Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII một lần nữa khẳng định sự kiên trì chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, và đề ra chính sách: Công nghiệp hoá và hiện đại hoá để đưa nước ta nhanh chóng trở thành một nước có nền kinh tế phát triển ngay trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Nền kinh tế nước ta đã chuyển đổi dần dần từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mở cửa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết quản lý của Nhà nước.
Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, xây dựng nền công nghiệp hoá hiện đại hoá thì vấn đề nổi lên không chỉ ở nước ta mà ở cả các nước đang phát triển là tình trạng cơ sở hạ tầng kém, thiếu kinh nghiệm, trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên chưa cao. Vì thế, cùng một lúc chúng ta phải bắt tay vào giải quyết nhiều vấn đề cấp bách thì mới đáp ứng kịp thời với yêu cầu đặt ra.
Đặc biệt công tác xuất nhập khẩu là một trong ba chương trình kinh tế lớn của Nhà nước mà đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề ra cho giai đoạn phát triển kinh tế nước ta hiện nay.
Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện đó nhiều loại hình Doanh nghiệp , nhiều loại hình kinh tế cùng tồn tại, cùng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Để tồn tại trong cơ chế mới với sự cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi hoạt động kinh doanh nói chung, kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng của mỗi Doanh nghiệp phải đạt được hiệu quả cao.
Hiệu quả là mục tiêu phấn đấu cuối cùng của mỗi đơn vị hoạt động kinh doanh. Điều đó hoàn toàn chính đáng và là lý do cơ bản để các Doanh nghiệp cùng tồn tại và phát triển trên thị trường.
Bên cạnh những thành công, tiến bộ của một số Doanh nghiệp thì còn không ít những Doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh thấp dẫn đến nguy cơ sa sút, không đứng nổi trong cơ chế thị trường, phải sát nhập, phá sản hoặc giải thể. Mặt khác tình trạng hoạt động kinh doanh nói chung gặp rất nhiều khó khăn lúng túng và bị động khi chuyển sang cơ chế mới, chưa tìm ra được các giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Ngoài ra, khi chuyển sang cơ chế thị trường, việc xem xét đánh giá, phân tích hiệu quả kinh doanh của các Doanh nghiệp chưa được chú ý đúng mức, nhiều Doanh nghiệp còn chưa đủ tiêu chuẩn để đánh giá, các giải pháp cho việc đẩy mạnh kinh doanh thiếu tính khả thi dẫn đến hiệu quả không cao.
Về phương diện lý luận, vấn đề hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung, kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng có rất nhiều quan điểm khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu hiệu quả hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay là rất cần thiết trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề hiệu quả trong việc đánh giá, phân tích kết quả hoạt động kinh doanh, với sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn TS Phạm Công Đoàn, các cô, chú trong Công ty xuất nhập khẩu Hàng không- AIRIMEX, tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty xuất nhập khẩu Hàng không AIRIMEX“. làm đề tài cho bài luận văn tốt nghiệp của mình và hy vọng đóng góp một phần công sức nhỏ vào lý luận và phương pháp xây dựng để nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty xuất nhập khẩu Hàng không nói riêng và các Doanh nghiệp thương mại nói chung.
106 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 952 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty xuất nhập khẩu Hàng không AIRIMEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
lời nói đầu
Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII một lần nữa khẳng định sự kiên trì chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, và đề ra chính sách: Công nghiệp hoá và hiện đại hoá để đưa nước ta nhanh chóng trở thành một nước có nền kinh tế phát triển ngay trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Nền kinh tế nước ta đã chuyển đổi dần dần từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mở cửa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết quản lý của Nhà nước.
Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, xây dựng nền công nghiệp hoá hiện đại hoá thì vấn đề nổi lên không chỉ ở nước ta mà ở cả các nước đang phát triển là tình trạng cơ sở hạ tầng kém, thiếu kinh nghiệm, trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên chưa cao. Vì thế, cùng một lúc chúng ta phải bắt tay vào giải quyết nhiều vấn đề cấp bách thì mới đáp ứng kịp thời với yêu cầu đặt ra.
Đặc biệt công tác xuất nhập khẩu là một trong ba chương trình kinh tế lớn của Nhà nước mà đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề ra cho giai đoạn phát triển kinh tế nước ta hiện nay.
Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện đó nhiều loại hình Doanh nghiệp , nhiều loại hình kinh tế cùng tồn tại, cùng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Để tồn tại trong cơ chế mới với sự cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi hoạt động kinh doanh nói chung, kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng của mỗi Doanh nghiệp phải đạt được hiệu quả cao.
Hiệu quả là mục tiêu phấn đấu cuối cùng của mỗi đơn vị hoạt động kinh doanh. Điều đó hoàn toàn chính đáng và là lý do cơ bản để các Doanh nghiệp cùng tồn tại và phát triển trên thị trường.
Bên cạnh những thành công, tiến bộ của một số Doanh nghiệp thì còn không ít những Doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh thấp dẫn đến nguy cơ sa sút, không đứng nổi trong cơ chế thị trường, phải sát nhập, phá sản hoặc giải thể. Mặt khác tình trạng hoạt động kinh doanh nói chung gặp rất nhiều khó khăn lúng túng và bị động khi chuyển sang cơ chế mới, chưa tìm ra được các giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Ngoài ra, khi chuyển sang cơ chế thị trường, việc xem xét đánh giá, phân tích hiệu quả kinh doanh của các Doanh nghiệp chưa được chú ý đúng mức, nhiều Doanh nghiệp còn chưa đủ tiêu chuẩn để đánh giá, các giải pháp cho việc đẩy mạnh kinh doanh thiếu tính khả thi dẫn đến hiệu quả không cao.
Về phương diện lý luận, vấn đề hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung, kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng có rất nhiều quan điểm khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu hiệu quả hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay là rất cần thiết trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề hiệu quả trong việc đánh giá, phân tích kết quả hoạt động kinh doanh, với sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn TS Phạm Công Đoàn, các cô, chú trong Công ty xuất nhập khẩu Hàng không- AIRIMEX, tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty xuất nhập khẩu Hàng không AIRIMEX“. làm đề tài cho bài luận văn tốt nghiệp của mình và hy vọng đóng góp một phần công sức nhỏ vào lý luận và phương pháp xây dựng để nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty xuất nhập khẩu Hàng không nói riêng và các Doanh nghiệp thương mại nói chung.
-Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn trình bày những lý luận cơ bản liên quan đến vấn đề hiệu quả kinh doanh.
Sau đó là đi đến phân tích thực trạng hoạt động của Công ty từ đó tìm ra những mặt mạnh, mặt yếu và những nguyên nhân tồn tại trong hoạt động kinh doanh của Công ty.
Cuối cùng là đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn đó để giúp Công ty đưa ra những chính sách hữu hiệu nâng cao hiệu quả kinh doanh.
-Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy hoạt động xuất nhập khẩu trong ba năm (1999-2001)của Công ty xuất nhập khẩu Hàng không AIRIMEX làm tài liệu để nghiên cứu.
-Kết cấu luận văn.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương I: “Một số vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường “.
Chương II: “Phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh của Công ty xuất nhập khẩu Hàng không AIRIMEX “.
Chương III: “Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty xuất nhập khẩu Hàng không AIRIMEX “.
Chương I một số vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường.
I. kinh doanh thương mại trong nền kinh tế thị trường.
1. Khái niệm về kinh doanh - kinh doanh Thương mại.
1.1. Kinh doanh: là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
Kinh doanh được phân biệt khác với hoạt động khác bởi các đặc điểm chủ yếu sau:
- Kinh doanh phải do một chủ thể thực hiện được gọi là chủ thể kinh doanh. Chủ thể kinh doanh có thể là một cá nhân, hộ gia đình hoặc một Doanh nghiệp.
- Kinh doanh phải gắn liền với thị trường, không có thị trường thì không có khái niệm kinh doanh.
- Kinh doanh phải gắn liền với đồng vốn. Chủ thể kinh doanh không chỉ có vốn mà còn phải biết cách vận động vốn không ngừng.
- Cuối cùng mục đích chủ yếu của kinh doanh là tạo ra lợi nhuận.
1.2. Kinh doanh thương mại: là một dạng của lĩnh vực đầu tư để thực hiện dịch vụ lưu thông hàng hoá trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Kinh doanh thương mại trước hết đòi hỏi phải có vốn kinh doanh – vốn kinh doanh là các khoản vốn bằng tiền, tài sản có khác. Có thể lúc đầu vốn là khoản tích lũy, vốn góp, vốn huy động hoặc vốn vay... tất cả các điều đó là thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá. T - H - T’ trong đó T’ = T + Dt.
Kinh doanh thương mại đòi hỏi phải thực hiện hành vi mua để bán (buôn bán). Xét trên toàn bộ và cả quá trình hoạt động kinh doanh thương mại là thực hiện hành vi mua hàng (ở đây không phải mua hàng để dùng) mà mua hàng để bán lại cho người khác. Đó là hoạt động buôn bán.
Kinh doanh thương mại dùng vốn (tiền của, công sức) và hoạt động kinh doanh để thực hiện hành vi mua bán, nhưng sau mỗi kỳ kinh doanh thì phải bảo toàn được vốn và có lãi. Có như vậy mới mở rộng và phát triển được hoạt động kinh doanh.
2. Các loại hình kinh doanh thương mại.
Đổi mới quản lý từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý theo cơ chế thị trường cũng như theo chủ chương của Đảng và Nhà nước là phát triển kinh tế nhiều thành phần đã như một đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh thật sự sẽ sôi nổi hơn rất nhiều. Các loại hình kinh doanh hiện nay cũng trở nên phong phú đa dạng hơn. Nhưng có thể quy về 3 loại hình kinh doanh cơ bản sau:
2.1. Kinh doanh chuyên môn hoá: Doanh nghiệp chỉ kinh doanh một loại hàng hoá nhất định cùng công dụng tính năng kỹ thuật. Ưu điểm của loại hình kinh doanh này là mặt hàng mà Doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện chuyên môn hoá cao. Tuy nhiên, mặt hạn chế đó là việc Doanh nghiệp rất khó khăn khi chuyển đổi mặt hàng kinh doanh.
2.2. Kinh doanh tổng hợp: Doanh nghiệp tổ chức kinh doanh rất nhiều loại hàng hoá khác nhau. Trong khuôn khổ luật pháp cho phép thì Doanh nghiệp có thể kinh doanh bất kỳ loại hàng hoá nào mà đem lại lợi nhuận.
Ưu điểm của loại hình kinh doanh này là Doanh nghiệp có thể tận dụng được tối đa tiềm lực từ cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động, luôn mở rộng phạm vi hoạt động. Loại hình kinh doanh này luôn thích ứng được các thay đổi về nhu cầu thị trường có thể chuyển hướng kinh doanh nhanh, đồng thời hạn chế được rủi ro trong kinh doanh.
Nhưng hạn chế của loại hình kinh doanh này là không chuyên môn hoá sâu sắc được mặt hàng kinh doanh, tính nhạy bén với thị trường nào đó bị giới hạn bởi sự dàn trải năng lực Marketting. Ngoài ra, do tính chuyên dụng không cao nên hạn chế sức cạnh tranh trên thị trường.
2.3. Đa dạng hoá kinh doanh trên cơ sở ngành hàng chiến lược và lĩnh vực kinh doanh.
Khi nói đến đa dạng hoá kinh doanh thì chúng ta phải hiểu đa dạng hoá kinh doanh trên hai mặt: đa dạng hoá về mặt hàng kinh doanh và đa dạng hoá về lĩnh vực kinh doanh. Kinh doanh theo loại hình này Doanh nghiệp phải dựa trên cơ sở một ngành hàng chiến lược, một lĩnh vực cơ bản. Vấn đề ở đây là phải xác định được mặt hàng chiến lược phù hợp với khả năng của Doanh nghiệp mình và có sức cạnh tranh cao. Đây là loại hình kinh doanh tiến bộ có thể khắc phục được nhược điểm của hai loại hình mà ta vừa nghiên cứu ở trên. Nhưng loại hình này đòi hỏi rất cao về năng lực khả năng kinh nghiệm và chuyên môn của đội ngũ lãnh đạo, quản lý và sự năng động nhạy bén trước những biến đổi nhu cầu của thị trường.
3. Doanh nghiệp thương mại và đặc điểm của Doanh nghiệp thương mại.
3.1. Khái niệm Doanh nghiệp thương mại .
Doanh nghiệp thương mại ra đời do sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa trong sản xuất: một bộ phận những người sản xuất tách ra chuyên đưa hàng ra thị trường để bán, dần dần công việc đó được cố định vào một số người và hình thành các đơn vị các tổ chức kinh tế chuyên làm nhiệm vụ bán hàng hoá đó để thu lợi nhuận, những người đó được gọi là thương nhân. Đầu tiên Doanh nghiệp thương mại được xem như là Doanh nghiệp chủ yếu thực hiện các công việc mua bán, sau này do sự cạnh tranh và phát triển đa dạng phức tạp hơn thì xuất hiện các dịch vụ thương mại và xúc tiến thương mại do đó Doanh nghiệp thương mại được hiểu như là Doanh nghiệp chủ yếu thực hiện các hoạt động thương mại.
Các hoạt động thương mại bao gồm:
Mua bán hàng hoá.
Dịch vụ thương mại (vận chuyển, đại lý..).
Xúc tiến thương mại (quảng cáo, hội chợ...).
Tùy theo từng mô hình tổ chức mà các Doanh nghiệp thương mại có thể được phân thành các trung tâm, các xí nghiệp, các hãng. Bài luận văn của tôi đi sâu vào nghiên cứu Doanh nghiệp thương mại là Công ty.
3.2. Các đặc điểm chủ yếu của Doanh nghiệp thương mại.
+ Đối tượng lao động của Doanh nghiệp thương mại là các sản phẩm hàng hoá hoàn chỉnh (hàng hóa đã kết thúc sản xuất đi vào lưu thôngđể tiêu dùng). Bởi vậy, ta thấy Doanh nghiệp thương mại là trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng, do vậy mà nhiệm vụ của Doanh nghiệp thương mại không phải là việc tạo ra giá trị sử dụng, giá trị mới mà là thực hiện giá trị thông qua trao đổi. Từ những đặc trưng này mà Doanh nghiệp thương mại có vai trò đưa vào tiêu dùng những sản phẩm hoàn chỉnh. Do đó, nó đã hạn chế được những hàng hoá kém phẩm chất và hàng giả.....
+ Trong quá trình kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại nhân vật trung tâm là khách hàng. Nhiệm vụ của Doanh nghiệp thương mại là mua hàng hóa để bán lại, do vậy nếu không có khách hàng thì Doanh nghiệp không thực hiện được chỉ tiêu H - T’ không thực hiện được giá trị hàng hoá. Bởi vậy, mọi hoạt động của Doanh nghiệp thương mại đều tập trung vào khách hàng, đáp ứng tối đa độ thỏa mãn nhu cầu. Điều này khác với Doanh nghiệp sản xuất ở chỗ mọi hoạt động của Doanh nghiệp sản xuất đều hướng vào phục vụ người lao động (giảm nhẹ cường độ lao động, đảm bảo an toàn lao động, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người lao động...) và hướng vào sản phẩm (đảm bảo chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu, sáng chế ra những sản phẩm mới....) để hàng hoá tung ra thị trường được chấp nhận.
+ Doanh nghiệp thương mại là loại hình Doanh nghiệp phải sử dụng lao động sống. Do vậy khách hàng là nhân vật trung tâm trong hoạt động kinh doanh nên nhu cầu của họ là rất đa dạng. Nó không chỉ đơn thuần là việc bày hàng ra bán và thu tiền mà phải tiếp xúc với khách hàng, chỉ dẫn, tư vấn nên cần phải có nhiều nhân viên hướng dẫn. Do đó dẫn đến việc tốn nhiều chi phí tiền lương do sử dụng nhiều lao động làm giảm lợi nhuận kinh doanh. Như vậy việc cấp bách hiện nay là cần phải tiếp cận cách quản lý, phương thức, công nghệ mới để nâng cao năng suất lao động, văn minh thương mại, hoạt động kinh doanh có hiệu quả, nâng cao được lợi nhuận và uy tín cho Công ty.
+ Doanh nghiệp thương mại có đặc thù liên kết tất yếu với Doanh nghiệp khác theo luật lệ thị trường. Trên phương diện tổ chức liên kết kỹ thuật, sự liên kết giữa các Doanh nghiệp trong ngành thương mại có vẻ khá lỏng lẻo, không như ngành sản xuất. Nhưng xét trên góc độ kinh tế xã hội chúng lại có sự liên kết với nhau khá chặt chẽ thông qua luật thành văn và không thành văn. Sự liên kết này có tính phường hội hết sức chặt chẽ và nghiêm minh. Liên kết này chống lại các thế lực cạnh tranh, co ép giá hay nói cách khác không bị phá giá trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
4. Tổ chức hoạt động kinh doanh trong Doanh nghiệp thương mại.
Hiểu một cách đơn giản, Doanh nghiệp thương mại là doanh nghiệp chủ yếu thực hiện hoạt động mua bán hàng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất và cho xã hội. Do vậy ta có thể đưa ra mô hình sau:
Người bán
DNTM
Người mua
Hàng Hàng
Tiền Tiền
Cung ứng Tiêu thụ
Như vậy có thể xem hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại qua hai hoạt động đặc trưng là tiêu thụ hàng hoá và cung ứng hàng hoá.
4.1. Cung ứng hàng hoá.
Cung ứng hàng hoá là việc tổ chức nguồn hàng nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp.
Hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại được bắt đầu từ việc tổ chức mua hàng, kết thúc là việc bán hàng. Như vậy muốn có hàng để bán trên thị trường thì Doanh nghiệp luôn luôn phải được cung ứng hàng hoá.
Đối với Doanh nghiệp thương mại, việc tổ chức nguồn hàng nhằm tạo điều kiện vật chất cho lưu chuyển hàng hoá, để lưu thông được tiến hành thường xuyên liên tục, góp phần thực hiện chức năng và mục tiêu của Doanh nghiệp. Đồng thời còn thể hiện sức mạnh kinh tế của Doanh nghiệp để cạnh tranh với các Doanh nghiệp khác trên thị trường.
Tổ chức nguồn hàng tạo điều kiện thoả mãn đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng về mặt số lượng, chất lượng để nâng cao mức sống của mọi thành viên trong xã hội, đồng thời góp phần ổn định giá cả thị trường.
Nếu tổ chức tốt cung ứng hàng hoá thì:
+ Luôn đảm bảo tính thường xuyên đều đặn của Doanh nghiệp.
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh của Doanh nghiệp.
+ Thực hiện các mục tiêu các thành phần tham gia Doanh nghiệp.
Như vậy tổ chức nguồn hàng được coi là nhiệm vụ hàng đầu của các Doanh nghiệp thương mại nhằm tạo ra nguồn hàng dồi dào về mặt số lượng, cơ cấu đảm bảo, thời gian phù hợp, giá cả hợp lý để đáp ứng nhu cầu thị trường.
4.1.1. Mua hàng trong Doanh nghiệp thương mại.
Mua hàng nhằm cung cấp hàng cho Doanh nghiệp một cách thường xuyên đều đặn và kịp thời. Với hoạt động mua hàng cần nắm chắc tình hình biến động cung cầu trên thị trường nhằm dự đoán một cách chính xác số lượng cần mua. Nhờ đó mà Doanh nghiệp có thể tránh được những trường hợp như mua quá tải dẫn đến ứ đọng hàng hóa... Hoặc mua ít, không đủ lượng hàng bán làm gián đoạn thời gian lưu thông, ảnh hương tới kết quả hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp.
4.2.2. Dự trữ hàng hoá.
Hoạt động này nhằm phục vụ bán hàng được liên tục, không bị gián đoạn kinh doanh. Dự trữ hàng hoá là rất cần thiết nhưng nó lại mang tính hai mặt. Nếu dự trữ ít không đủ hàng để bán dẫn đến tình trạng “sốt hàng “ thì lúc này sẽ mất đi một khoản lợi nhuận rất lớn. Ngược lại, nếu dự trữ nhiều quá sẽ gây ứ đọng hàng dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn không thu được hồi được vốn nhanh làm quá trình quay vòng vốn chậm và sẽ làm mất thêm một khoản chi phí cho việc bảo quản hàng hoá. Vì vậy cần có số lượng và cơ cấu dự trữ hợp lý, góp phần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh và quay vòng vốn.
4.2. Tiêu thụ hàng hoá.
Tiêu thụ hàng hoá là hoạt động đặc trưng, chủ yếu của Doanh nghiệp thương mại, là khâu cuối cùng của hoạt động kinh doanh hàng hoá. Tiêu thụ hàng hoá được thực hiện thông qua hoạt động bán hàng của Doanh nghiệp nhờ đó hàng hoá được chuyển thành tiền, thực hiện vòng chu chuyển vốn trong Doanh nghiệp và chuyển tiền tệ trong xã hội.
Tiêu thụ hàng hoá có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện các mục tiêu và chiến lược mà Doanh nghiệp theo đuổi, thúc đẩy vòng quay của quá trình tái sản xuất, qua đó tái sản xuất và tái sản xuất sức lao động được mở rộng góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội và nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh tế. Tiêu thụ hàng hoá theo nghĩa đầy đủ là quá trình gồm nhiều hoạt động: Nghiên cứu thị trường, nghiên cứu người tiêu dùng, lựa chọn kênh phân phối, các chính sách và các hình thức bán hàng, tiến hành quảng cáo, các hoạt động xúc tiến bán hàng... Nhưng ở bài này ta chỉ nghiên cứu những vấn để cơ bản cụ thể như sau:
4.2.1. Nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường là những xuất phát điểm của kế hoạch kinh doanh của các Doanh nghiệp. Nghiên cứu thị trường là việc phân tích mặt lượng và mặt chất của thị trường. Tức là cung, cầu thực thụ hoặc tiềm tàng của một sản phẩm, một dịch vụ để soản thảo những quyết định thương mại. Nghiên cứu thị trường để làm rõ các yếu tố cấu thành nên thị trường như cung, cầu, giá cả và cạnh tranh để tìm ra phương thức kinh doanh có hiệu quả nhất. Nghiên cứu thị trường giúp phát hiện những cơ hội, tăng khả năng thành công giảm được những nguy cơ rủi ro. Nghiên cứu thị trường thực hiện 3 mục tiêu cụ thể hay nói cách khác là giúp Doanh nghiệp giải đáp được 3 câu hỏi: Kinh doanh cái gì? Kinh doanh như thế nào? Đáp ứng nhu cầu của ai?
4.2.2. Xác lập kênh phân phối.
Kết quả tiêu thụ hàng hoá trong Doanh nghiệp thương mại phụ thuộc vào việc sử dụng các hình thức phương pháp và nghệ thuật bán hàng, thiết lập và sử dụng hợp lý các kênh phân phối, có chính sách đúng đắn thực hiện tốt kế hoạch tiêu thụ hàng hoá của Doanh nghiệp.
Việc lựa chọn kênh phân phối là do tính đặc thù của hàng hoá, tính chất thị trường, tập quán, thói quen tiêu dùng và dựa vào quy mô, năng lực của Doanh nghiệp. Để từ đó Doanh nghiệp thương mại xác lập kênh tiêu thụ dài hay ngắn, trực tiếp hay gián tiếp.
Phương thức bán hàng cũng được nghiên cứu và lựa chọn sao cho thích hợp đảm bảo tiêu thụ hàng hoá nhanh nhất có thể. Doanh nghiệp có thể lựa chọn hình thức bán buôn, bán lẻ hoặc cả hai.
4.2.3. Bán hàng.
Bán hàng là khâu cuối cùng của tiêu thụ hàng hoá, nó gồm 3 giai đoạn: chuẩn bị bán, tiến hành bán và những công việc sau bán. Đây là khâu rất quan trọng liên quan đến quyết định mua của khách hàng. Việc bán hàng là rất quan trọng, nhưng công việc sau bán hàng cũng rất quan trọng. Đó là việc cung cấp những dịch vụ cho khách. Đây là yếu tố thu hút khách hàng quay lại với Doanh nghiệp và đó là một vũ khí trong cạnh tranh.
Để tổ chức tốt tiêu thụ hàng hóa, Doanh nghiệp không những phải làm tốt mỗi khâu công việc mà còn phải phối hợp nhịp nhàng giữa các khâu kế tiếp giữa các bộ phận tham gia trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình tiêu thụ hàng hoá của Doanh nghiệp.
Mở rộng tiêu thụ hàng hoá là điều kiện cơ bản để Doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh doanh, thực hiện tốt các mục tiêu của Doanh nghiệp.
II. thực chất hiệu quả kinh tế trong Doanh nghiệp thương mại.
1. Khái niệm về hiệu quả.
Trước tiên để hiểu được thấu đáo về hiệu quả kinh doanh thì ta hãy xem xét những lý luận cơ bản của nó. Mặc dù đã có sự thống nhất về phạm trù hiệu quả kinh tế song lại có rất nhiều những lý luận khác nhau do đứng trên góc độ nghiên cứu khác nhau. Ta có thể nghiên cứu qua một số quan điểm sau đây:
- Có quan điểm cho rằng kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế là doanh thu trong tiêu thụ hàng hoá. Trong bản dự thảo phương pháp tính hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của viên nghiên cứu kinh tế thuộc Viện LX (cũ) đã xem hiệu quả kinh tế là tốc độ tăng thu nhập quốc dân và tổng sản phẩm xã hội. Như vậy ở đây hiệu quả được đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nhịp độ tăng của các chỉ tiêu đó. Ngày nay quan niệm như vậy là không còn phù hợp. Vì theo quan điểm này thì hiệu quả kinh tế chỉ đạt được trong tiêu thụ hàng hóa hay là tốc độ tăng thu nhập quốc dân không phản ánh được bản chất kinh doanh của Doanh nghiệp. Vì hiệu quả kinh tế của Doanh nghiệp đạt được là do nhiều yếu tố tạo thành có thể là do trình độ sử dụng nguồn lực của Doanh nghiệp do tiết kiệm được chi phí hay là do mở rộng quy mô kinh doanh.... Hơn nữa, kết quả sản xuất có thể tăng lên do tăng chi phí hoặc mở rộng các nguồn lực sản xuất. Nếu cùng một kết quả sản xuất mà có hai mức chi phí khác nhau thì quan điểm này là chưa hợp lý.
- Nhưng có quan điểm khác cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bằng nhịp độ tăng tổng sản phẩm xã hội hoặc thu nhập quốc dân. Hiệu quả sẽ cao khi các nhịp độ tăng các chỉ tiêu đó cao nhưng nếu như chi phí sản xuất hoặc các nguồn lực được huy động tăng nhanh hơn thì sao? Hơn nữa, điều kiện sản xuất năm hiện tại khác với năm trước. Các yếu tố bên trong cũng như bên ngoài nền kinh tế có những ảnh hưởng khác nhau, việc chọn năm gốc có ảnh hưởng lớn đến kết quả so sánh. Với mỗi năm gốc khác nhau thì lại có mức hiệu quả khác nhau của cùng một năm nghiên cứu. Theo quan điểm này đã phần nào đề cập tới mối tương quan so sánh giữa các thời kỳ để thấy được hiệu quả kinh tế. Nhưng chưa đầy đủ chưa nói được cụ thể thế nào là hiệu quả. Do vậy trong quá trình nghiên cứu đứng trên góc độ thương mại tôi thấy rằng hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh là sự mô tả mối tương quan giữa lợi ích kinh tế mà Doanh nghiệp đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được lợi ích đó.
Để hoạt động, doanh nghiệp thương mại phải có các mục tiêu hành động của mình trong từng thời kỳ. Đó có thể là các mục tiêu xã hội cũng có thể là mục tiêu kinh tế của chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp luôn tìm mọi cách để đạt các mục tiêu đó với chi phí thấp nhất. Đó là hiệu quả.
- Hiệu quả của Doanh nghiệp bao gồm 2 bộ phận:
+) Hiệu quả kinh tế.
+) Hiệu quả xã hội.
+) Hiệu quả kinh tế: Thực chất của hiệu quả kinh tế là thực hiện yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời gian nó biểu hiện trình độ sử dụng các nguồn lực của Doanh nghiệp để thực hiện các mục tiêu đã xác định. Quy luật tiết kiệm thời gian là quy luật tồn tại trong nhiều phương thức xã hội khác nhau. Mọi hoạt động của con người đều tuân theo quy luật đó. Nó quyết định động lực phát triển của lực lượng sản xuất. Vậy tóm lại, hiệu quả kinh tế là phạm trù khách quan phản ánh trình độ và năng lực quản lý đảm bảo thực hiện có kết quả cao những nhiệm vụ kinh tế xã hội đặt ra trong từng thời kỳ với chi phí nhỏ nhất. Hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của các Doanh nghiệp.
Xét trên góc độ tuyệt đối thì hiệu qủa kinh tế được thể hiện thông qua sự chênh lệch giữa kết quả và chi phí.
Công thức:
HQ = KQ - CF
Trong đó: HQ là hiệu quả đạt được trong một thời kỳ nhất định.
KQ là kết quả đạt được trong thời kỳ đó.
CF là chi phí bỏ ra để đạt được kết quả.
Đây là hiệu quả tuyệt đối cho thấy mức chênh lệch giữa kết quả và chi phí, mức chênh lệch này càng cao thì hiệu quả càng lớn. Cách so sánh này rất đơn giản và dễ tính nhưng nó chỉ cho ta thấy một cách tổng quát chung nhất mà nó không đánh giá được chất lượng hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp. Thứ hai là không so sánh được giữa các thời kỳ với nhau, không đáp ứng được yêu cầu lý luận ta nghiên cứu ở phần trên. Thứ ba là không phản ánh được tiềm năng nội lực để nâng cao hiệu quả.Thứ tư là khó tách biệt được giữa hiệu quả và kết quả trong tính toán.
- Xét trên góc độ tương đối thì hiệu quả kinh tế được thể hiện thông qua tỉ lệ so sánh giữa kết quả với chi phí theo công thức:
HQ
=
KQ
CF
Cách tính này cụ thể hơn so với cách tính trên. Nó phản ánh được hiệu quả ở mọi góc độ khác nhau. Tuy nhiên cách đánh giá này khá phức tạp nên đòi hỏi phải có quan điểm thống nhất khi lựa chọn hệ thống chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả.
Như vậy suy cho cùng khi đánh giá hiệu quả của một Doanh nghiệp thì ta cần phải xem xét cả hai mặt đó là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội một cách đồng bộ. Vì hiệu quả kinh tế không đơn thuần là các thành quả kinh tế vì trong kết quả và chi phí kinh tế có các yếu tố nhằm đạt hiệu quả xã hội. Tương tự hiệu quả xã hội tồn tại phụ thuộc vào kết quả và chi phí nảy sinh trong hoạt động kinh tế.
+) Hiệu quả xã hội.
- Hiệu quả xã hội là một đại lượng phản ánh mức độ ảnh hưởng của các kết quả đạt được đối với xã hội và môi trường. Thực chất đó là sự tác động tích cực hay tiêu cực từ các hoạt động của con người trong đó có các hoạt động kinh doanh. Hiệu quả xã hội thường được biểu hiện thông qua mức độ thoả mãn nhu cầu về vật chất hoặc tinh thần của người dân, cải thiện điều kiện lao động, nghỉ ngơi, nâng cao trình độ nhận thức văn minh cho người lao động, cải tạo và bảo vệ môi sinh góp phần tích cực cho sự bền vững xã hội.
- Hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế có mối quan hệ gắn bó với nhau như hai mặt của một vấn đề. Hai mặt này phản ánh những khía cạnh khác nhau của một vấn đề kinh doanh nhưng lại không tách rời nhau. Không thể có hiệu quả xã hội mà không có hiệu quả kinh tế và ngược lại hiệu quả kinh tế là cơ sở nền tảng cho hiệu quả xã hội. Bất kỳ một quá trình hiện tượng kinh tế nào cũng bao hàm hai mặt: Tính xã hội và tính kinh tế. Do vậy chúng ta cần phải xem xét tính hiệu quả xã hội của Doanh nghiệp. Bàn về mối quan hệ khăng khít giữa hai phạm trù này V.I.Lênin đã viết: “Tôi cương quyết khô
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1784.DOC