Trong quá trình hội nhập, làn sóng đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng trong đó có nhiều doanh nghiệp của Nhật Bản. Đến cuối năm 2006, đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Nhật Bản vào Việt Nam đạt 7,4 tỷ USD. Nhật Bản đang được coi là nhà đầu tư hiệu quả nhất tại Việt Nam, đứng đầu về số vốn thực hiện, trong đó chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp (85%). Chính phủ hai nước đều thể hiện quyết tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Nhật Bản làm ăn tại Việt Nam thông qua việc ký kết và thực hiện Hiệp định xúc tiến, bảo hộ đầu tư và sáng kiến chung nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
Lực lượng lao động Việt Nam được thu hút vào làm việc trong các doanh nghiệp Nhật Bản ngày càng nhiều. Điều đó đã đóng góp đáng kể vào sự ổn định và phát triển nền kinh tế, nó giải quyết được nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động.
Trong thời gian qua thực tế cho thấy, lợi ích người lao động trong các doanh nghiệp có vốn Nhật Bản, phần lớn được đảm bảo, không xảy ra các cuộc đình công, bãi công của công nhân, ông chủ đánh đập công nhân như một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khác
Bên cạnh những thành tựu đó cũng còn có những hạn chế gây ảnh hưởng đến lợi ích của người lao động mà nếu để kéo dài sẽ gây bất lợi không nhỏ đối với sự phát triển không chỉ của người lao động mà còn đối với chính DN. Đầu tháng 10.2006, Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) đã công bố kết quả điều tra về xu hướng và các vấn đề lực lượng lao động và tình hình phát triển nguồn nhân lực ở châu Á, trong đó có Việt Nam. Kết quả của cuộc điều tra này cho thấy, tại Việt Nam, tỷ lệ các công ty lo ngại về vấn đề tăng lương đặc biệt cao, chiếm tới 75,9%. Mặc dù tăng lương là xu hướng khá phổ biến ở hầu hết các nước, nhưng ở Việt Nam, các công ty Nhật Bản vẫn khai thác được lợi thế về mức lương thấp. Xét tới mức lương hàng tháng, khoảng cách giữa lương của các công nhân ở Việt Nam và ở miền Nam Trung Quốc có khoảng cách đáng kể, khoảng 70 – 80 USD (với cùng một công việc như nhau) [43].
87 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1139 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình hội nhập, làn sóng đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng trong đó có nhiều doanh nghiệp của Nhật Bản. Đến cuối năm 2006, đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Nhật Bản vào Việt Nam đạt 7,4 tỷ USD. Nhật Bản đang được coi là nhà đầu tư hiệu quả nhất tại Việt Nam, đứng đầu về số vốn thực hiện, trong đó chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp (85%). Chính phủ hai nước đều thể hiện quyết tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Nhật Bản làm ăn tại Việt Nam thông qua việc ký kết và thực hiện Hiệp định xúc tiến, bảo hộ đầu tư và sáng kiến chung nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
Lực lượng lao động Việt Nam được thu hút vào làm việc trong các doanh nghiệp Nhật Bản ngày càng nhiều. Điều đó đã đóng góp đáng kể vào sự ổn định và phát triển nền kinh tế, nó giải quyết được nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động.
Trong thời gian qua thực tế cho thấy, lợi ích người lao động trong các doanh nghiệp có vốn Nhật Bản, phần lớn được đảm bảo, không xảy ra các cuộc đình công, bãi công của công nhân, ông chủ đánh đập công nhân như một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khác …
Bên cạnh những thành tựu đó cũng còn có những hạn chế gây ảnh hưởng đến lợi ích của người lao động mà nếu để kéo dài sẽ gây bất lợi không nhỏ đối với sự phát triển không chỉ của người lao động mà còn đối với chính DN. Đầu tháng 10.2006, Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) đã công bố kết quả điều tra về xu hướng và các vấn đề lực lượng lao động và tình hình phát triển nguồn nhân lực ở châu Á, trong đó có Việt Nam. Kết quả của cuộc điều tra này cho thấy, tại Việt Nam, tỷ lệ các công ty lo ngại về vấn đề tăng lương đặc biệt cao, chiếm tới 75,9%. Mặc dù tăng lương là xu hướng khá phổ biến ở hầu hết các nước, nhưng ở Việt Nam, các công ty Nhật Bản vẫn khai thác được lợi thế về mức lương thấp. Xét tới mức lương hàng tháng, khoảng cách giữa lương của các công nhân ở Việt Nam và ở miền Nam Trung Quốc có khoảng cách đáng kể, khoảng 70 – 80 USD (với cùng một công việc như nhau) [43].
Do đó, vấn đề lợi ích kinh tế của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn nước ngoài là một vấn đề cần được nghiên cứu trong tình hình hiện nay, để có những giải pháp cần thiết. Xuất phát từ thực tế đó, Học viên chọn đề tài: "Lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội" làm luận văn thạc sĩ Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề lợi ích kinh tế ở các DN nói chung và các DN có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng đã có một số tác giả đã nghiên cứu:
- Lợi ích kinh tế cá nhân của người lao động trong các doanh ngiệpNhà nước ở nước ta (Qua thực tiễn ở Hải Phòng) (Luận văn Thạc sĩ, 1995) của Đỗ Đăng Dân.
- Lợi ích kinh tế của người lao động, vai trò của công đoàn với việc bảo vệ lợi ích này trong các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân (Luận văn Thạc sĩ, 1995) của Nguyễn Lợi.
- Trần Quang Lâm, An Như Hải chủ biên (2006), Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Đỗ Lộc Diệp (2003), Mỹ - Âu - Nhật văn hoá và phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Trần Thị Nhung, Nguyễn Huy Dũng (2005). Phát triển nguồn nhân lực trong các công ty Nhật Bản hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản (Luận văn Thạc sĩ, 1998) của Đỗ Viết Thẩn.
- Bàn về sự hình thành và kết hợp các lợi ích kinh tế trong nông nghiệp tập thể hiện nay ở nước ta (Luận án. PTS, 1988) của Nguyễn Duy Hùng
- Lợi ích kinh tế của người lao động và vận dụng nó vào lực lượng vũ trang trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam (Luận án Tiến sĩ khoa học quân sự, 1998), Học viện chính trị Quân Sự
Tuy nhiên để đi sâu vào vấn đề "Lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội" thì chưa có tác giả nào nghiên cứu. Do đó, chúng tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở kế thừa các tư liệu đã có, kết hợp với khảo sát thực tiễn
nhằm góp phần làm rõ thêm những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội. Trên cơ sở đó nhằm đề xuất những phương hướng và giải pháp góp phần bảo vệ lợi ích kinh tế cho người lao động trong các doanh nghiệp có vốn nước ngoài.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích trên, luận văn đi vào giải quyết các nhiệm vụ sau:
Một là: Hệ thống hoá làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về lợi ích kinh tế nói chung và lợi ích kinh tế cá nhân người lao động nói riêng.
Hai là: Đi sâu nghiên cứu về thực trạng tình hình lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhật Bản, vạch ra những mặt ưu điểm và hạn chế cần phải khắc phục.
Ba là: Đề ra được hệ thống giải pháp, nhằm bảo vệ lợi ích của người lao động. Từ đó đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhật, góp phần vào công cuộc xây dựng, kiến thiết, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế trên địa bàn thủ đô và trong cả nước.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Đầu tư nước ngoài là một phạm trù rộng, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản.
- Đề tài chỉ nghiên cứu lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội, còn sự đầu tư của các quốc gia, và các lĩnh vực khác không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn.
- Phạm vi nghiên cứu là các tư liệu có được trong khoảng thời gian từ năm 1993 – 2006.
4. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các phương pháp chủ yếu của Kinh tế chính trị Mác – Lênin, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: khảo sát thực tiễn, thống kê, phỏng vấn chuyên gia, phân tích tổng hợp, so sánh…
5. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Với những kết quả nghiên cứu đã đạt được trên đây, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập ở các trường Cao đẳng và Đại học trong khuôn khổ môn Kinh tế chính trị.
- Luận văn có thể sử dụng là tài liệu tham khảo bổ ích cho việc soạn thảo các văn bản pháp lý đối với việc sử dụng lực lượng lao động của các doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Thông qua những thành tựu và những đóng góp. luận văn có những ý nghĩa thực tiến góp phần giúp cho các doanh nghiệp nước ngoài có vốn đầu tư ở Việt Nam cần phải có quan điểm và nhận thức sâu sắc về vai trò của lợi ích kinh tế đối với người lao động, trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó họ có thái độ cư xử đúng đắn, phù hợp với đạo đức, với quy ước của pháp luật trong quá trình các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.1. LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
1.1.1. Bản chất lợi ích kinh tế và lợi ích kinh tế của người lao động
1.1.1.1. Bản chất của lợi ích kinh tế
Trong bất cứ nền sản xuất xã hội nào, lợi ích kinh tế đều là mối quan tâm của tất cả các chủ thể kinh tế và các thành viên trong xã hội. Điều đó được biểu hiện rất đa dạng, phong phú. Do đó, lợi ích kinh tế là vấn đề cơ bản xuyên suốt mọi nền sản xuất, của toàn bộ tiến trình vận động và phát triển của lịch sử. Theo quan điểm của các nhà kinh điển thì lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của những quan hệ xã hội, những quan hệ kinh tế trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong tác phẩm “Vấn đề nhà ở” Ph.Ăngghen đã viết: “Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích” [30, tr.376].
Khi bàn về lợi ích các nhà nghiên cứu lý luận trong và ngoài nước từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau đã nêu lên những khái niệm về lợi ích kinh tế:
V.P Ca-man-kin cho rằng: “Lợi ích kinh tế của một chủ thể nhất định là sự tác động lẫn nhau giữa các nhu cầu kinh tế của chủ thể đó” [6, tr.13].
Theo quan điểm của tác giả Đào Duy Tùng thì: Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện những quan hệ kinh tế, quan hệ giữa người và người trong sản xuất [39, tr.9].
Điều này thể hiện: người nào nắm tư liệu sản xuất, điều hành quá trình sản xuất, quyết định phân phối sản phẩm cũng chính là người giữa vai trò quyết định trong hệ thống sản xuất.
Tác giả Vũ Hữu Ngoạn cũng khẳng định: Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, là hình thức biểu hiện trước hết của quan hệ sản xuất… Lợi ích kinh tế là cơ chế tác động chung của tất cả các quy luật kinh tế [33].
Bàn về lợi ích kinh tế tác giả Khoa Minh lại cho rằng: Lợi ích kinh tế là sự biểu hiện của những quan hệ kinh tế đối với việc thoả mãn những nhu cầu vật chất cần thiết cho đời sống dưới hình thức mục đích xác định của hoạt động kinh tế của con người…Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện cụ thể các quan hệ kinh tế và quy luật phản ánh các quan hệ kinh tế đó [32, tr. 296].
Theo Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin: Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, nó phản ánh mục đích và động cơ khách quan của các chủ thể kinh tế khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ thống quan hệ sản xuất quyết định [2, tr.289].
Từ những quan điểm khác nhau trên thấy rằng: Trong bất cứ xã hội nào con người muốn tồn tại phải thoả mãn nhu cầu về ăn mặc, ở, đi lại, bảo vệ sức khoẻ, học tập và giải trí. Nói cách khác con người muốn sống, tồn tại cần thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần để phát triển thể lực và trí lực của mình. Toàn bộ những nhu cầu đó được biểu hiện dưới một hình thức chung nhất chính là lợi ích kinh tế. Nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển kinh tế xã hội.
Trong xã hội có nhiều động lực như động lực kinh tế, chính trị … song động lực chủ yếu, suy cho cùng, là động lực kinh tế vì nó có ý nghĩa quyết định thúc đẩy con người hành động, chi phối nội dung các động lực khác. Cuộc sống của con người bao giờ cũng đòi hỏi nhu cầu vật chất và văn hoá ngày càng cao. Nhưng không phải bất kỳ nhu cầu nào của con người cũng được thoả mãn và đều là lợi ích kinh tế, mà chỉ có những nhu cầu mang tính hiện thực mới được thoả mãn và mới thuộc phạm trù lợi ích kinh tế. Nhu cầu đó phụ thuộc vào trình độ phát triển của phương thức sản xuất nhất định. Hay chính là: không phải bản thân nhu cầu là lợi ích kinh tế, mà nhu cầu khi được xác định về mặt xã hội mới trở thành lợi ích kinh tế. Như vậy, lợi ích kinh tế có liên quan đến nhu cầu của con người. Nhưng không phải mọi nhu cầu của con người đều trở thành lợi ích kinh tế, mà chỉ có những nhu cầu vật chất (nhu cầu kinh tế) mới trở thành lợi ích kinh tế.
Về bản chất phải khẳng định rằng: Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan. Lợi ích kinh tế muốn được thực hiện phải thông qua hoạt động có nhận thức của con người. Và con người càng nhận thức tự giác được phạm trù lợi ích, thì hoạt động của họ càng thu được kết quả cao.
Quan hệ sản xuất là khách quan, nó luôn tồn tại trong vận động (như mọi sự vật hiện tượng). Sự vận động của QHSX biểu hiện ở sự vận động của các quy luật kinh tế do nó trực tiếp sinh ra (nghĩa là khi QHSX được xác lập, làm nảy sinh các quy luật kinh tế phù hợp với bản chất của QHSX). Thông qua sự vận động của các quy luật kinh tế mà QHSX ảnh hưởng tới quá trình sản xuất. Mỗi quy luật kinh tế, phản ánh một mặt của QHSX, các quy luật kinh tế là quy luật xã hội, phương thức hoạt động của chúng đều phải thông qua con người. Do đó, tính khách quan của quy luật kinh tế thể hiện qua lợi ích kinh tế để chi phối con người hành động theo quy luật.
Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của QHSX, là một khâu chính của cơ chế tác động chung của quy luật kinh tế do QHSX sinh ra. Không có lợi ích kinh tế thuần tuý tồn tại ngoài con người hoặc là con người không ý thức gì về lợi ích. Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, những con người có khả năng nhận thức nó và vì nó mà hành động. Ở đây, cái khách quan được biểu hiện dưới dạng chủ quan, mang hình thức chủ quan, cái chủ quan do khách quan qui định. Trong thực tế, các động cơ hành động kinh tế của con người có vẻ chủ quan nhưng thực ra nó là động cơ mang tính khách quan. Một mặt, thông qua lợi ích, con người mưu cầu đời sống; mặt khác, thông qua lợi ích mà xu hướng phát triển khách quan của sản xuất xã hội được thực hiện. Vì vậy, lợi ích (trước hết là lợi ích kinh tế) trở thành một trong những động lực cơ bản, phổ biến thúc đẩy sản xuất và đời sống xã hội phát triển. Ph.Ăngghen cho rằng, lợi ích kinh tế là những động cơ đã lay chuyển những quân chúng đông đảo. Và khi chúng biến thành sự kích thích hoạt động của con người “thì chúng lay động đời sống nhân dân”.
Từ sự tiếp cận ở trên có thể khẳng định rằng: Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan nó phát sinh và tồn tại trên cơ sở của một quan hệ sản xuất nhất định, là hình thức biểu hiện trước hết của quan hệ sản xuất và phản ánh mặt bản chất nhất của QHSX. Lợi ích kinh tế không tuỳ thuộc vào yếu tố chủ quan của con người (không tuỳ thuộc ở chỗ là con người có nhận thức được nó hay không, mà do địa vị của họ trong QHSX quyết định).
1.1.1.2. Lợi ích kinh tế của người lao động
Hiện nay ở Việt Nam có một lực lượng lao động dồi dào với hơn 49 triệu người (hàng năm tăng thêm từ 1,3 đến 1,5 triệu người), đang hoạt động trong các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế khác nhau của nền kinh tế quốc dân, bao gồm tất cả những người làm việc trong lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất không vật chất; những người có chuyên môn kỹ thuật; người lao động trực tiếp và gián tiếp, người lao động chân tay và trí óc…Do sự phát triển của phân công lao động xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế, sự gia nhập WTO và nhất là trong một nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, thì cần coi tất cả mọi người - bất kỳ ai? làm gì? ở đâu? thuộc thành phần kinh tế nào? Tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm cho xã hội và thu nhập quốc dân là người lao động
Người lao động ở mọi thời đại kinh tế, đều là những người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, ra những vật phẩm có giá trị sử dụng cho bản thân và cho xã hội. Nhưng trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, địa vị kinh tế và do đó địa vị xã hội của họ trong hệ thống các quan hệ kinh tế - xã hội cũng khác nhau. Rõ ràng lợi ích kinh tế của người nô lệ lao động dưới roi vọt của người quản nô khác hoàn toàn với lợi ích kinh tế của người công nhân làm thuê, dưới sự quản lý của các chủ tư bản.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay, khi người lao động tự do làm việc theo năng lực và hưởng theo thành quả lao động của mình. Giá trị sức lao động được quy về giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, đồng thời phản ánh được mức thoả mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu đời sống vật chất tinh thần của bản thân và gia đình người lao động. Sự hoạt động của một DN, thì lợi ích kinh tế không phải ở trong nhận thức của con người, mà ở trong một cơ sở kinh tế nhất định, nhưng phương thức thực hiện lợi ích lại tuỳ thuộc vào nhận thức của con người. Do đó, trong quá trình lao động, sản xuất, người lao động không thể đặt lợi ích của mình ngoài sự tồn tại của DN, cũng như kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN mà họ đang làm việc. Ngược lại DN không tự nó đưa lại lợi ích cho người lao động, nó chỉ tạo ra khả năng khách quan để người lao động thực hiện lợi ích mà thôi như việc làm, điều kiện làm việc, môi trường thể hiện năng lực….và do vậy, lợi ích kinh tế phản ánh quan hệ kinh tế giữa người lao động với người lao động, giữa người lao động với chủ DN… Điều này đã được Ph.Ăngghen khẳng định: “Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích” [29].
Từ sự nghiên cứu tiếp cận phạm trù lợi ích kinh tế và phạm trù người lao động nói chung, có thể nêu lên một cách khái quát: Lợi ích kinh tế người lao động là trong quá trình sản xuất người lao động đem trí tuệ, tài năng lao động của chính mình để lao động một cách tự giác, sáng tạo nhằm làm ra ngày càng nhiều của cải vật chất thoả mãn tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của bản thân, gia đình và làm tròn nghĩa vụ với xã hội và cộng đồng.
Lợi ích kinh tế là phạm trù kinh tế khách quan, là hình thức biểu hiện của các quan hệ kinh tế, các quy luật kinh tế và phản ánh phương thức, mức độ thoả mãn các nhu cầu vật chất, tinh thần của chủ thể kinh tế, của các thành viên khác nhau trong nền sản xuất xã hội. Do đó khái niệm lợi ích kinh tế của người lao động ở nước ta hiện nay thể hiện trên hai nội dung chủ yếu:
Thứ nhất: Người lao động phát huy được khả năng sáng tạo trong một môi trường chính trị - xã hội ưu việt. Thể hiện, người lao động sẽ lao động một cách tự giác, sáng tạo và có hiệu quả ngày càng cao vì lợi ích của chính người lao động, của tập thể, của cộng đồng. Tuy nhiên, muốn biến khả năng đó thành hiện thực, cần phải có một cơ chế, hình thức kết hợp hài hoà các lợi ích kinh tế trong một hệ thống, nhằm khơi dậy phát huy một sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, của từng tập thể và của từng cá nhân người lao động.
Thứ hai: thoả mãn tốt hơn những nhu cầu về vật chất, tinh thần cá nhân và gia đình người lao động. Trong thực tế lao động sản xuất và cuộc sống nói chung, đa phần những người lao động không chỉ quan tâm đến mức độ thoả mãn các nhu cầu về đời sống vật chất (thu nhập thông qua tiền lương, tiền thưởng và các sản phẩm của lao động), ngoài ra lợi ích kinh tế của người lao động còn biểu hiện thông qua việc hưởng thu các phúc lợi xã hội như: quyền có việc làm, chăm sóc ý tế, các khoản phụ cấp, trợ cấp khác.
Như vậy, lợi ích của người lao động là nói tới khả năng lao động và thành quả lao động với cách thức, mức độ thoả mãn những nhu cầu về đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của người lao động. Khi lợi ích kinh tế của người lao động được thực hiện sẽ tạo ra động lực to lớn thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội phát triển. Đồng thời phát triển sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội sẽ tạo ra tiền đề, khả năng thoả mãn ngày càng hơn nhu cầu về đời sống vật chất và tinh thần của người lao động.
1.1.2. Vai trò của lợi ích kinh tế đối với người lao động
Ph.Ăngghen cho rằng: Lợi ích kinh tế là nguyên tắc điều tiết cơ bản mà tất cả mọi nguyên tắc phải tuân theo.Do đó, bất cứ hoạt động nào của con người cũng bị chi phối bởi hai động lực chính đó là: Động lực vật chất (kinh tế) và động lực tinh thần. Để đạt được những kết quả cao trong hoạt động kinh tế, không chỉ duy nhất là hoạt động kinh tế, mà còn cả động lực tinh thần. Nhưng, ở đây hoạt động kinh tế luôn giữ vai trò quyết định nhất, là động lực quan trọng thúc đẩy hoạt động của con người. Vì mọi hoạt động của con người có mối quan hệ phụ thuộc trực tiếp và chặt chẽ vào hai yếu tố đó là: Khả năng của con người và động lực kích thích. Cho nên, các chính sách kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế bao giờ cũng phải đặc biệt quan tâm đến lợi ích thiết thân của người lao động, tức là lợi ích kinh tế, vì nó luôn là động lực kích thích đối với con người, đối với tập thể và đối với toàn xã hội. Đồng thời khi lợi ích kinh tế được thực hiện thì nó cũng tạo cơ sở, tiền đề để thực hiện các loại lợi ích khác. Đời sống xã hội được phồn thịnh, thì đời sống tinh thần mới được nâng cao. Thực tế đã kiểm chứng; trong cơ chế kinh tế cũ, chúng ta chỉ tập trung quan tâm đến việc hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung bao cấp, mà ít quan tâm tới lợi ích người lao động, có người còn coi lợi ích cá nhân như là một điều xấu, e ngại nó như là cái gì trái với nền tảng căn bản của xã hội mới mà chúng ta đang xây dựng, điều đó đã làm triệt tiêu động lực của con người trong lao động sản xuất. Từ khi Đảng và Nhà nước ta đề ra chính sách mới, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, thực hiện phân phối theo lao động: Ai làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, có sức lao động mà không làm thì không hưởng. Đã tạo một động lực rất lớn đối với người lao động, kích thích tính sáng tạo, khả năng lao động của mỗi cá nhân trong sản xuất. Vì vậy, nhận thức đúng đắn lợi ích kinh tế là động lực kích thích hoạt động của con người, có ý nghĩa sâu sắc trong việc phát huy nhân tố con người, điều cơ bản nhất là phải giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích kinh tế, và phải coi lợi ích kinh tế là mục tiêu cơ bản nhất của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác, nguồn gốc sâu xa của mọi động lực kinh tế được bắt nguồn từ nhu cầu kinh tế và sự đòi hỏi được thoả mãn nhu cầu đó của con người.
Hiện nay, do nắm bắt được vai trò lợi ích kinh tế đối với người lao động là một tất yếu, để thực hiện mục tiêu lợi nhuận của mình các chủ DN đã biết quan tâm chăm lo phát huy yếu tố con người, coi trọng những lợi ích thiết thân của người lao động, dựa vào lực lượng khoa học kỹ thuật, công nhân lành nghề, đặt lòng tin, khắc phục sự kỳ thị, đảm bảo thu nhập xứng đáng với khả năng đóng góp của người lao động, tìm ra cơ chế quản lý phù hợp, coi trong việc sử dụng các quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, cải thiện điều kiện lao động… để người lao động yên tâm làm việc, phát huy tính sáng tạo, đưa lại hiệu sản xuất cao cho DN. Thế nhưng, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số DN kinh doanh kiểu “chụp giật”, lợi dụng sức lực của người lao động để thu lợi nhuận, không quan tâm đến lợi ích kinh tế của người lao động. Dẫn tới các cuộc đình công, bãi công đòi tăng lương…của người lao động đối với giới chủ. Đây là một vấn đề bức xúc hiện nay đòi hỏi các ngành chức năng giải quyết triệt để, làm sao người lao động yên tâm làm việc và được hưởng đúng với quyền lợi của mình.
1.2. CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH LỢI ÍCH KINH TẾ CỦANGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.2.1. Đặc điểm sử dụng lao động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Hai mươi năm, từ khi có luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (12/1987) đến nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreing Direct Investmen: FDI) ngày càng trở thành một trong những nguồn lực quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng lên đã thật sự có tác động tích cực vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế nhiều thành phần. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành nền kinh tế nước ta: “Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm” [11, tr.99]. Để khẳng định tầm quan trọng của chính sách khuyến khích thu hút đầu tư, trên tinh thần thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá trong kinh tế đối ngoại, Đại hội lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định: Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thực tế cho thấy khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đã có tốc độ phát triển nhanh, đóng góp ngày càng lớn cho tổng sản phẩm trong nước và khẳng định rõ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.
Thu hút FDI đã góp phần to lớn vào quá trình thay đổi cơ cấu của nền kinh tế, thực hiện CNH, HĐH đưa Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với sự phát triển tích cực của quan hệ ngoại giao với các nước, năm 2006 vị thế của Việt Nam trên thế giới tiếp tục nâng cao, nhất là sau khi trở thành thành viên thứ 150 của WTO, tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 14 tại Hà Nội và Hoa Kỳ thông qua Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR), càng làm tăng mối quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài đối với Việt Nam.
Theo số liệu của Bộ kế hoạch và Đầu tư: Tính đến cuối năm 2004, Việt Nam đã thu hút được 2.098 dự án đầu tư nước ngoài, với tổng số vốn đăng ký là 17,8 tỉ USD. Riêng năm 2005, số vốn đăng ký là 5,835 tỉ USD, tăng 45,2% so với năm 2004, vốn đầu tư nước ngoài đã thực hiện 3, 747 tỉ USD so với 2004. Đến năm 2006, FDI là điểm sáng nổi bật trong bức tranh kinh tế Việt Nam, với tổng số vốn FDI đăng ký mới và bổ sung đạt trên 10,2 tỉ USD, mức cao nhất từ năm 1988 (8,8 tỉ USD năm 1995) đến nay. Số vốn bình quân 1 dự án 9,4 triệu USD, cao gấp hai lần quy mô bình quân của năm 2005 (4,6 triệu USD/ dự án). Tính đến cuối năm 2006, cả nước đã có 6.813 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 60,4 tỉ, vốn thực hiện (của các dự án còn hoạt động) đạt trên 28,7 tỷ.
Việc thu hút vốn và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài được phân theo địa phương.
Bảng 1.1: Kết quả thu hút vốn và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài phân theo địa phương, giai đoạn 2000 – 2005
TT
Địa phương
Số dự án (%)
Tổng vốn đăng ký (%)
1.
TP. Hồ Chí Minh
30,19
23,4
2.
Hà Nội
11,11
16,74
3.
Đồng Nai
11,45
14,99
4.
Bình Dương
18,44
9,98
5.
Bà Rịa – Vũng Tàu
2,05
7,61
Nguồn: [4].
Theo số liệu trên thấy rằng, các thành phố lớn, có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi thuộc các vùng kinh tế trọng điểm vẫn là những địa phương thu hút được nhiều dự án và vốn đầu tư nước ngoài.
Bất cứ một hoạt động kinh tế nào đều gắn liền với lợi ích, bởi các hoạt động kin