Trong báo cáo chính trị của Đại hội IX Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định “Toàn bộ các hoạt động dịch vụ tính theo giá trị gia tăng đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân 7 8% năm. Đến năm 2005 đạt tỉ trọng 41 42 % GDP và chiếm 23 24% tổng số lực lượng lao động ” cho thấy ý nghĩa to lớn của ngành kinh tế dịch vụ trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân mà trong đó hoạt động dịch vụ hàng hải, dịch vụ vận tải là những hoạt động kinh tế quan trọng, đóng góp vai trò tích cực trong việc tăng nguồn thu ngoại tệ và đóng góp tích cực vào ngân sách quốc gia.
Trong quy hoạch tổng thể Quảng Ninh đến năm 2010 tại văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh xác định: "xây dựng Quảng Ninh phát triển với tốc độ nhanh, ổn định và bền vững cả về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng và môi trường sinh thái; thực sự trở thành một địa bàn động lực và phát triển năng động gắn kết với các địa phương khác trong vùng trọng điểm kinh tế Bắc Bộ."
Với quyết định trên đây cho chúng ta thấy tiềm năng, vị trí và lợi thế của tỉnh Quảng Ninh trong thời kỳ đổi mới và mở cửa phát triển nền kinh tế của đất nước. Đồng thời cũng là những điều kiện thuận lợi để phát huy khả năng của các doanh nghiệp ở địa phương trong có Công ty Vận tải và Xếp dỡ Quảng Ninh. Đây là một doanh nghiệp có tuổi đời gần 40 năm, trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt đã hoàn thành nhiệm vụ của mình trong việc vận tải và xếp dỡ hàng hoá, vũ khí phục vụ quân đội góp phần giải phóng đất nước.
Chuyển sang cơ chế thị trường, Công ty này đã bị chững lại, có phần giảm sút hiệu quả trên một số lĩnh vực kinh doanh, thậm chí có một số đơn vị có nguy cơ giải thể hoặc sát nhập do không trụ nổi, . vì vậy mà công ty đã phải vật lộn để vượt qua trụ vững và ổn định để phát triển.
Tuy nhiên sự phát triển đó chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của một công ty có bề dày gần nửa thế kỷ hoạt động trong lĩnh vực vận tải và xếp dỡ, với lợi thế của một cảng biển lớn phía Bắc và các điều kiện thuận lợi để có thể vươn lên phát triển thành doanh nghiệp mạnh. Vì vậy việc nghiên cứu và tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tìm ra hướng đi đúng đắn, ổn định và bền vững cho Công ty là một yêu cầu tất yếu và bức thiết.
Đề tai:
Một số biện pháp cơ bản nhằm nõg cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty Vận tải và Xếp dỡ Quảng Ninh
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn tốt nghiệp gồm ba phần:
Chương một: Nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Chương hai: Phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh ở Công ty Vận tải và Xếp dỡ Quảng Ninh
Chương ba: Phương hướng và một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty Vận tải và Xếp dỡ Quảng Ninh
83 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1204 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Một số biện pháp cơ bản nhằm nõg cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty Vận tải và Xếp dỡ Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong báo cáo chính trị của Đại hội IX Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định “Toàn bộ các hoạt động dịch vụ tính theo giá trị gia tăng đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân 7 á 8% năm. Đến năm 2005 đạt tỉ trọng 41 á 42 % GDP và chiếm 23 á 24% tổng số lực lượng lao động…” cho thấy ý nghĩa to lớn của ngành kinh tế dịch vụ trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân mà trong đó hoạt động dịch vụ hàng hải, dịch vụ vận tải…là những hoạt động kinh tế quan trọng, đóng góp vai trò tích cực trong việc tăng nguồn thu ngoại tệ và đóng góp tích cực vào ngân sách quốc gia.
Trong quy hoạch tổng thể Quảng Ninh đến năm 2010 tại văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh xác định: "xây dựng Quảng Ninh phát triển với tốc độ nhanh, ổn định và bền vững cả về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng và môi trường sinh thái; thực sự trở thành một địa bàn động lực và phát triển năng động gắn kết với các địa phương khác trong vùng trọng điểm kinh tế Bắc Bộ."
Với quyết định trên đây cho chúng ta thấy tiềm năng, vị trí và lợi thế của tỉnh Quảng Ninh trong thời kỳ đổi mới và mở cửa phát triển nền kinh tế của đất nước. Đồng thời cũng là những điều kiện thuận lợi để phát huy khả năng của các doanh nghiệp ở địa phương trong có Công ty Vận tải và Xếp dỡ Quảng Ninh. Đây là một doanh nghiệp có tuổi đời gần 40 năm, trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt đã hoàn thành nhiệm vụ của mình trong việc vận tải và xếp dỡ hàng hoá, vũ khí phục vụ quân đội góp phần giải phóng đất nước.
Chuyển sang cơ chế thị trường, Công ty này đã bị chững lại, có phần giảm sút hiệu quả trên một số lĩnh vực kinh doanh, thậm chí có một số đơn vị có nguy cơ giải thể hoặc sát nhập do không trụ nổi, ... vì vậy mà công ty đã phải vật lộn để vượt qua trụ vững và ổn định để phát triển.
Tuy nhiên sự phát triển đó chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của một công ty có bề dày gần nửa thế kỷ hoạt động trong lĩnh vực vận tải và xếp dỡ, với lợi thế của một cảng biển lớn phía Bắc và các điều kiện thuận lợi để có thể vươn lên phát triển thành doanh nghiệp mạnh. Vì vậy việc nghiên cứu và tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tìm ra hướng đi đúng đắn, ổn định và bền vững cho Công ty là một yêu cầu tất yếu và bức thiết.
Đề tai:
Một số biện pháp cơ bản nhằm nõg cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty Vận tải và Xếp dỡ Quảng Ninh
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn tốt nghiệp gồm ba phần:
Chương một: Nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Chương hai: Phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh ở Công ty Vận tải và Xếp dỡ Quảng Ninh
Chương ba: Phương hướng và một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty Vận tải và Xếp dỡ Quảng Ninh
Chương một. Nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
I. Hiệu quả - Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả
1. Quan niệm hiệu quả và phân loại hiệu quả
1.1. Quan niệm hiệu quả
Ngày nay khi đề cập đến khái niệm hiệu quả thì người ta vẫn chưa có một khái niệm thống nhất. Bởi vì, ở mỗi lĩnh vực, mỗi giác độ khác nhau người ta có những cách nhìn khác nhau về vấn đề hiệu quả. Và thông thường khi nói đến hiệu quả nào đó thì người ta gắn ngay tên của lĩnh vực đó ngay sau tên của hiệu quả. Để hiểu rõ thêm về vấn đề hiệu quả thì chúng ta phải xem xét vấn đề hiệu quả ở hai góc độ: vĩ mô và vi mô.
Nhìn ở góc độ "vĩ mô" người ta phân làm ba lĩnh vực cơ bản: kinh tế, chính trị và xã hội. Tương ứng với ba lĩnh vực này là ba phạm trù hiệu quả: Hiệu quả kinh tế, Hiệu quả kinh tế - xã hội, Hiệu quả xã hội.
Hiệu quả kinh tế:
Nếu theo mục tiêu cuối cùng thì hiệu quả kinh tế là khoảng chênh giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra để có được hiệu quả đó. Trong đó kết quả thu về chỉ là kết quả phản ánh chỉ tiêu tổng hợp như: doanh thu, lợi nhuận …
Nếu xét theo từng yếu tố riêng lẻ thì hiệu quả kinh tế thể hiện trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố, nguồn lực kinh tế, nó phản ánh kết quả kinh tế thu được từ việc sử dụng các yếu tố tham gia vào nền kinh tế. Lúc này hiệu quả kinh tế là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố, nguồn lực của nền kinh tế. Từ đó ta có thể xác định được sự phát triển của nền kinh tế thông qua hiệu quả kinh tế đạt được cao hay thấp.
Hiệu quả kinh tế - xã hội:
Nếu đứng trên phạm vi toàn xã hội và nền kinh tế quốc dân thì hiệu quả kinh tế - xã hội là chỉ tiêu phản ánh ảnh hưởng của hoạt động kinh doanh đối với việc giải quyết các yêu cầu và mục tiêu chung của nền kinh tế và xã hội. Đây là chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển của nền kinh tế xã hội ở các mặt: Trình độ tổ chức sản xuất, trình độ quản lý, mức sống bình quân.... Thực tế ở các nước tư bản đã cho chúng ta thấy các doanh nghiệp tư bản chỉ chạy theo hiệu quả kinh tế mà không đặt hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế – xã hội đi kèm đã dẫn đến hậu quả là: thất nghiệp, khủng hoảng có tính chất chu kỳ, khoảng cách giàu nghèo quá lớn... Tuy nhiên chúng ta không nên quá chú trọng tới hiệu quả kinh tế - xã hội một cách thái quá vì chúng ta đã có bài học để lại từ hồi bao cấp.
Chung quy lại ở góc độ vĩ mô của nền kinh tế thì chỉ tiêu hiệu quả phản ánh đồng thời cả hai mặt: Định lượng và định tính, hai mặt này có quan hệ mật thiết với nhau. Trong những biểu hiện về định lượng nhằm đạt được những mục tiêu về xã hội - chính trị thì trong những biểu hiện của định tính lại nhằm đạt được những mục tiêu về kinh tế.
Nhìn ở góc độ "vi mô" từng doanh nghiệp riêng lẻ thì hiệu quả kinh tế đạt được biểu hiện qua phạm trù hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu phản ánh đầy đủ các mặt của một quá trình kinh doanh của một doanh nghiệp. Cụ thể là:
Hiệu quả kinh doanh là phạm trù kinh tế phản ánh đầy đủ những lợi ích đạt được từ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh lợi ích thu được với chi phí bỏ ra trong suốt quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Dưới giác độ này thì chúng ta có thể xác định hiệu quả kinh doanh một cách cụ thể và từ đó có thể tính toán, so sánh đựơc. Một cách hiểu khác dưới giác độ này là phạm trù hiệu quả kinh doanh là một phạm trù cụ thể, nó đồng nhất và là biểu hiện trực tiếp của lợi nhuận, doanh thu ... thu được trong quá trình kinh doanh. Ngoài ra nó còn biểu hiện mức độ phát triển của doanh nghiệp theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Đến lúc này phạm trù hiệu quả kinh doanh là một phạm trù trừu tượng. Nói một cách khác, ta có thể hiểu hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu phản ánh trình độ và khả năng quản lý của doanh nghiệp. Tuy nhiên khi xem xét bản chất của hiệu quả kinh doanh phải xét chúng trong mối quan hệ với kết quả hoạt động kinh doanh. Dựa trên kết quả hoạt động kinh doanh có thể đánh giá được hiệu quả kinh doanh.
Việc đánh giá hiệu quả kinh doanh là rất phức tạp vì bản thân kết quả kinh tế và chi phí kinh doanh nhiều khi không được phản ánh chính xác. Nguyên do là có những chi phí cũng như kết quả không thể tính được một cách chính xác do không được tính bằng các đơn vị đo lường thông thường (như uy tín, chi phí vô hình…). Và một đặc điểm rất quan trọng của hiệu quả kinh doanh là khái niệm phức tạp và khó đánh giá vì ngay ở khái niệm đã cho thấy hiệu quả kinh doanh được xác định bởi mối tương quan giữa hai đại lượng là kết quả đạt được từ hoạt động kinh doanh và chi phí bỏ ra để thực hiện các hoạt động kinh doanh đó. Thế mà cả hai đại lượng kết quả và chi phí đều khó có thể xác định chính xác.
Về kết quả hoạt động kinh doanh: Hầu như rất ít khi gặp doanh nghiệp xác định chính xác kết quả mà doanh nghiệp đạt được ở bất kỳ thời điểm nào. Nguyên nhân là do quá trình kinh doanh không trùng hợp nhau. Nhất là đối với các doanh nghiệp thương mại hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, việc xác định kết quả hoạt động kinh doanh ở thời điểm nào đó là rất khó khăn, tốn kém. Hàng hoá của doanh nghiệp đang lưu thông trên thương trường như đang trên đường vận chuyển, lưu kho hoặc gửi bán ở các đơn vị bạn... Khó có thể biết được đã diễn ra hoạt động mua bán hay chưa. Bên cạnh đó trong kinh doanh thương mại nhiều khi hàng được mua ở chu kỳ kinh doanh này nhưng lại tồn kho bán và thu kết quả kinh doanh ở chu kỳ khác và ngược lại. Điều đó gây khó khăn cho việc xác định kết quả một cách chính xác.
Bên cạnh đó việc ảnh hưởng của thước đo giá trị ngày càng là nguyên nhân gây ra khó khăn trong việc đánh giá chính xác hiệu quả kinh doanh.
Việc xác định chi phí trong kinh doanh cũng không dễ dàng. Về nguyên tắc chi phí kinh doanh được xác định từ chi phí vô hình và chi phí hữu hình. Nhưng việc xác định chi phí nhất là chi phí vô hình là rất khó khăn, nhiều khi mang tính ước đoán. Rất khó xác định được chi phí vô hình của một thương vụ kinh doanh. Trong kinh doanh thương mại - dịch vụ tài sản vô hình nhiều khi rất quan trọng, chẳng hạn địa hình thuận lợi của cửa hàng, mạng lưới kho tàng nằm trong khu vực dân cư có nhu cầu lớn..., tạo nên lợi thế so sánh của các công ty. Chi phí tạo lập uy tín cho doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí kinh doanh của doanh nghiệp cả ngắn hạn lẫn dài hạn. Chính vì những lý do trên mà việc xác định hiệu quả kinh doanh nói chung và chi phí kinh doanh thương mại nói riêng đòi hỏi phải tính tới cả chi phí vô hình, như vậy mới phần nào đảm bảo tính chính xác của việc tính toán kết quả kinh doanh.
Cũng chính vì việc xác định hiệu quả kinh doanh và chi phí kinh doanh khó khăn như vậy nên dẫn tới một đặc điểm của hiệu quả kinh doanh là hiệu quả ngắn hạn và hiệu quả dài hạn chưa chắc đã phù hợp nhau, nhiều khi mâu thuẫn nhau. Hiệu quả ngắn hạn tốt nhưng hiệu quả dài hạn chưa chắc đã tốt hoặc ngược lại. Chẳng hạn doanh nghiệp thương mại chú trọng hiệu quả ngắn hạn chạy theo phi vụ làm ăn mà bỏ qua thị trường, mất bạn hàng, khách hàng nên đem lại hiệu quả xấu cho doanh nghiệp trong dài hạn.
Nói tóm lại ở tầm vi mô, hiệu quả kinh doanh phản ánh đồng thời các mặt của quá trình kinh doanh: kết quả kinh doanh, trình độ tổ chức sản xuất và quản lý, trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào.... Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện các mức độ chiều sâu. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan trọng tạo đà cho việc tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện các mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
1.2. Phân loại hiệu quả kinh doanh (hiệu quả kinh tế)
Trong quản lý sản xuất kinh doanh, phạm trù hiệu quả kinh tế được biểu hiện ở những dạng khác nhau. Việc phân loại hiệu quả kinh tế là cơ sở để xác định các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế, phân tích hiệu quả kinh tế. Có ba cách phân loại sau:
1.2.1. Hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế quốc dân
Hiệu quả kinh tế cá biệt là hiệu quả thu được từ hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh. Biểu hiện trực tiếp của hiệu quả này là lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp thu được và chất lượng thực hiện các yêu cầu do xã hội đặt ra cho nó.
Hiệu quả kinh tế quốc dân được tính cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Về cơ bản nó là lượng sản phẩm thặng dư, thu nhâp quốc dân hoặc tổng sản phẩm xã hội mà đất nước cơ bản thu được trong từng thời kỳ với lượng vốn sản xuất, lao động xã hội và tài nguyên đã hao phí.
Giữa hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế quốc dân có mối quan hệ nhân quả và tác động qua lại lẫn nhau. Trong việc thực hiện cơ chế của thị trường có sự quản lý của Nhà nước, không những cần tính toán và đạt đựợc hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp mà còn cần phải đạt được hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Mức hiệu quả kinh tế quốc dân lại phụ thuộc vào mức hiệu quả cá biệt, nghĩa là phụ thuộc vào sự cố gắng của mỗi doanh nghiệp và của người lao động. Đồng thời xã hội qua hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước cũng có tác động trực tiếp đến hiệu quả cá biệt. Mỗi cơ chế quản lý đúng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao hiệu quả kinh tế cá biệt. Ngược lại, một chính sách lạc hậu, sai lầm trở thành lực cản kìm hãm việc nâng cao hiệu quả kinh tế.
1.2.2. Hiệu quả của chi phí bộ phận và hiệu quả của chi phí tổng hợp
Hiệu quả chi phí tổng hợp thể hiện mối tương quan giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả chi phí bộ phận thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí từng yếu tố cần thiết để thực hiện nhiệm vụ ấy (lao động, thiết bị, nguyên vật liệu...).
Việc tính toán hiệu quả chi phí tổng hợp cho thấy hiệu quả hoạt động chung của doanh nghiệp, hay nền kinh tế quốc dân. Việc tính toán và phân tích hiệu quả chi phí bộ phận cho thấy sự tác động của những nhân tố nội bộ sản xuất kinh doanh đến hiệu quả kinh tế chung. Về nguyên tắc hiệu quả của chi phí tổng hợp phụ thuộc vào các chi phí bộ phận. Việc giảm chi phí bộ phận sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm chi phí tổng hợp, tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy các doanh nghiệp phải quan tâm, xác định các biện pháp đồng bộ để thu được hiệu quả tổng hợp trên cơ sở các bộ phận cấu thành.
1.2.3. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối
Trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh, việc xác định hiệu quả nhằm hai mục đích:
Một là, phân tích và đánh giá trình độ quản lý và sử dụng các loại chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hai là, phân tích luận chứng về kinh tế - xã hội các phương án khác nhau, trong việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nào đó để chọn lấy một phương án có lợi nhất.
Hiệu quả tuyệt đối là hiệu quả được tính toán cho từng phương án bằng cách xác định mức lợi ích thu được với lượng chi phí bỏ ra. Chẳng hạn tính toán lượng lợi nhuận thu được từ một đồng chi phí hoặc một đồng vốn bỏ ra. Về mặt lượng, hiệu quả này được biểu hiện ở các chỉ tiêu khác nhau, như năng suất lao động, thời hạn hoàn vốn, tỷ suất vốn, lợi nhuận ..
Hiệu quả tương đối được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối, hoặc so sánh tương quan các đại lượng thể hiện chi phí, hoặc kết quả các phương án, để chọn các phương án có lợi nhất về kinh tế.
Trên thực tế để thực hiện một nhiệm vụ nào đó người ta không chỉ tìm thấy một phương án mà có thể đưa ra nhiều phương án. Mỗi phương án đòi hỏi lượng chi phí khác nhau. Vì vậy muốn đạt hiệu quả cao, người làm công tác kinh doanh nói chung và kinh doanh thương mại nói riêng phải biết cân nhắc giữa các phương án, so sánh hiệu quả tương đối để tìm giải pháp tối ưu.
Hiệu quả tương đối và hiệu quả tuyệt đối trong kinh doanh thương mại có quan hệ chặt chẽ với nhau, song chúng lại có tính độc lập tương đối. Trước hết xác định hiệu quả tuyệt đối là cơ sở để xác định hiệu quả tương đối. Nghĩa là trên cơ sở những chỉ tiêu tuyệt đối của từng phương án người ta so sánh mức hiệu quả ấy của từng phương án với nhau. Mức chênh lệch là hiệu quả tương đối.
Tuy vậy có những chỉ tiêu tương đối được xác định không phụ thuộc vào việc xác định hiệu quả tuyệt đối. Chẳng hạn việc so sánh giữa các mức chi phí của các phương án khác nhau để chọn ra phương án có mức chi phí thấp nhất. Đây chỉ là sự so sánh chi phí của các phương án chứ không phải là việc so sánh mức hiệu quả tuyệt đối của các phương án.
Như vậy thông qua khái niệm, bản chất, đặc điểm của hiệu quả kinh doanh chúng ta có thể thấy rằng:
Kết quả hoạt động kinh doanh về cơ bản được xác định bằng các chỉ tiêu, thể hiện mục tiêu kinh doanh cần đạt được như doanh số bán ra, lợi nhuận. Hiệu quả kinh doanh thương mại được tính bằng các chỉ tiêu hiệu quả khác nhau bao gồm các chỉ tiêu hiệu quả đặc thù. Còn hiệu quả xã hội của hoạt động kinh doanh thương mại được đánh giá thông qua việc thực hiện các chủ trương, chính sách và các biện pháp xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định. Tuy nhiên việc phân định ranh giới hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp phải được xem xét một cách toàn diện cả về mặt không gian và thời gian với hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Về mặt thời gian: hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trong từng giai đoạn, từng thời kỳ kinh doanh không được giảm sút hiệu quả của các giai đoạn, các thời kỳ tiếp theo. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp không được vì lợi ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài. Không thể quan niệm một cách cứng nhắc là cứ giảm chi tăng thu là luôn đạt hiệu quả mà phải hiểu là giảm chi tăng thu một cách toàn diện. Tức là thu và chi có thể tăng đồng thời nhưng tốc độ tăng của chi phí phải nhỏ hơn tốc độ tăng của doanh thu. Có như vậy mới đem lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp. Nói như vậy vì thực tế và lý thuyết kinh doanh đã chỉ rõ chi và thu có quan hệ tương hỗ với nhau. Chỉ có chi mới có thu, kinh doanh không thể không bỏ chi phí. Phải đảm bảo có lãi, dám chi để có thu nếu xét thấy tính hiệu quả của nó.
Về mặt không gian: hiệu quả kinh doanh chỉ có thể nói là đạt một cách toàn diện khi toàn bộ hoạt động của các bộ phận, các tổ chức, các khâu mang lại hiệu quả không làm giảm hiệu quả chung. Mỗi kết quả tính được từ một giải pháp kinh tế hay hoạt động kinh doanh nào đó trong từng đơn vị nội bộ hay toàn bộ đơn vị nếu không làm tổn hại đến hiệu quả chung thì được coi là hiệu quả, mới trở thành mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp.
Như vậy đánh giá hiệu quả kinh doanh nhằm mục đích nhận thức đúng đắn hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp từ đó tìm ra những tồn tại, những ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả kinh doanh để từ đó tìm ra những giải pháp, phương hướng khắc phục, góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và đem lại hiệu quả cho toàn xã hội.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả
2.1. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp
Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp là tập hợp các nhân tố mà doanh nghiệp có thể kiểm soát được cũng như có thể điều chỉnh ảnh hưởng của chúng. Tập hợp các nhân tố này bao gồm: lực lượng lao động, trình độ phát triển kinh tế kỹ thuật, mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp, hệ thống trao đối xử lý thông tin.... Mỗi nhân tố có một ảnh hưởng nhất định, tuỳ theo mỗi doanh nghiệp và loại hình kinh doanh của doanh nghiệp đó.
2.1.1. Nhân tố lao động
Lực lượng lao động đóng vai trò then chốt trong kinh doanh thương mại - dịch vụ. Trình độ, năng lực của người lao động là nhân tố tác động trực tiếp tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp cũng như tới kết quả, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó việc tổ chức phân công hiệp tác lao động hợp lý giữa các bộ phận cá nhân trong doanh nghiệp, sử dụng đúng người đúng việc phải xuất phát từ yêu cầu mới tìm người. Tận dụng một cách tốt nhất năng lực sở trường của người lao động là một yêu cầu không thể thiếu được trong tổ chức nhân lực của công ty. Có thể coi con người phù hợp trong kinh doanh là điều kiện cần trong kinh doanh, tổ chức lao động hợp lý là điều kiện đủ, quan trọng để kinh doanh đạt hiệu quả. Việc bố trí nhân lực phụ thuộc vào chiến lược, đặc điểm kinh doanh của công ty. Tổ chức nhân lực chặt chẽ (chuyên môn hoá cao) sẽ giảm tính độc lập, sáng tạo của người lao động. Nhưng tổ chức lỏng lẻo quá sẽ gây lộn xộn, khó quản lý, khó tập chung sức mạnh vào mục tiêu chung. Tuy nhiên tổ chức nhân lực phải đảm bảo nguyên tắc chung là đúng người đúng việc, quyền lợi trách nhiệm rõ ràng sao cho có thể thực hiện nhanh nhất, đồng bộ mệnh lệnh của cấp trên đồng thời khuyến khích được tính độc lập sáng tạo của công nhân viên.
Trong kinh doanh thương mại - dịch vụ, xuất phát từ chức năng chính là mua bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ nên việc tổ chức nhân lực hợp lý, chặt chẽ là yêu cầu không thể thiếu được, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do kinh doanh thương mại - dịch vụ có chu kỳ kinh doanh ngắn, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của sự biến động thị trường nên đòi hỏi bộ máy nhân lực phải gọn nhẹ, linh hoạt. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu kinh doanh, mang lại hiệu quả cao.
2.1.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật
Cơ sở vật chất kỹ thuật trong doanh nghiệp là yếu tố vật chất hữu hình quan trọng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói cơ sở vật chất kỹ thuật là nền tảng quan trọng để thực hiện các hoạt động kinh doanh. Cơ sở vật chất của doanh nghiệp sẽ đem lại sức mạnh kinh doanh cho doanh nghiệp trên cơ sở sức sinh lời của tài sản.
Nhân tố này đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp thương mại - dịch vụ. Là những đơn vị kinh doanh trong lĩnh vực lưu thông, cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty tuy không chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản nhưng nó lại có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (nhà cửa, cửa hàng, kho hàng, bến bãi ...). Cơ sở vật chất của doanh nghiệp càng được bố trí hợp lý bao nhiêu thì càng đem lại hiệu quả cao bấy nhiêu. Điều này có thể thấy khá rõ nếu một doanh nghiệp có hệ thống kho tàng, cửa hàng nằm trong khu vực dân cư có nhu cầu lớn, thuận lợi giao thông... sẽ đem lại cho doanh nghiệp tài sản vô hình lớn. Đó là lợi thế kinh doanh khó có thể có từ các doanh nghiệp khác.
Hệ thống cơ sở vật chất của doanh nghiệp bố trí thành mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp. Mạng lưới kinh doanh có vai trò rất lớn giúp doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường, mở rộng thị trường tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp góp phần mang lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp, nâng cao tính ổn định trong kinh doanh. Mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp cần phù hợp với mỗi doanh nghiệp, trên mỗi thị trường. Mạng lưới kinh doanh phải đảm bảo tính hợp lý, tiết kiệm cũng như kiểm soát được giữa các mắt xích trong mạng lưới. Trong thương mại - dịch vụ yêu cầu mạng lưới kinh doanh phải đảm bảo bám sát thị trường phục vụ khách hàng nhanh, kịp thời tiết kiệm chi phí. Mạng lưới phải dễ quản lý nhưng vẫn đảm bảo tính bao quát thị trường.
2.1.3. Nhân tố tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý
Quản trị trong doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng đến thành công hay thất bại trong kinh doanh. Chính vì vậy mà nó ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh. Trước hết, để quản trị doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ lưỡng các yếu tố ngoại lai có ảnh hưởng. Sự phân tích đầy đủ các yếu tố trả lời cho chúng ta câu hỏi: Doanh nghiệp đang ở trong môi trường nào? Các doanh nghiệp suy cho cùng thường bị trói buộc bởi sự hạn hẹp về khả năng tài chính. Điều đó trả lời câu hỏi: Doanh nghiệp đang ở trong hoàn cảnh nào?.
Tất cả các hoạt động quản trị nếu thiếu các ý tưởng mới thì chỉ còn là một sự chấp nhận xơ cứng một quá trình cũ. Mọi thắng lợi chỉ có thể có nếu hoạt động quản trị bắt đầu từ các ý tưởng mới. Một doanh nghiệp nếu yếu tố quản trị non kém sẽ ảnh hưởng tiêu cực rất lớn tới kết quả cũng như hiệu quả kinh doanh, là điều tệ hại đối với doanh nghiệp trên thương trường. Kết quả là doanh nghiệp sẽ không thể kinh doanh có hiệu quả được. Nhưng bằng cách nào có thể xác định được yếu tố quản trị mạnh hay yếu? Yếu tố quản trị như thế nào là mạnh? Cơ cấu tổ chức của ban lãnh đạo như thế nào là hợp lý? Điều này phụ thuộc vào mỗi doanh nghiệp, mỗi loại hình kinh doanh. Nhưng một yêu cầu chung của các nhân tố quản trị là phải đảm bảo các nguyên tắc gọn nhẹ, thống nhất, linh hoạt vì chỉ có như vậy mới hạ thấp chi phí hành chính, tránh chồng chéo trách nhiệm tạo nên sức ỳ trong quản trị.
Ngoài những nhân tố trên, nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp còn có các nhân tố như: Nhân tố hệ thống trao đổi xử lý thông tin, nhân tố toán kinh tế. Các nhân tố này có ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh với các mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào mỗi doanh nghiệp, mỗi loại hình kinh doanh. Những nhân tố này hợp lý và kết hợp chặt chẽ với nhân tố trên sẽ tạo nên sức mạnh to lớn cho doanh nghiệp, tạo ra nội lực để doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
2.2. Nhóm nhân tố ngoài doanh nghiệp
Nhân tố ngoài doanh nghiệp là tập hợp các nhân tố nằm ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp. Nhóm nhân tố này bao gồm: môi trường kinh doanh, môi trường cạnh tranh, môi trường luật pháp - chính trị, môi trường tự nhiên, cơ sở hạ tầng, môi trường kinh tế, các chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước... Các nhân tố này doanh nghiệp không thể kiểm soát được mà phải tìm biện pháp thích ứng với các nhân tố đó.
2.2.1. Nhân tố môi trường kinh doanh
Nhân tố môi trường kinh doanh bao gồm các nhân tố: đối thủ cạnh tranh, thị trường, cơ cấu ngành, tập quán và mức thu nhập bình quân của dân cư ...
ã Đối thủ cạnh tranh: Nếu doanh nghiệp có đối thủ cạnh tranh mạnh thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Vì giờ đây doanh nghiệp chỉ có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh bằng cách nâng cao chất lượng để đẩy mạnh tiêu thụ, giảm giá thành, tổ chức lại bộ máy hoạt động kinh doanh cho phù hợp, hợp lý hơn, tối ưu hơn để bù đắp lại những mất mát của doanh nghiệp do cạnh tranh về giá, cạnh tranh về chất lượng, mẫu mã... Như vậy, đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng rất lớn đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Nó vừa là đối thủ mang lại trở ngại đồng thời lại là động lực của sự phát triển kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường khi xuất hiện đối thủ cạnh tranh thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty sẽ bị giảm một cách tương đối.
ã Thị trường: ở đây thị trường bao gồm cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra của doanh nghiệp. Bởi vì thị trường ảnh hưởng rất lớn đến giá thành sản phẩm, tính liên tục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100858.doc