nhân dân có hội thẩm nhân dân, của Toà án Quân sự có cơ hội thẩm quân nhân tham gia theo qui định của pháp luật. Khi xét xử, Hội Thẩm ngang quyền với tThẩm phán" (Điều 129 Hiến pháp 1992). (Điều 4 - Luật tổ chức Toà án nhân dân 2002),
Thực tiễn công tác xét xử của Toà án đã chứng minh rằng: Sự tham gia của Hội thẩm vào công việc xét xử của Toà án là rất cần thiết, giúp cho Toà án xét xử công minh, chính xác, khách quan và phát huy tác dụng giáo dục của phiên toà. Nguyên tắc này còn khẳng định vị trí, vai trò của Hội thẩm trong việc xét xử sơ thẩm bất kỳ một vụ án nào thuộc thẩm quyền của Toà án đều phải có hội thẩm nhân dân tham gia. Nếu không có hội thẩm nhân dân thì phiên toà không thể tiến hành xét xử được. Tại điều 185 - Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định : "Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một thẩm phán và hai Hội Thẩm. Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội Thẩm.
Đối với vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và ba Hội Thẩm...".
Hai là: " Khi xét xử, Thẩm phán và Hội Thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" (Điều 130 Hiến pháp 1992); (Điều 5 Luật tổ chức Toà án nhân dân 2002).
Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong tổ chức hoạt động của Toà án bắt nguồn từ nguyên tắc pháp chế XHCN, bảo đảm sự tuân thủ của pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm cũng như bảo đảm cho việc xét xử được khách quan, toàn diện đúng pháp luật, không một cơ quan tổ chức hoặc cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Giữa Thẩm phán và Hội thẩm cũng không có sự rằng buộc lẫn nhau trong quá trình giải quyết các vấn đề của vụ án. Khi xét xử Hội thẩm và Thẩm phán có quyền ngang nhau trong việc giải quyết cả các vấn đề của vụ án. Tuy nhiên "Độc lập" trong quá trình xét xử của Toà án không có nghĩa là thoát ly sự lãnh đạo của Đảng, vì Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, không những Đảng lãnh đạo đường lối xét xử của Toà án mà còn kiểm tra, giám sát hoạt động của Toà án thông qua các tổ chức Đảng và đoàn thể quần chúng, đồng thời đấu tranh chống mọi sự can thiệp trái phép vào hoạt động xét xử của Toà án.
Ba là : " Toà án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định. Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số".
Việc Toà án xét xử công khai, một mặt đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát đối với hoạt động xét xử của Toà án; Mặt khác phát huy được tác dụng giáo dục nâng cao hiểu biết pháp luật của công chúng thông qua phiên toà. Đồng thời việc xét xử công khai của Toà án còn nhằm mục đích tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đối với nhân dân nhằm phòng ngừa và chống tội phạm cũng như các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số là sự thể hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân.
Bốn là : "Quyền bào chữa của bị cáo được đảm bảo. Bị cáo có thể tự bào chữa, hoặc nhờ người bào chữa cho mình...". (Điều 132 - Hiến pháp 1992).
Nguyên tắc này là thể hiện tính dân chủ và nhân đạo Xã hội chủ nghĩa của pháp luật nước ta. Điều 11- Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 qui định: "Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này" Bộ luật Tố tụng hình sự - năm 2003 NXb Chính trị Quốc gia Hà nội - năm 2006 - Trang 12.
.
Năm là : "Toà án nhân dân bảo đảm công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Toà án". Nguyên tắc này bảo đảm quyền bình đẳng cho mọi công dân trước pháp luật, không phân biệt thành phần dân tộc, khi tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trong trường hợp này cần phải có phiên dịch.
Trên đây là những nguyên tắc Hiến định quan trọng nhất đối với hoạt động xét xử của Toà án. Ngoài ra còn có nguyên tắc giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với hoạt động xét xử của Toà án nhân dân. Điều 135 Hiến pháp 1992 quy định: "Chánh án TANDTC chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; Trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Chánh án Toà án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Qui định này cũng là cơ sở nhằm bảo đảm cho việc xét xử của Toà án một cách chính xác và đúng theo quy định của Pháp luật.
3. Thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Toà án cấp huyện).
3.1: Về án hình sự:
Toà án nhân cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng:
Điều 170 - Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 qui định: Toà án nhân dân cấp huyện và Toà án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiểm trọng, trừ những tội phạm sau đây:
a. Các tội xâm phạm an ninh quốc gia.
b. Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh:
c. Các tội qui định tại các điều 93, 95
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Toa an nhan dan.doc