Hạch toán khoản đầu tư vào công ty liên kết theo phương pháp
vốn chủ sở hữu. Nghĩa là khoản đầu tưđược ghi nhận ban đầu theo giá gốc,
sau đó, giá trị ghi sổ của khoản đầu tư được điều chỉnh tăng hoặc giảm tương ứng
với phần sở hữu của NXB Giáo dục trong lãi hoặc lỗ củacông ty liên kết. Khoản
được phân chia từ công ty liên kết phải hạch toán giảm giá trị ghi sổ của khoản
đầu tư.
Khoản thưởng thanh toán nhanh cho khách hàng là điều khuyến khích, tuy
nhiên NXB Giáo dục cần cân nhắc xem quy định này có nên áp dụng cho các
khách hàng là công ty con của mình hay không vì thực chất tất cả đều trong cùng
một tập đoàn, thu nhập của đơn vị này sẽ lại là chi phí của đơn vị kia, xét trong
tổng thể cả tập đoàn thì khoản thưởng nàylà vô nghĩa, vừa không phải là động
cơ để thu hồi công nợ vừa phải theo dõi, loại trừ khi tiến hành lập báo cáo tài
chính hợp nhất.
Cần quy định lại phương pháp lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ hợp nhất
để có thể loại trừ được các giao dịch nội bộ. Căn cứ để lập báo cáo lưu chuyển
tiền tệ là bảng cân đối kế toán của khối công ty mẹ (đối với báo cáo lưu chuyển
tiền tệ của khối công ty mẹ) và bảng cân đối kế toán hợp nhất (đối với báo cáo
lưu chuyển tiền tệ hợp nhất). Không cộng dồn các báo cáo lưu chuyển tiền tệ
52
độc lập vì các báo cáo này có tồn tại những nghiệp vụ phát sinh trong nội bộ tập
đoàn.
Đối với NXB Giáo dục, nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh
hàng năm là rất lớn. Tuy nhiên, tự bản thân NXB Giáo dục đã tạo ra cho
chính mình nhiều khó khăn xoay quanh vần đề vay và bảo lãnh vay. Theo
quy chế về vay và cho vay đối với các tổ chức tín dụng là tiền vay phải
được chuyển trực tiếp đến đối tượng mà ngườiđứng ra vay có nhu cầu vay để
trả, không được chuyển qua trung gian. Như vậy, hiện nay, NXB Giáo dục
đã vi phạm quy chế này vì khi các đơn vị hạch toán phụ thuộc có nhu cầu vay
vốn thì vẫn phải qua Nhà xuất bản Giáo dục tại Hà Nội vay và sau đó khoản
tiền
vay này mới chuyển về cho từng đơn vị, rồi từng đơn vị mới thanh toán
cho nhà cung cấp. Do vậy, NXB Giáo dụccần đứng ra bảo lãnh cho các đơn vị
tự chủ động vay vốn tại các tổ chức tín dụng, tránh việc tập trung 1 nơi
vừa vi phạm quy chếvừa tăng chi phí do phải trả 2 lần chi phí chuyển tiền
cho cùng 1 món tiền. Việc bảo lãnh có thể dựa vào số dư tài khoản
33611 – Phải trả về vốn kinh doanh cho công ty mẹ. Đồng thời việc vay vốn
tại từng đơn vị cũng sẽ làm giảm chi phí lãi vay tại NXB Giáo dục Hà Nội,
và phân bổ đều dựa trên tổng số tiềnvay của từng đơn vị tránh tình trạng
như hiện nay, do việc tập trung vay vốn tại 1 nơi nên việc hạch toán
chi phí lãi vay cũng được tập trung tạimột nơi duy nhất, trong khi đối tượng
sử dụng số tiền vay lại là cả 4 đơn vị hạch toán phụ thuộc.
64 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1017 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc soạn thảo báo cáo tài chính hợp nhất theo mô hình công ty mẹ – công ty con, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á trình hoạt động.
_ Báo cáo tài chính hợp nhất đã cung cấp được những thông tin hữu ích
quan trọng thông qua việc thể hiện tình hình chung về các mặt, các lĩnh
vực hoạt động của tất cả các đơn vị trong cùng tập đoàn, để từ đó đưa ra
các quyết định kinh tế, các chính sách đúng đắn về tình hình tài chính,
giúp đơn vị có những thành tựu khả quan.
III.2 – Nhược điểm của báo cáo tài chính hợp nhất của NXB Giáo dục
Việc lập báo cáo tài chính hợp nhất đối với NXB Giáo dục hiện còn quá
mới mẻ, do vậy, bên cạnh những ưu điểm đã được đề cập, trong quá trình thực
hiện không thể tránh khỏi những nhược điểm, thiếu sót. Trong số đó, có một số
điểm có thể khắc phục ngay nhưng cũng có những tồn tại cần phải có sự đầu tư,
nghiên cứu mới có thể đi đến sự hoàn thiện.
III.2.a –Nhược điểm do kỹ thuật xử lý nghiệp vụ
_ Một số nghiệp vụ kinh tế phát sinh chưa được hạch toán hợp lý đã phần
nào làm suy giảm độ tin cậy của một số thông tin trình bày trên báo cáo
tài chính của từng khối và của báo cáo tài chính hợp nhất công ty mẹ.
_ Một số giao dịch nội bộ chưa được phản ánh chính xác, như việc sử dụng
tài khoản 338 – Phải trả, phải nộp khác khi nhận tiền ký quỹ của các đơn
vị trong nội bộ, mà không thông qua tài khoản công nợ nội bộ theo quy
định. Điều này dẫn đến thiếu sót trong quá trình loại trừ, do vậy việc tồn
tại một số chỉ tiêu trùng lắp trên báo cáo tài chính là không tránh khỏi.
_ Báo cáo tài chính hợp nhất chưa phản ánh được khoản đầu tư vào công ty
liên kết theo phương pháp vốn chủ sở hữu.
_ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ hợp nhất được lập chưa căn cứ vào Bảng cân
đối kế toán hợp nhất. Do đó, vẫn tồn tại sự trùng lặp các giao dịch nội bộ
48
như các khoản công nợ phải thu, phải trả………mà không được loại trừ dẫn
đến một số chỉ tiêu đưa ra thiếu chính xác, tin cậy.
_ Các mẫu biểu cũng như hệ thống tài khoản kế toán, phương pháp hạch
toán áp dụng thống nhất chưa được bổ sung, sửa đổi theo thông tư
23/2005/QĐ – BTC ngày 30/03/2005 của Bộ Tài chính.
III.2.b. –Nhược điểm do cơ chế tài chính
_ Do việc tập trung vào sản phẩm Sách giáo khoa – một mặt hàng độc
quyền – nên các mặt hàng khác của NXB Giáo dục như băng hình, đĩa
tiếng, sách tham khảo khác vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Từ đó dẫn
đến sự chệnh lệch khá lớn về tình hình tài chính giữa các đơn vị trong nội
bộ. Trong khi đó, nội dung của báo cáo tài chính hợp nhất chỉ phản ánh sự
lớn mạnh về tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của cả tập đoàn
nhưng chưa thể hiện được sự so sánh giữa các đơn vị, dẫn tới tình trạng
cào bằng, chưa có tác dụng khuyến khích, động viên các đơn vị nỗ lực
phấn đấu.
_ Việc bù trừ công nợ là cần thiết tuy nhiên điều này tạo ra tâm lý chủ
quan, các đơn vị trong nội bộ không thanh toán với nhau, dẫn đến tình
trạng nợ nần dây dưa năm này qua năm khác.
III.2.c –Nhược điểm do một số điều kiện khác
_ Việc lập báo cáo tài chính hợp nhất tuy không quá phức tạp nhưng đòi hỏi
phải trải qua nhiều công đoạn đan chéo nhau, trong khi chưa phát huy
được sự hỗ trợ của phần mềm kế toán, việc theo dõi, thực hiện vẫn còn
thủ công, do vậy quá trình thao tác còn mất nhiều thời gian và công sức.
_ Việc quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp ở khối các đơn vị hạch toán
phụ thuộc thực sự khó khăn vì 4 đơn vị lại ở 3 nơi (Hà Nội, Đà Nẵng và
Tp. Hồ Chí Minh), số liệu, chứng từ, sổ sách phân tán nên việc thực hiện
gặp nhiều trở ngại, mất nhiều thời gian.
_ Trình độ đội ngũ kế toán viên cũng như tiến độ lập báo cáo của các đơn
vị không đồng đều. Điều này cũng đã gây trở ngại không nhỏ trong quá
trình hợp nhất báo cáo tài chính của cả tập đoàn.
49
CHƯƠNG BA
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VIỆC SOẠN THẢO
BÁO CÁO TÀI CHÍNH HỢP NHẤT
THEO MÔ HÌNH CÔNG TY MẸ – CÔNG TY CON
I – MỤC TIÊU
Thực tế đã chứng minh rằng việc thành lập các Tổng công ty trước
đây không hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện mà do mục tiêu tách vai
trò chủ quản doanh nghiệp Nhà nước của các Sở ngành, quận huyện. Mối
quan hệ giữa Tổng công ty với các doanh nghiệp thành viên thực chất chỉ
là mối quan hệ gượng ép, thể hiện sự liên hệ về mặt hành chính, hoàn toàn
không có sự ràng buộc về trách nhiệm và quyền lợi. Cơ chế tài chính giữa
Tổng công ty Nhà nước với các đơn vị thành viên là cơ chế đóng, trong đó,
các mặt hoạt động của doanh nghiệp thành viên đều phải thông qua Tổng công
ty, hoàn toàn không được tự chủ động về chính sách kinh doanh, về chiến lược
đầu tư của mình.
Trong khi đó, trên thế giới, nhiều doanh nghiệp đơn lẻ đã tự chủ động
liên kết lại với nhau, khai thác thế mạnh của nhau cũng như lợi dụng sự phát
triển của nền kinh tế thị trường để hình thành những tập đoàn kinh tế mạnh, có
quy mô lớn, đa dạng về ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh, phạm vi hoạt động
rộng. Mối liên hệ giữa các đơn vị trong tập đoàn chủ yếu là mối quan hệ về tài
chính, thông qua việc đầu tư, góp vốn và chi phối về mặt tài chính. Nhờ vậy,
mối liên hệ này, một cách khách quan, đã gắn lợi ích kinh tế và quyền lợi giữa
tất cả các đơn vị trong cùng tập đoàn.
Chính vì vậy, trong chiến lược chuyển đổi, tổ chức lại các Tổng công
ty, doanh nghiệp Nhà nước, mô hình “tập đoàn hoá” mà cụ thể là mô
hình công ty mẹ – công ty con đã được xây dựng và áp dụng. Với mô hình này,
các tập đoàn sẽ bành trướng được thế lực của mình không những trong
phạm vi quốc gia mà còn cả trên quốc tế. Trong xu thế hội nhập trên thế giới
như hiện nay, đây chính là mô hình mà chúng ta cần đạt tới. Với mô hình
mới này, song song với việc xây dựng phương phức hoạt động sao cho không
đi chệch hướng với sự phát triển xã hội là việc thiết lập cơ chế tài
chính thông qua các quy định, chế tài trong lĩnh vực tài chính kế toán nhằm
kiểm soát có hiệu quả, khẳng định tính trung thực, chính xác của tình hình hoạt
50
động sản xuất kinh doanh và nâng cao độ tin cậy đối với bên ngoài. Một
trong những biện pháp để giải quyết điều đó là hoàn thiện hơn nữa hệ thống báo
cáo tài chính, mà cụ thể ở đây là báo cáo tài chính hợp nhất là việc làm
có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vấn đề là phải xây dựng cho được một báo cáo
tài chính hợp nhất vừa phù hợp với đặc điểm hoạt động của tập đoàn, vừa
phục vụ thiết thực cho việc phân tích và đề ra quyết định kinh tế của
người sử dụng thông tin nhưng vẫn phải dựa trên cơ sở luật pháp, chế độ kế
toán Việt nam và thông lệ kế toán quốc tế. Với mục tiêu như vậy, chương
này nêu ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc soạn thảo báo cáo tài chính
hợp nhất theo mô hình công ty mẹ – công ty con.
II – MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VIỆC SOẠN THẢO
BÁO CÁO TÀI CHÍNH HỢP NHẤT THEO MÔ HÌNH CÔNG TY MẸ
– CÔNG TY CON
II.1 – Một số giải pháp trước mắt nhằm khắc phục những tồn tại của báo cáo
tài chính hợp nhất tại NXB Giáo dục
Báo cáo tài chính hợp nhất của NXB Giáo dục được xây dựng
dựa trên hệ thống và những nguyên tắc cơ bản, có sự tham khảo các chuẩn mực,
quy định, nghị định, cũng như các thông tư hướng dẫn hiện hành. Do vậy, báo
cáo tài chính hợp nhất của đơn vị đã thể hiện và phản ánh khá chính xác tình
hình tài chính sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên vì một số lý do khách quan và do
đặc thù riêng của đơn vị nên báo cáo tài chính hợp nhất chắc chắn không thể
không thiếu sót. Một số giải pháp sau đây chỉ nhằm khắc phục phần nào
những thiếu sót đó.
Một trong những phương pháp để đảm bảo số dư công nợ giữa các
đơn vị khớp nhau là sử dụng tài khoản trung gian 138, 338. Điều này đã tạo
thêm gánh nặng trong việc quản lý, theo dõi 2 tài khoản này, mặc dù số liệu
đưa vào thường không lớn lắm. Tuy nhiên, thực chất có một số trường hợp
không thể xử lý được ví dụ: mất mát, thất lạc trong quá trình vận chuyển
(các thủ tục bồi thường về phía bưu điện rất phức tạp) hay chênh lệch do làm
tròn số….. Chính vì vậy, khi có phát sinh chênh lệch nhỏ và gần như không thể
thu hồi được hay chi phí cho việc thu hồi quá lớn thì đề nghị đưa thẳng vào chi
phí.
Việc đóng và nhận tiền ký quỹ giữa các công ty in và các đơn vị
hạch toán phụ thuộc không sử dụng tài khoản công nợ mà sử dụng tài khoản
51
144 – Ký cược, ký quỹ ngắn hạn (đóng tiền ký quỹ) và 338 – Phải trả, phải nộp
khác (nhận tiền ký quỹ). Do vậy, khoản tiền ký quỹ này không được loại trừ,
chính vì vậy đã phần nào giảm tính chính xác của số liệu thể hiện trên báo cáo
tài chính hợp nhất. Do đó, để giải quyết vấn đề này cần chú ý:
_ Theo dõi, xác định và loại trừ khoản ký quỹ này khi lập báo cáo
tài chính hợp nhất tương tự như loại trừ công nợ nội bộ giữa các đơn vị
có phát sinh.
_ Hoặc là bỏ quy định ký quỹ đối với các công ty trong cùng tập đoàn.
Vì thực chất, khoản ký quỹ này chủ yếu chỉ để đảm bảo năng lực
và ràng buộc việc thực hiện hợp đồng giữa các đơn vị đối tác bên
ngoài với nhau. Còn đối với các công ty trong cùng tập đoàn, năng lực
và khả năng thực hiện hợp đồng đã thực sự được đảm bảo.
Khoản ký quỹ đối với các đơn vị này chỉ còn là hình thức và không
cần thiết.
Hạch toán khoản đầu tư vào công ty liên kết theo phương pháp
vốn chủ sở hữu. Nghĩa là khoản đầu tư được ghi nhận ban đầu theo giá gốc,
sau đó, giá trị ghi sổ của khoản đầu tư được điều chỉnh tăng hoặc giảm tương ứng
với phần sở hữu của NXB Giáo dục trong lãi hoặc lỗ của công ty liên kết. Khoản
được phân chia từ công ty liên kết phải hạch toán giảm giá trị ghi sổ của khoản
đầu tư.
Khoản thưởng thanh toán nhanh cho khách hàng là điều khuyến khích, tuy
nhiên NXB Giáo dục cần cân nhắc xem quy định này có nên áp dụng cho các
khách hàng là công ty con của mình hay không vì thực chất tất cả đều trong cùng
một tập đoàn, thu nhập của đơn vị này sẽ lại là chi phí của đơn vị kia, xét trong
tổng thể cả tập đoàn thì khoản thưởng này là vô nghĩa, vừa không phải là động
cơ để thu hồi công nợ vừa phải theo dõi, loại trừ khi tiến hành lập báo cáo tài
chính hợp nhất.
Cần quy định lại phương pháp lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ hợp nhất
để có thể loại trừ được các giao dịch nội bộ. Căn cứ để lập báo cáo lưu chuyển
tiền tệ là bảng cân đối kế toán của khối công ty mẹ (đối với báo cáo lưu chuyển
tiền tệ của khối công ty mẹ) và bảng cân đối kế toán hợp nhất (đối với báo cáo
lưu chuyển tiền tệ hợp nhất). Không cộng dồn các báo cáo lưu chuyển tiền tệ
52
độc lập vì các báo cáo này có tồn tại những nghiệp vụ phát sinh trong nội bộ tập
đoàn.
Đối với NXB Giáo dục, nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh
hàng năm là rất lớn. Tuy nhiên, tự bản thân NXB Giáo dục đã tạo ra cho
chính mình nhiều khó khăn xoay quanh vần đề vay và bảo lãnh vay. Theo
quy chế về vay và cho vay đối với các tổ chức tín dụng là tiền vay phải
được chuyển trực tiếp đến đối tượng mà người đứng ra vay có nhu cầu vay để
trả, không được chuyển qua trung gian. Như vậy, hiện nay, NXB Giáo dục
đã vi phạm quy chế này vì khi các đơn vị hạch toán phụ thuộc có nhu cầu vay
vốn thì vẫn phải qua Nhà xuất bản Giáo dục tại Hà Nội vay và sau đó khoản
tiền
vay này mới chuyển về cho từng đơn vị, rồi từng đơn vị mới thanh toán
cho nhà cung cấp. Do vậy, NXB Giáo dục cần đứng ra bảo lãnh cho các đơn vị
tự chủ động vay vốn tại các tổ chức tín dụng, tránh việc tập trung 1 nơi
vừa vi phạm quy chế vừa tăng chi phí do phải trả 2 lần chi phí chuyển tiền
cho cùng 1 món tiền. Việc bảo lãnh có thể dựa vào số dư tài khoản
33611 – Phải trả về vốn kinh doanh cho công ty mẹ. Đồng thời việc vay vốn
tại từng đơn vị cũng sẽ làm giảm chi phí lãi vay tại NXB Giáo dục Hà Nội,
và phân bổ đều dựa trên tổng số tiền vay của từng đơn vị tránh tình trạng
như hiện nay, do việc tập trung vay vốn tại 1 nơi nên việc hạch toán
chi phí lãi vay cũng được tập trung tại một nơi duy nhất, trong khi đối tượng
sử dụng số tiền vay lại là cả 4 đơn vị hạch toán phụ thuộc.
Việc tập trung hạch toán cổ tức tại một nơi duy nhất thuận lợi cho việc
theo dõi tình hình kết quả đầu tư tuy nhiên vẫn dẫn đến không phù hợp khi việc
đầu tư lại được từng đơn vị hạch toán. Do vậy, có thể giải quyết theo 1 trong 2
cách:
_ Thứ nhất: các đơn vị hạch toán khoản đầu tư thì sẽ theo dõi và hạch
toán luôn cổ tức, lợi nhuận được chia, và có trách nhiệm báo cáo về
văn phòng công ty mẹ để có cơ sở tiến hành lập báo cáo tài chính hợp
nhất.
_ Thứ hai: khoản đầu tư cũng như lợi nhuận, cổ tức được chia tập trung
về 1 nơi duy nhất để thuận tiện cho việc theo dõi, quản lý.
53
Đối với khối các công ty con, việc không xác định được nguồn
gốc của hàng tồn kho để loại trừ lãi lỗ nội bộ chưa thực sự phát sinh là
vấn đề cần giải quyết. Mặc dù có những khó khăn khi thực hiện, nhưng để đảm
bảo tính chính xác cũng như nâng cao độ tin cậy của báo cáo tài chính hợp nhất,
NXB Giáo dục cần có những biện pháp để giải quyết tồn tại này.
Có thể quy định thêm một phương pháp nữa song song với phương pháp bình
quân gia quyền khi tính giá xuất kho. Phương pháp bổ sung này chỉ nhằm mục
đích xác định số hàng hóa, vật tư còn tồn kho cuối kỳ. Dựa vào tình hình
và đặc thù của NXB Giáo dục có thể sử dụng phương pháp nhập trước xuất
trước. Phương pháp này chỉ được thực hiện để xác định lãi (lỗ) nội bộ chưa
thực sự phát sinh nhằm phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính hợp nhất
chứ không ảnh hưởng đến phương pháp tính giá hàng xuất kho đơn vị vẫn sử
dụng.
Hệ thống tài khoản NXB Giáo dục áp dụng hiện nay được xây dựng
khi chuẩn mực về báo cáo tài chính hợp nhất và thông tư 23/2005/TT – BTC
chưa ban hành, do vậy không thể tránh khỏi những bất cập và khó khăn khi
thực hiện. Chính vì vậy, NXB Giáo dục cần sớm sửa đổi, bổ sung hệ thống
tài khoản theo các quy định và chuẩn mực mới, thống nhất để trình
Bộ Tài chính ra quyết định phê duyệt áp dụng cho toàn NXB Giáo dục, nhằm
tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho đội ngũ kế toán trong quá trình thực hiện
nghiệp vụ.
NXB Giáo dục cần sớm tham khảo về quy chế báo cáo thống kê để tránh
trùng lắp việc báo cáo không cần thiết. Vì hiện nay, các đơn vị thuộc khối công
ty mẹ vẫn phải nộp báo cáo tài chính cho Cục Thống kê địa phương, trong khi
báo cáo tài chính của khối công ty mẹ (đã bao gồm tình hình tài chính của 4 đơn
vị trong khối) lại vẫn được nộp lên Tổng cục Thống kê. Như vậy, số liệu của
riêng NXB Giáo dục sẽ bị trùng lặp, tạo ra sự thiếu chính xác trong thống kê của
cả nước.
NXB Giáo dục cần sửa đổi một số nội dung cho phù hợp với quy định của
thông tư 23/2005/TT – BTC ngày 30/03/2005 của Bộ Tài chính. Cụ thể:
_ Sử dụng tài khoản 223 – Đầu tư vào công ty liên kết để hạch toán
khoản đầu tư vào công ty liên kết. Với giá trị khoản đầu tư cổ phiếu
54
trước kia là khoản đầu tư vào công ty liên kết đã hạch toán vào tài
khoản 2211 – Chi tiết cổ phiếu thường, kế toán tiến hành điều chỉnh:
Nợ 223 – Đầu tư vào công ty liên kết
Có 2211 – Đầu tư chứng khoán dài hạn –cổ phiếu
_ Đổi tên tài khoản 221 - Đầu tư chứng khoán dài hạn thành Đầu tư vào
công ty con.
_ Đổi tên tài khoản 222 - Góp vốn liên doanh thành Vốn góp liên
doanh.
_ Thể hiện rõ khoản lợi nhuận (hoặc lỗ) trong công ty liên kết
(liên doanh – nếu có) thành một chỉ tiêu riêng biệt, không cộng dồn
vào lợi nhuận sau thuế của Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hợp
nhất.
_ Sửa đổi, bổ sung nội dung một số chỉ tiêu theo đúng quy định của
thông tư được đề cập.
_ Lập và mở sổ ghi nhận các bút toán điều chỉnh khi tiến hành hợp nhất
báo cáo tài chính đúng quy định.
II.2 – Một số giải pháp mang tính định hướng nhằm hoàn thiện việc soạn thảo
báo cáo tài chính hợp nhất theo mô hình công ty mẹ – công ty con
II.2.a –Những giải pháp về phạm vi hợp nhất
Theo thông tư 23/2005/TT – BTC ngày 30/03/2005 của Bộ Tài chính,
khi xác định doanh thu hợp nhất và giá vốn hợp nhất thì phải tiến hành loại trừ
hoàn toàn doanh thu nội bộ và giá vốn nội bộ. Như vậy, hai khoản mục liên quan
tới các giao dịch nội bộ này phải được loại trừ hoàn toàn bất kể hàng hóa,
sản phẩm đó đã được bán hết ra bên ngoài tập đoàn hay chưa. Tuy nhiên,
phần hướng dẫn (phần ví dụ) trong thông tư liên quan tới việc loại trừ này
thì chỉ tiến hành loại trừ phần doanh thu nội bộ và giá vốn hàng bán nội bộ
tương ứng với số hàng hóa nội bộ chưa bán ra bên ngoài. Với cách xác định này,
doanh thu hàng bán nội bộ và giá vốn hàng bán nội bộ cần được nghiên cứu để
55
xác định lại cho phù hợp với bản chất nghiệp vụ và đảm bảo tính khoa học của
kế toán.
Việc loại trừ các giao dịch nội bộ khi tiến hành lập báo cáo tài chính
hợp nhất là một việc làm cần thiết để đảm bảo loại trừ được sự trùng lặp giữa
các hoạt động của tập đoàn. Tuy nhiên, hiện nay, việc loại trừ này chưa được
thực hiện đồng bộ. Cụ thể, doanh thu nội bộ và giá vốn hàng bán nội bộ
là các chỉ tiêu cần được loại trừ, nhưng một chỉ tiêu liên quan, có ảnh hưởng
trực tiếp tới hai chỉ tiêu này là thuế thu nhập doanh nghiệp thì lại không được
loại trừ. Như vậy, đã có sự mâu thuẫn khi tiến hành lập báo cáo tài chính
hợp nhất. Bởi vì trên thực tế, sau khi đã được loại trừ, khoản mục doanh thu,
giá vốn hàng bán hợp nhất được xác định là các chỉ tiêu phản ánh tất
cả các nghiệp vụ của tập đoàn với các đối tác bên ngoài, nhưng chỉ tiêu thuế
thu nhập doanh nghiệp lại phản ánh dựa trên kết quả thu nhập của tất cả các
nghiệp vụ có phát sinh thu nhập của tập đoàn bất kể nghiệp vụ đó được
thực hiện với đối tác bên ngoài hay với các đơn vị trong cùng tập đoàn. Do vậy,
Bộ Tài chính cần nghiên cứu giải quyết vấn đề này, có thể thực hiện theo hai
hướng.
_ Một là xem khoản thuế thu nhập doanh nghiệp tương tự như
các khoản mục khác, cũng loại trừ dựa trên các giao dịch nội bộ.
Như vậy, trên báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất sẽ thể hiện
khoản thuế thu nhập doanh nghiệp mà tập đoàn phải nộp cho thu
nhập nhận được từ các giao dịch phát sinh với các đơn vị bên ngoài tập
đoàn.
_ Hai là tách riêng khoản thuế thu nhập doanh nghiệp từ các nghiệp vụ
phát sinh thu nhập của các giao dịch giữa các đơn vị trong cùng
tập đoàn thành một chỉ tiêu riêng biệt. Lúc này, trên báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh hợp nhất, phần thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ
bao gồm hai phần: phần phải nộp cho các thu nhập nhận được từ các
hoạt động với đối tác bên ngoài và phần phải nộp cho các thu nhập
nhận được từ các hoạt động nội bộ với các đơn vị trong cùng một tập
đoàn.
Việc hạch toán giữa các đơn vị trong cùng tập đoàn không phải lúc
nào cũng được thực hiện qua các tài khoản công nợ, do vậy, việc loại trừ
các giao dịch nội bộ không thể tránh khỏi thiếu sót. Điều này làm giảm độ
56
tin cậy của báo cáo tài chính hợp nhất. Chưa kể có thể xảy ra trường hợp
ghi trùng lặp, mua bán lòng vòng, kê khai doanh thu giả tạo, sử dụng tài
khoản trung gian……… để phô trương sự lớn mạnh của tập đoàn. Do vậy,
cần sớm có biện pháp kiểm soát và quy định chung cho một số hoạt
động giữa các đơn vị trong cùng tập đoàn, để từ đó, xây dựng một phương
pháp hạch toán phù hợp nhằm thuận lợi và kiểm soát được tính chính xác của số
liệu trong việc loại trừ các giao dịch nội bộ khi tiến hành lập báo cáo tài chính
hợp nhất tập đoàn.
Đối với một số doanh nghiệp, do đặc thù hoạt động của ngành
nên không thể xác định được nguồn nhập của hàng tồn kho cuối kỳ. Như vậy,
việc loại trừ các khoản lãi/lỗ nội bộ chưa thực sự phát sinh cũng bị ảnh hưởng.
Hiện nay, một số doanh nghiệp bỏ qua khoản loại trừ này, coi như hàng hóa
giao dịch nội bộ đã bán hết ra ngoài tập đoàn, lợi nhuận thu được từ việc bán
hàng là thực sự và chắc chắn. Nhưng một số doanh nghiệp lại chọn một
cách khác, đó là áp dụng một phương pháp nữa song song với phương pháp
đã chọn lựa khi tính giá xuất kho. Phương pháp bổ sung này chỉ nhằm mục
đích xác định số hàng hóa, vật tư còn tồn kho cuối kỳ. Việc lựa chọn phương
án nào để thuận lợi khi loại trừ trong báo cáo tài chính chỉ do ý muốn chủ
quan của doanh nghiệp, do vậy, không có sự thống nhất chung. Xuất phát từ thực
tế đó, Bộ Tài chính cần có văn bản hướng dẫn các doanh nghiệp lựa chọn một
phương pháp tối ưu nhất, hợp lý nhất để có sự thống nhất chung giữa các doanh
nghiệp.
II.2.b –Những giải pháp về hệ thống tài khoản, phương pháp hạch toán và xử
lý nghiệp vụ
Hoạt động kế toán cũng tương tự như các hoạt động khác chỉ có thể
phát huy tác dụng khi được xây dựng dựa trên những quy định mang tính pháp
lý, giúp người thực hiện có thể áp dụng và phản ánh một cách chính xác
tình hình phát sinh của mỗi nghiệp vụ kế toán. Tuy nhiên, điều căn
bản nhất nhưng vẫn chưa được chú ý đến đó là hệ thống tài khoản kế toán.
Hệ thống tài khoản kế toán hiện nay được xây dựng để áp dụng cho tất cả
các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế, mặc dù đã
nhiều lần được thay đổi cho phù hợp nhưng cũng không theo kịp với sự thay
đổi các chuẩn mực, thông tư mới cũng như không đáp ứng được yêu cầu của
các tập đoàn lớn, hoạt động rộng trong nhiều lĩnh vực. Do vậy, một số tập
đoàn lớn như Tổng công ty Bưu chính Viễn thông, Tổng công ty Điện lực…………
57
đã phải tự xây dựng hệ thống tài khoản cho riêng mình, còn hệ thống
do Bộ Tài chính ban hành chỉ nhằm mục đích tham khảo. Xuất phát từ
thực tế đó, Bộ Tài chính cần mở rộng quy chế, hướng dẫn và tạo điều
kiện cho các tập đoàn tự xây dựng và áp dụng cho đơn vị mình một
hệ thống tài khoản riêng nhằm thuận lợi hơn cho việc hợp nhất báo cáo tài chính
tập đoàn.
Bộ Tài chính cần có văn bản hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện
việc chuyển số liệu trên các sổ kế toán tương ứng với các tài khoản 221,
222, 228 trước kia sang các
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_giai_phap_nham_hoan_thien_viec_soan_thao_bao_cao_tai_chinh_hop_nhat_theo_mo_hinh_cong_ty_me_cong_ty_con.pdf