Luận văn Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng nông nghiệp Bình Thuận

Hoạt động Marketing của NHNo Bình Thuận còn khá mờ nhạt, chắp vá và

nặng tính phong trào. Nhiều nội dung Marketing trực tiếp liên quan đến các

nghiệp vụ NHTM chưa được triển khai một cách thường xuyên, bài bản; chất

lượng Marketing thấp, đa phần tiến hành theo đợt. Cách làm này chưa phù hợp

với đặc trưng marketing NH . Mặc khác, thị trường nông nghiệp, nông thôn về cơ

bản chỉ có NHNo chiếm lĩnh, đã tạo cho cácchi nhánh cấp 2, cấp 3 tư tưởng chủ

quan, thoả mãn, chưa coi trọng công tác Marketing để đặt nó đúng vị trí trong

hoạt động của NHTM hiện đại. Vì vậy, cần có những bước đi thích hợp theo

chiều dài lẫn chiều rộng của công tác marketing, trong đó công đoạn cần lưu ý là:

đào tạo và bố trí cán bộ, xây dựng chiếnlược Marketing và triển khai một cách

đồng bộ, phù hợp môi trường kinh doanh.

5- Cần tạo cơ chế cạnh tranh lành mạnh giữa các chi nhánh cấp 2 trực thuộc

(tạm gọi là các SBU – đơn vị kinh doanh chiến lược) nhằm nâng cao năng lực kinh

doanh, tăng cường khả năng đề kháng những vấp váp trong cơ chế thị trường.

Với cách tổ chức hiện hành, hoạt động NHNo Bình Thuận bị phân khúc bởi

địa bàn hành chính theo huyện, thị, Thành phố. Điều này phù hợp với việc tổ

chức phân khúc thị trường để các SBU có điều kiện chuyên sâu với địa bàn hoạt

động, đồng thời thuận lợi cho công tác quảntrị, điều hành. Tuy nhiên, cũng chính

cách tổ chức này đã tạo tư tưởng độc quyền, tạo cho các SBU tự mãn, giảm khả

năng tự thân vận động vươn lên trong cơ chế thị trường. Trong nhiều trường hợp,

chính từ năng lực kinh doanh yếu kém, không đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của

kinh tế thị trường đã dẫn đến mất khách hàng về tay NHTM khác, giảm thị phần

tín dụng và dịch vụ.

pdf55 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1014 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng nông nghiệp Bình Thuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ùn và dịch vụ. 41 b) Nâng cao chất lượng tín dụng và dịch vụ NHTM. Chất lượng tín dụng là sự sống còn, là mối quan tâm hàng đầu của NHTM trong mọi thời kỳ. Nâng cao chất lượng tín dụng không chỉ có tác dụng nâng cao hiệu quả tài chính trong hoạt động kinh doanh, mà còn có ý nghĩa sâu sắc về kinh tế vĩ mô. Lịch sử đã minh chứng những nguyên nhân dẫn đến biến động về giá cả, lạm phát và khũng hoảng kinh tế ở Việt nam thời kỳ trước đây có nguyên nhân từ chất lượng tín dụng kém. Tại NHNo Bình Thuận, qua phân tích ở phần trên có thể nhận thấy chất lượng tín dụng đang có chiều hướng suy giảm. Trước thực trạng này, NHNo Bình Thuận cần giải quyết một số vấn đề cốt lõi sau: (i) Nâng cao chất lượng quản trị điều hành và tác nghiệp đối với công tác tín dụng, đặc biệt chú trọng công tác thẩm định và quản lý món vay đối với đội ngũ cán bộ tín dụng. Việc đầu tiên là cần chuẩn hóa trình độ cán bộ tín dụng, thường xuyên tổ chức thi tay nghề và đánh giá năng lực thực tiển; áp dụng qui chế thưởng phạt nghiêm minh. (ii) Làm tốt công tác thông tin khách hàng nhằm ngăn ngừa rủi ro đạo đức; nâng cao chất lượng phân tích, xử lý nợ; thực hiện phân loại khách hàng một cách chính xác. (iii) Đa dạng hóa danh mục tín dụng nhằm phân tán rủi ro. (iiii) Giám sát thực hiện có kết quả tiến trình cơ cấu lại nợ theo chủ trương của NHNo VN . (iiiii) Gắn hoạt động tín dụng với quá trình qui hoạch kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Đối với hoạt động dịch vụ, đây có thể xem là lĩnh vực hoạt động còn hết sức yếu kém của NHNo Bình Thuận xuất phát từ nguyên nhân ở môi trường ngoại vi lẫn nội tại. Hoạt động dịch vụ nếu được mở rộng, càng có điều kiện nâng cao hiệu quả kinh doanh một cách tương đối an toàn, làm phong phú cơ cấu tài sản “có”, giảm bớt rủi ro, tổn thất trong hoạt động Tín dụng. Để mở rộng hoạt động dịch vụ, cung cấp ngày càng nhiều tiện ích cho khách hàng, phù hợp với hoạt động của NHTM hiện đại, NHNo Bình Thuận cần giải quyết những vấn đề cơ bản sau: (i) Có chính sách hợp lý (liên quan tín dụng, thanh toán, gửi tiền …) nhằm kích thích ở rộng thanh toán không dùng tiền mặt. Một trong những nội dung của chính sách là có mức phí dịch vụ phù hợp, kết hợp biện pháp cho vay thấu chi; sẳn sàng làm tốt công tác tư vấn khách hàng, giải quyết tín dụng và huy động tại cơ sở của khách hàng (khi cần thiết) một cách linh hoạt đối với những khách hàng truyền thống và khách hàng tiềm năng. (ii) 42 Thường xuyên đổi mới sản phẩm dịch vụ, đẩy mạnh công tác Marketing và duy trì thường xuyên; tạo những nét riêng về sản phẩm của NHNo; đổi mới phong cách, thái độ giao dịch; làm tốt công tác phân khúc thị trường; nâng cấp công nghệ thanh toán; bố trí cơ cấu nhân viên ở các phòng, ban phù hợp với năng lực xử lý công nghệ thông tin và giao tiếp ứng xử khách hàng, tương xứng với tầm vóc và diện mạo của NHTM hiện đại. (iii) Tổ chức đào tạo cán bộ, đặc biệt là các lớp Marketing chuyên sâu; thành lập bộ phận Marketing chuyên trách ở tất cả các chi nhánh. c) Chấn chỉnh và nâng cao nhận thức lẫn tác nghiệp cho vay thương mại, từng bước xóa bỏ cho vay chính sách. Hoạt động tín dụng NHNo Bình Thuận vẫn còn đan xen giữa cho vay thương mại và cho vay chính sách. Điều này đã dẫn đến sự nhập nhằng về nhận thức lẫn tác nghiệp giữa hai cơ chế cho vay này. Thực ra, chủ trương của chính phủ qui định về giới hạn các mức vốn cho vay không cần áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay là nhằm tháo gỡ vướng mắc về tài sản đảm bảo của đối tác vay vốn, nguyên tắc cho vay có hiệu quả tuyệt nhiên vẫn được tôn trọng. Trường hợp xảy ra rủi ro, chính phủ có biện pháp xử lý như khoanh nợ, xóa nợ … Trên thực tế, biện pháp trên hiện chỉ tồn tại trên giấy tờ. Mặt khác, việc cho vay giảm lãi suất các đối tượng chính sách khu vực 2, khu vực 3 hiện không còn được nhà nước cấp bù lãi suất. Đây là khó khăn không nhỏ đối với hoạt động tín dụng của NHNo Bình Thuận. Để giải quyết vấn đề trên, một mặt cần tuyệt đối tôn trọng chất lượng và hiệu quả tín dụng trong cho vay nhằm hạn chế tối đa rủi ro tín dụng, mặt khác cần xóa bỏ chế độ bao cấp lãi suất đối với cho vay khu vực 2, khu vực 3 (hiện nay thuộc đối tượng cho vay vốn của NHCSXH). Tuy nhiên, việc dừng áp dụng lãi suất ưu đãi tức thời đối với các khu vực trên sẽ dẫn đến giảm và mất thị phần ( do khách hàng vay đến 10 tr đồng sẽ chuyển sang vay vốn ở NHCSXH, hoặc một số chi nhánh cấp 2 sẽ được chuyển giao sang NHCSXH quản lý). Vì vậy theo chúng tôi, việc dừng lãi suất ưu đải nói trên cần phải có lộ trình thích hợp nhằm duy trì và mở rộng thị phần. Ngược lại, khả năng tài chính NHNo Bình Thuận sẽ suy giảm đáng kể. d) Đổi mới cơ cấu tín dụng phù hợp quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn. 43 Hiện nay dư nợ cho vay nông nghiệp, đặc biệt là hộ nông dân chiếm tỷ trọng lớn. Đây là tác nhân chủ yếu làm giảm chất lượng tín dụng và hiệu quả kinh doanh của NHNo Bình Thuận. Vì vậy, bên cạnh việc mở rộng qui mô tín dụng phù hợp qui mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế trên địa bàn, cần chú ý cải tổ cơ cấu tín dụng theo hướng tăng dần tỷ trọng dư nợ công nghiệp, dịch vụ. Trong nông nghiệp, chú ý đầu tư các dự án có chiều sâu, chú trọng ngành chăn nuôi gia súc, góp phần tạo sản phẩm hàng hóa có chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trong điều kiện hội nhập; ưu tiên vốn cho các dự án có hiệu quả; chú trọng mở rộng cho vay doanh nghiệp ngoài QD; kinh tế trang trại trong SX nông nghiệp … e) Tổ chức tốt hệ thống kiểm tra, giám sát hiệu quả sử dụng vốn vay của hộ nông dân; phối hợp địa phương xây dựng qui chế xử lý nợ tồn đọng đối với hộ vay vốn phù hợp với qui định của pháp luật và điều kiện thực tiển cho vay vốn nhỏ lẻ ở khu vực nông thôn. Do tính chất vay vốn manh mún và nhỏ lẻ, việc kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay của hộ SX (đại bộ phận là hộ nông dân) là công việc hết sức phức tạp và tốn kém nhiều chi phí. Thực hiện chương trình liên tịch giữa NHNo VN và Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cưu Chiến binh Việt nam, NHNo Bình Thuận đã tổ chức mạng lưới tổ vay vốn ở khắp các chi nhánh cấp 2. Ngoài việc tốn kém chi phí hoa hồng, chất lượng hoạt động của hệ thống tổ nói trên còn thấp, chưa tương xứng với yêu cầu quản lý vốn. Tồn tại này một mặt do cán bộ tổ hạn chế về trình độ văn hóa, không nắm bắt được các qui định của pháp luật liên quan và các nghiệp vụ cơ bản của NHNo. Mặt khác, do điều kiện sinh nhai, nể nang tình làng nghĩa xóm, không có được những công cụ chế tài cần thiết… nên hoạt động của cán bộ tổ chủ yếu mang ý nghĩa động viên, nhắc nhở. Nhiều trường hợp do sự giám sát của NHNo và địa phương thiếu sâu xác, chặc chẻ, đã dẫn tới trình trạng tổ trưởng vay ké, chiếm dụng tiền vốn của tổ viên hoặc hình thành hệ thống “ cò ” tín dụng … Để khắc phục tình trạng này, theo chúng tôi cần sắp xếp lại hệ thống tổ vay vốn theo hướng tinh gọn, hiệu quả nhằm tiết giảm chi phí và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. Mặt khác, cần nghiên cứu áp dụng mô hình quản lý trên cơ sở hình thành các tổ chức trực thuộc chính quyền địa phương, được NHNo trả công thỏa đáng, đồng thời có qui chế gắn trách nhiệm của địa phương trong việc ký duyệt hồ sơ vay vốn với kết quả giám sát an toàn vốn tín dụng. 44 f) Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với hoạt động tín dụng. Tại NHNo Bình Thuận, hoạt động tín dụng đóng góp trên 90% doanh thu. Đây là hoạt động có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả kinh doanh của đơn vị. Mặt khác tín dụng cũng là nơi thường bắt nguồn cho mọi thành công hoặc đổ vở trong hoạt động kinh doanh của NHTM như lý luận đã chỉ ra. Vì vậy, công tác giám sát chất lượng tín dụng cần phải được đặt lên hàng đầu. Kiểm tra nội bộ về công tác tín dụng cần lưu ý những nội dung sau: (i) Kiểm tra việc chấp hành các qui định của pháp luật đối với công tác tín dụng thông qua hồ sơ tín dụng. (ii) Kiểm tra trọng điểm ở địa bàn tín dụng để xử lý tiêu cực và ngăn ngừa rủi ro đạo đức. (iii) Phối hợp địa phương kiểm tra và uốn nắn hiệu quả sử dụng vốn tín dụng. (iiii) có chưong trình kiểm tra nội bộ nhằm nâng cao kiến thức và năng lực của cán bộ tín dụng. 3- Mở rộng mạng lưới chi nhánh cấp 3 và phòng giao dịch ở nơi cần thiết, tạo thuận lợi cho việc thu nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài địa bàn. Thực tiễn cho thấy ngành Bưu chính viễn thông đã thực hiện tốt việc huy động vốn theo yêu cầu của Chính phủ. Trong nhiều nhân tố quyết định sự thành công của ngành Bưu chính viễn thông đối với công tác huy động vốn là do có mạng lưới bưu cục ở hầu hết các đơn vị hành chính Xã, Phường, Thị trấn. Tuy nhiên, họ không có được lợi thế theo pháp luật qui định cũng như tính truyền thống của NHTM là mối quan hệ tín dụng - công cụ cần thiết để tổ chức, cá nhân phát triển SXKD. Lợi thế này gợi chúng tôi suy nghĩ việc mở rộng mạng lưới để vừa đáp ứng kịp thời tín dụng phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời mở rộng thu hút tiền gửi. Hơn nữa, trong thời đại ngày nay mọi việc tiết kiệm suy cho cùng đều là tiết kiệm thời gian lao động. Khi có nhu cầu gửi tiền, các chủ thể còn phải tính đến lợi ích của việc gửi một món tiền nhất định vào NH, sau khi họ cân nhắc các khoản chi phí cho việc này như: thời gian - loại chi phí đặc thù, chi phí đi lại, chi phí cơ hội cho việc gửi tiền … Các yếu tố đó nếu như không được giải quyết một cách thỏa đáng thì họ sẽ không gửi tiền vào NH hoặc đầu tư vào nơi mà họ cho là có lợi. Việc mở rộng mạng lưới giao dịch như đề cập ở trên, tuy trước mắt NHNo Bình Thuận có khó khăn về cơ sở vật chất và con người, tuy nhiên những yếu tố hữu hình này hoàn toàn có thể được khắc phục theo thời gian, trong khi những yếu tố vô hình 45 khác như: cơ hội, uy tín, khả năng phát triển … thì không chờ đợi con người. Hơn nữa, việc làm trên hoàn toàn có lợi cho tương lai nếu như NHNo Bình Thuận muốn hướng tới thị phần rộng lớn mang tính chiến lược lâu dài. Mặt khác, những vướng mắc về cơ chế sử dụng lao động hiện chưa được giải quyết một cách thiết thực theo ý nghĩa toàn dụng nhân lực, thì đây là cơ hội để những cán bộ trẻ, có năng lực tự khẳng định mình, hạn chế tình trạng chảy máu nhân lực sang các NHTM có điều kiện làm việc và thu nhập tốt hơn. 4- Từng bước chuyên nghiệp hóa hoạt động marketing NH. Hoạt động Marketing của NHNo Bình Thuận còn khá mờ nhạt, chắp vá và nặng tính phong trào. Nhiều nội dung Marketing trực tiếp liên quan đến các nghiệp vụ NHTM chưa được triển khai một cách thường xuyên, bài bản; chất lượng Marketing thấp, đa phần tiến hành theo đợt. Cách làm này chưa phù hợp với đặc trưng marketing NH . Mặc khác, thị trường nông nghiệp, nông thôn về cơ bản chỉ có NHNo chiếm lĩnh, đã tạo cho các chi nhánh cấp 2, cấp 3 tư tưởng chủ quan, thoả mãn, chưa coi trọng công tác Marketing để đặt nó đúng vị trí trong hoạt động của NHTM hiện đại. Vì vậy, cần có những bước đi thích hợp theo chiều dài lẫn chiều rộng của công tác marketing, trong đó công đoạn cần lưu ý là: đào tạo và bố trí cán bộ, xây dựng chiến lược Marketing và triển khai một cách đồng bộ, phù hợp môi trường kinh doanh. 5- Cần tạo cơ chế cạnh tranh lành mạnh giữa các chi nhánh cấp 2 trực thuộc (tạm gọi là các SBU – đơn vị kinh doanh chiến lược) nhằm nâng cao năng lực kinh doanh, tăng cường khả năng đề kháng những vấp váp trong cơ chế thị trường. Với cách tổ chức hiện hành, hoạt động NHNo Bình Thuận bị phân khúc bởi địa bàn hành chính theo huyện, thị, Thành phố. Điều này phù hợp với việc tổ chức phân khúc thị trường để các SBU có điều kiện chuyên sâu với địa bàn hoạt động, đồng thời thuận lợi cho công tác quản trị, điều hành. Tuy nhiên, cũng chính cách tổ chức này đã tạo tư tưởng độc quyền, tạo cho các SBU tự mãn, giảm khả năng tự thân vận động vươn lên trong cơ chế thị trường. Trong nhiều trường hợp, chính từ năng lực kinh doanh yếu kém, không đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của kinh tế thị trường đã dẫn đến mất khách hàng về tay NHTM khác, giảm thị phần tín dụng và dịch vụ. Để giải quyết vấn đề này, bên cạnh việc tiếp tục duy trì điều hành theo phân khúc thị trường đã có, cần tạo cơ chế cho các SBU được hoạt động đan xen 46 giữa các phân khúc với nhau, hình thành cơ chế canh tranh lành mạnh trong nội bộ để nâng cao năng lực kinh doanh của các SBU trong cơ chế thị trường dựa trên nền tảng tư tưởng rất dân gian: Thừa trong nhà mới ra người ngoài. 6- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ viên chức từ cán bộ quản trị điều hành đến cán bộ tác nghiệp, gắn liền với việc bố trí một cách phù hợp cán bộ có phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực thực tiễn vào các vị trí then chốt các cấp. Lý luận và thực tiễn đều khẳng định yếu tố con người luôn giữ vai trò quan trọng trong các hoạt động SXKD và càng quan trọng hơn nữa ở những khâu mà máy móc thiết bị dù hiện đại đến đâu cũng không thể thay thế được con người. Có thể thấy rằng vấn đề con người luôn được đề cập như một giải pháp trung tâm để giải quyết những vấn đề mang tính nội hàm của hàm số hiệu quả kinh doanh. Để khai thác và sử dụng vốn một cách có hiệu quả, yêu cầu về chất lượng nhân lực luôn được đặt ra một cách nghiêm túc. Đối với hoạt động NHTM, yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ cán bộ về kiến thức không chỉ dừng laị ở sự hiểu biết nghiệp vụ NH, mà còn phải có kiến thức pháp luật, hiểu biết về kinh tế thị trường, hiểu biết môi trường kinh doanh và kiến thức về những ngành liên quan … nhằm thực hiện tốt các nghiệp vụ NHTM. Mặc dù hiện nay đội ngũ cán bộ viên chức NHNo Bình Thuận về cơ bản đã được đào tạo lại và bổ sung khá nhiều nhân tố mới, nhưng vẫn còn nhiều bất cập về trình độ, năng lực quản trị, điều hành lẫn tác nghiệp. Tồn tại trên đã dẫn đến hệ quả sau: khả năng tiếp cận môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh, khả năng tiếp cận và xử lý công nghệ mới bị hạn chế ; phát sinh nhiều rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Do vậy trước xu thế hội nhập của NHNo VN, mà ở đó kiến thức kinh tế thị trường, sự hiểu biết pháp luật và những nghiệp vụ NHTM hiện đại trong thời kỳ bùng nổ công nghệ thông tin là cực kỳ quan trọng, đòi hỏi NHNo Bình Thuận cần có chiến lược đào tạo, quy hoạch và sử dụng cán bộ các cấp để đáp ứng yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài. Cần chấn chỉnh công tác tuyển dụng, đào tạo và đào tạo lại một cách có chọn lọc theo hướng tăng cường chất lượng nhân lực. Việc sử dụng cán bộ phải gắn với các khâu then chốt, bảo đảm các tiêu chuẩn qui định. Trong công tác qui hoạch, đào tạo cần có những bước đột phá theo hướng thực sự trọng dụng nhân tài; mở rộng đối tượng đào tạo sau đại học đối với cán bộ quy hoạch vào chức danh lãnh đạo chi nhánh cấp 1 và cấp 2; có chính sách khuyến khích tự nghiên cứu nâng cao kiến thức và năng lực. Hàng năm, dành kinh phí thỏa đáng để mở lớp đào tạo ngắn hạn về nghiệp vụ 47 NHTM hiện đại. Aùp dụng biện pháp kiểm tra kiến thức và năng lực theo định kỳ qua đó sắp xếp lại cán bộ phù hợp năng lực, sở trường từng người, có chính sách giải quyết đối với cán bộ không đủ trình độ, năng lực. Riêng việc phân công cán bộ tín dụng phụ trách điạ bàn cần có những bước đổi mới phù hợp. Hiện nay, cán bộ tín dụng thường được phân công chủ yếu theo địa bàn hành chính. Với cách làm này, cán bộ tín dụng sẽ gặp khó khăn trong việc phân tích các dự án chuyên sâu, theo ngành kinh tế hoặc theo loại hình kinh tế. Vì vậy, cùng với việc nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ tín dụng, tùy theo môi trường kinh doanh, có thể bố trí cán bộ tín dụng theo hướng chuyên môn hóa đầu tư, cho vay theo ngành kinh tế hoặc theo loại hình kinh tế, đối tác vay vốn … Cần có chính sách thưởng, phạt nghiêm minh, tạo tư tưởng và động lực vươn lên của CBVC trong đơn vị. 7- Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ thuộc bộ máy điều hành , giúp Tổng Giám đốc (Giám đốc)điều hành thông suốt , an toàn và đúng pháp luật mọi hoạt động nghiệp vụ của tổ chức tín dụng. [16] Cơ cấu hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ của NHNo Bình Thuận rộng khắp từ chi nhánh cấp 1 đến chi nhánh cấp 2. Những năm qua hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ của NHNo Bình Thuận đã có nhiều cố gắng thực hiện nhiệm vụ đặt ra. Tuy nhiên do vừa không đủ lượng và chất , vừa thiếu ổn định về nhân lực, nên việc kiểm tra, giám sát nghiệp vụ chuyên môn cả chiều rộng lẫn chiều sâu nhìn chung chưa chất lượng chưa cao. Trước tình hình ngày càng phát sinh nhiều nghiệp vụ mới của NHTM hiện đại, đang đặt ra nhiều thách thức mới đối với hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ của NHNo Bình Thuận, đó là: (i) tình trạng tụt hậu về quản trị điều hành, tác nghiệp và hoạch định chiến lược kinh doanh. (ii) sự yếu kém về chuyên môn, hạn chế kiến thức pháp luật … dẫn đến sai sót trong các lĩnh vực chuyên môn, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, đầu tư và dịch vụ; hạn chế năng lực cạnh tranh. (iii) năng suất lao động kém, chi phí tăng cao, xu hướng MC=MR rất cận kề làm bảo hòa lợi nhuận kinh doanh. Thực hiện lộ trình tiến về an toàn, chất lượng và hiệu quả trong hoạt động, việc tổ chức hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ NHNo Bình Thuận cần quan tâm một số vấn đề sau : 48 - Thường xuyên củng cố kiến thức pháp luật và năng lực chuyên môn nghiệp vụ, đồng thời có chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với người làm công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ; tạo điều kiện để cán bộ kiểm tra, kiểm soát nội bộ thể hiện tính ưu việt về kiến thức pháp luật và chuyên môn nghiệp vụ theo nghĩa chiều rộng lẫn chiều sâu. Bên cạnh chế độ đãi ngộ cần có quy định cụ thể về chế độ trách nhiệm của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ, trong mối liên quan với độ an toàn và hiệu quả trong kinh doanh của NHNo Bình Thuận. Cần sắp xếp và bổ sung đội ngũ cán bộ kiểm tra, kiểm soát nội bộ đủ tiêu chuẩn, tránh sự thiếu ổn định về nhân lực. - Cần bố trí trong hệ thống chi nhánh cấp 1 và cấp 2 một cán bộ chuyên trách về pháp luật ( Riêng tại chi nhánh cấp 2, cán bộ kiểm tra kiểm soát nội bộ có thể kiêm nhiệm công tác pháp luật hoặc hợp đồng với ngành tư pháp ). Việc ban hành các văn bản nội bộ và ngoại ngành nhất thiết phải thông qua tư vấn thuộc hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ. 8- Tiết giảm một số khoản chi phí hoạt động kinh doanh như: chi phí trích dự phòng rủi ro, chi phí trả lãi tiền gửi và phí sử dụng vốn của NHNo VN, chi phí hoa hồng mạng lưới tổ vay vốn … bằng các biện pháp: - Nâng cao chất lượng lao động trong đơn vị qua các giải pháp đã nêu trên. - Nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thiểu nợ quá hạn, đặc biệt là nợ xấu. - Đẩy mạnh tăng trưởng nguồn huy động tại chổ, đổi mới cơ cấu nguồn huy động trên cơ sở tăng cường nguồn vốn giá rẻ nhằm giảm chi phí vốn. - Tinh gọn mạng lưới tổ vay vốn theo nguyên tắc chất lượng và hiệu quả… III. Một số kiến nghị với NHNo VN . 1- Cần xây dựng chính sách phân phối thu nhập nội bộ hợp lý, nhằm khuyến khích nâng cao năng suất và chất lượng lao động, tăng hiệu quả kinh doanh. Nguyên lý triết học Mác-Lênin đã chỉ ra: Vật chất quyết định ý thức. Tuy nhiên khi vận dụng trong thực tiễn thì không phải ở đâu cũng diễn ra trôi chảy. NHNo VN trong thời dài, về cơ bản vẫn áp dụng cơ chế trả lương bình quân. Điều này đã làm giảm động lực kinh doanh, làm nản chí những người có công đóng góp lớn vào kết quả kinh doanh, đặc biệt là đội ngũ nhân viên trẻ có năng 49 lực. Cách phân phối trên cũng đã san bằng khoảng cách về năng lực và trách nhiệm giữa các cấp quản trị viên với nhân viên thừa hành. Việc nhân viên thừa hành được trả lương kinh doanh ngang bằng hoặc cao hơn quản trị viên; hoặc người làm việc có năng suất, chất lượng thấp nhưng được trả lương cao hơn người khác diễn ra khá phổ biến. Thực hiện chính sách cải cách tiền lương, ngày 31/10/2005 Hội đồng quản trị NHNo VN đã ban hành cơ chế trả lương trong hệ thống NHNo VN theo Quyết định 490/QĐ/NHNo-LĐTL. Cơ chế này về hình thức có tích cực hơn do có chú trọng đến việc phân phối lương kinh doanh. Tuy nhiên, theo chúng tôi thì cơ chế trả lương này vẫn chưa phản ánh đầy đủ ý nghĩa tích cực của tiền lương đối với ngành kinh doanh – NHNo VN, chưa phân định một cách rõ ràng mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ trong đội ngũ CBVC. Vấn đề này còn nhiều bất hợp lý khác mà trong phạm vi luận văn không thể liệt kê hết. Nhìn chung, cơ chế trả lương mới của NHNo VN vẫn chưa đoạn tuyệt với chủ nghĩa bình quân. Để giải quyết tồn tại trên, NHNo VN cần xử lý như sau: a) Ban hành qui định phân phối tiền lương theo nguyên tắc: trã lương theo lao động. Như vậy, ngoài tiền lương nhà nước qui định được phân phối trên cơ sở hệ số lương và mức lương tối thiểu, thì phần tiền lương kinh doanh phải được phân phối thỏa đáng theo kết quả lao động. NHNo hoàn toàn có thể làm được việc này. Trong thực thi nếu có vướng mắc là ở chỗ: đưa ra tiêu chí hợp lý để phân phối tiền lương, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ viên chức cho phù hợp trình độ, năng lực, mạnh dạn đề bạt cán bộ trẻ có đủ phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực vào các vị trí xứng đáng. b) Ban hành cơ chế khen thưởng xứng đáng cho những phát kiến khoa học được áp dụng có hiệu quả, những sáng kiến cải tiến kỹ thuật, công nghệ NH, cũng như những đóng góp cụ thể về hiệu quả kinh doanh. 2- Cần thay đổi một số chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh. Thực hiện thông tư số 49/2004/TT-BTC ngày 03/06/2004 của Bộ Tài chính về hướng dẫn chỉ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf44004.pdf
Tài liệu liên quan