Luận văn Kinh tế biển ở Nghệ An trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Hiện nay trên thế giới có 151 quốc gia ven biển, vùng biển rộng gần 109 triệu km2, biển được các nước xác định là vùng đặc quyền kinh tế trong giới hạn 200 hải lý theo công ước quốc tế. Biển đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia có biển, là nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền. Bên cạnh đó tài nguyên trên đất liền ngày một cạn kiệt, còn các tài nguyên, khoáng sản ở biển gần như nguyên thuỷ, vì vậy các quốc gia có biển đều có chiến lược phát triển hướng ra biển, tăng cường tiềm lực để khai thác và khống chế biển.

Việt Nam là một quốc gia có biên giới biển, có lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế ở biển Đông với diện tích hơn 1 triệu km2, thêm vào đó là đặc điểm không phải quốc gia nào cũng có, đó là Biển Đông của nước ta là biển hở thông với Đại Dương. Vì thế, Việt Nam không những có nhiều thuận lợi để khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên tái tạo và không tái tạo phong phú, quan trọng do thiên nhiên mang lại, mà còn là cơ hội giao thương với thế giới để phát triển nền kinh tế hội nhập mang nhiều thách thức, trong đó phát triển ngành hải sản, hàng hải, giao thông vận tải biển, các công trình ven biển, các ngành công nghiệp, dịch vụ, du lịch và thương mại quốc tế.

Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội trong đó có chiến lược kinh tế biển những năm gần đây được xây dựng và hoàn thiện trong bối cảnh hội nhập, phát triển và đầy thách thức, nhất là việc thực hiện Hiệp định Thương mại giữa Việt Nam-Koa Kỳ (BTA) và việc chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Chiến lược kinh tế biển của Việt Nam dựa trên mục tiêu lớn mà Đảng ta đặt ra cho thiên kỷ mới là khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế vùng biển, ven biển, kết hợp an ninh quốc phòng, tạo thế và lực để phát triển mạnh kinh tế -xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển Tổ quốc. Để đạt được mục tiêu đó thì một trong các biện pháp quan trọng nhất là xây dựng cơ cấu kinh tế vùng hướng mạnh về xuất khẩu, kết hợp khai thác kinh tế vùng ngập mặn và ven biển, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việc phát triển thương mại-hàng hải trong một chương trình liên kết các ngành kinh tế quan trọng như dầu khí, vận tải (đặc biệt là vận tải đa phương thức), kéo theo đó là công nghiệp đóng tàu, đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản, xây dựng cảng biển và dịch vụ cảng biển, tạo nên cơ cấu kinh tế công nghiệp ven biển hiện đại, nơi có số lượng và cường độ giao dịch thương mại-hàng hải diễn ra hết sức lớn.

Là quốc gia nằm bên bờ biển Đông, nước ta có vùng biển rộng 1 triệu km2, dài 3.260 km trải dài ở cả ba hướng Đông, Nam và Tây Nam. Ven bờ biển nước ta gần 300 đảo lớn nhỏ với diện tích 1.700 km2 gồm 2 quần đảo lớn là Trường Sa và Hoàng Sa. Biển Đông Việt Nam là con đường chiến lược và giao lưu thương mãi quốc tế giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, tài nguyên, khoáng sản phong phú và đa dạng là điều kiện thúc đẩy khai thác hiệu quả các nguồn lợi từ biển, phục vụ cho quá trình CNH-HĐH đất nước.

Từ lợi thế vị trí địa lý, vai trò của biển đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội nước ta là hết sức quan trọng. Ngày 5/6/1993 Bộ Chính Trị ra Nghị Quyết 03- NQ/TƯ về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt - trong đó khẳng định đẩy mạnh kinh tế biển đi đôi với tăng cường bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia. Ngày 22/9/1997 Bộ Chính trị ban hành chị thị số 20-CT/TƯ đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng CNH, HDH. Cho đến Hội nghị lần thu IV Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã thông qua Nghị quyết về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Như vậy, bây giờ chúng ta nhìn về kinh tế biển một cách toàn diện hơn.

Để triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020; phát huy vai trò của biển và vùng ven biển đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh- quốc phòng, Nghệ An là một tỉnh có biển hải phận rộng 4.230 hải lý vuông. Có chiều dài bờ biển hơn 82km trải dài từ Quỳnh Lập-Quỳnh Lưu cho đến Cửa hội - Cửa Lò. Bờ biển có nhiều kiểu địa hình phức tạp bình quân cứ 20 km có một cửa sông, đầm phá vũng vịnh nhỏ. Biển Nghệ An là nơi tập trung nhiều loài hải sản có giá trị kinh tế cao. Vùng ven biển Nghệ An thuộc 5 huyện, thị thành phố: Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, Thành phố Vinh và Thị xã Cửa Lò. đảo Mắt, đảo Ngư nằm giữa biển có hệ sinh thái đặc trưng của biển và vùng ven biển đối với phát triển kinh tế - xã hội về trí chiến lược an ninh, quốc phòng của Tỉnh, ngày 12/2/2007 Tỉnh uỷ Nghệ an ban hành NQ 16 về ”chương trình hành động, phối hợp các ngành, nghề phát triển kinh tế biển”. Từ thực tế trên, vấn đề "Kinh tế biển ở Nghệ An trong hội nhập kinh tế quốc tế" được lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.

 

doc142 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Kinh tế biển ở Nghệ An trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tÕ biÓn ë nghÖ an trong qu¸ tr×nh héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ HÀ NỘI - 2009 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 6 1.1. Đặc điểm của kinh tế biển trong hội nhập kinh tế quốc tế 6 1.2. Một số chỉ tiêu phản ánh tình hình kinh tế biển trong hội nhập kinh tế quốc tế 23 1.3. Kinh nghiệm ở một số địa phương phát triển kinh tế biển 50 Chương 2: THỰC TRẠNG KINH TẾ BIỂN NGHỆ AN GIAI ĐOẠN TỪ 2003 ĐẾN 2008 59 2.1. Tiềm năng kinh tế biển của Nghệ An 59 2.2. Thực trạng phát triển kinh tế biển Nghệ An từ năm 2003 đến năm 2008 65 2.3. Một số đánh giá chung 87 Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN NGHỆ AN TRONG BỐI CẢNH QUỐC TẾ 99 3.1. Chủ trương phát triển kinh tế biển ở Nghệ An giai đoạn 2009 đến 2015 99 3.2. Các nhóm giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế biển đến 2015 117 KẾT LUẬN 125 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 127 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO CV Mã lực đơn vị tính công suất tàu Công ty CP Công ty cổ phần BCH Đảng bộ Ban chấp hành đảng bộ Bộ GTVT Bộ giao thông vận tải B/Q Bình quân BQL Ban quản lý DWT Trọng tải. EU Liên minh Châu Âu FFI Tổ chức động thực vật quốc tế FDI Vốn vay trực tiếp GDP Tổng sản phẩm quốc nội HACCP Tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm 220KV 220 kilovôn HTX Hợp tác xã KHCN Khoa học- Công nghệ KKT Đông Nam Khu kinh tế Đông Nam KTHS Khai thác hải sản Nacl Muối ăn NTTS Nuôi trồng thủy sản ODA Vốn viễn trợ chính thức QL1A Quốc lộ 1A SARS Hội chứng hô hấp TNHH Trách nhiệm hữu hạn TP Vinh Thành phố Vinh TX Thị xã UBND Ủy ban nhân dân VHTD-TT Văn hóa thể dục - thể thao WTO Tổ chức thương mại thế giới XNK Xuất nhập khẩu  DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN Trang Bảng 2.1: Diện tích nuôi trồng thuỷ sản giai đoạn 2003-2007 61 Bảng 2.2: Diễn biến tàu thuyền khai thác giai đoạn 2001-2007 69 Bảng 2.3: Cơ cấu nghề nghiệp tàu thuyền khai thác 70 Bảng 2.4: Sản lượng khai thác hải sản giai đoạn 2003-2007 71 Bảng 2.5: Năng suất khai thác hải sản bình quân giai đoạn 2003-2007 72 Bảng 2.6: Giá trị-sản phẩm chế biến giai đoạn 2003-2007 73 Bảng 2.7: Cầu bến cảng Nghệ An 78 Bảng 2.8: Thiết bị chính cầu cảng 78 Bảng 2.9: Hàng hoá thông qua cảng 79 Bảng 2.10: Dự án nâng cấp và xây dựng cảng 79 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay trên thế giới có 151 quốc gia ven biển, vùng biển rộng gần 109 triệu km2, biển được các nước xác định là vùng đặc quyền kinh tế trong giới hạn 200 hải lý theo công ước quốc tế. Biển đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia có biển, là nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền. Bên cạnh đó tài nguyên trên đất liền ngày một cạn kiệt, còn các tài nguyên, khoáng sản ở biển gần như nguyên thuỷ, vì vậy các quốc gia có biển đều có chiến lược phát triển hướng ra biển, tăng cường tiềm lực để khai thác và khống chế biển. Việt Nam là một quốc gia có biên giới biển, có lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế ở biển Đông với diện tích hơn 1 triệu km2, thêm vào đó là đặc điểm không phải quốc gia nào cũng có, đó là Biển Đông của nước ta là biển hở thông với Đại Dương. Vì thế, Việt Nam không những có nhiều thuận lợi để khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên tái tạo và không tái tạo phong phú, quan trọng do thiên nhiên mang lại, mà còn là cơ hội giao thương với thế giới để phát triển nền kinh tế hội nhập mang nhiều thách thức, trong đó phát triển ngành hải sản, hàng hải, giao thông vận tải biển, các công trình ven biển, các ngành công nghiệp, dịch vụ, du lịch và thương mại quốc tế. Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội trong đó có chiến lược kinh tế biển những năm gần đây được xây dựng và hoàn thiện trong bối cảnh hội nhập, phát triển và đầy thách thức, nhất là việc thực hiện Hiệp định Thương mại giữa Việt Nam-Koa Kỳ (BTA) và việc chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Chiến lược kinh tế biển của Việt Nam dựa trên mục tiêu lớn mà Đảng ta đặt ra cho thiên kỷ mới là khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế vùng biển, ven biển, kết hợp an ninh quốc phòng, tạo thế và lực để phát triển mạnh kinh tế -xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển Tổ quốc. Để đạt được mục tiêu đó thì một trong các biện pháp quan trọng nhất là xây dựng cơ cấu kinh tế vùng hướng mạnh về xuất khẩu, kết hợp khai thác kinh tế vùng ngập mặn và ven biển, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việc phát triển thương mại-hàng hải trong một chương trình liên kết các ngành kinh tế quan trọng như dầu khí, vận tải (đặc biệt là vận tải đa phương thức), kéo theo đó là công nghiệp đóng tàu, đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản, xây dựng cảng biển và dịch vụ cảng biển, tạo nên cơ cấu kinh tế công nghiệp ven biển hiện đại, nơi có số lượng và cường độ giao dịch thương mại-hàng hải diễn ra hết sức lớn. Là quốc gia nằm bên bờ biển Đông, nước ta có vùng biển rộng 1 triệu km2, dài 3.260 km trải dài ở cả ba hướng Đông, Nam và Tây Nam. Ven bờ biển nước ta gần 300 đảo lớn nhỏ với diện tích 1.700 km2 gồm 2 quần đảo lớn là Trường Sa và Hoàng Sa. Biển Đông Việt Nam là con đường chiến lược và giao lưu thương mãi quốc tế giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, tài nguyên, khoáng sản phong phú và đa dạng là điều kiện thúc đẩy khai thác hiệu quả các nguồn lợi từ biển, phục vụ cho quá trình CNH-HĐH đất nước. Từ lợi thế vị trí địa lý, vai trò của biển đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội nước ta là hết sức quan trọng. Ngày 5/6/1993 Bộ Chính Trị ra Nghị Quyết 03- NQ/TƯ về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt - trong đó khẳng định đẩy mạnh kinh tế biển đi đôi với tăng cường bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia. Ngày 22/9/1997 Bộ Chính trị ban hành chị thị số 20-CT/TƯ đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng CNH, HDH. Cho đến Hội nghị lần thu IV Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã thông qua Nghị quyết về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Như vậy, bây giờ chúng ta nhìn về kinh tế biển một cách toàn diện hơn. Để triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020; phát huy vai trò của biển và vùng ven biển đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh- quốc phòng, Nghệ An là một tỉnh có biển hải phận rộng 4.230 hải lý vuông. Có chiều dài bờ biển hơn 82km trải dài từ Quỳnh Lập-Quỳnh Lưu cho đến Cửa hội - Cửa Lò. Bờ biển có nhiều kiểu địa hình phức tạp bình quân cứ 20 km có một cửa sông, đầm phá vũng vịnh nhỏ. Biển Nghệ An là nơi tập trung nhiều loài hải sản có giá trị kinh tế cao. Vùng ven biển Nghệ An thuộc 5 huyện, thị thành phố: Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, Thành phố Vinh và Thị xã Cửa Lò. đảo Mắt, đảo Ngư nằm giữa biển có hệ sinh thái đặc trưng của biển và vùng ven biển đối với phát triển kinh tế - xã hội về trí chiến lược an ninh, quốc phòng của Tỉnh, ngày 12/2/2007 Tỉnh uỷ Nghệ an ban hành NQ 16 về ”chương trình hành động, phối hợp các ngành, nghề phát triển kinh tế biển”. Từ thực tế trên, vấn đề "Kinh tế biển ở Nghệ An trong hội nhập kinh tế quốc tế" được lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị. 2 Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Từ vị thế, vai trò và tiềm lực của kinh tế biển, ngày 06/05/1993 Bộ Chính trị ra Nghị quyết 03 - NQ/TW về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt, trong đó khẳng định rằng phải đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia; Ngày 22/9/1997 Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Từ những quan điểm chỉ đạo trên, Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã thông qua nghị quyết về Chiến lược phát triển biển Việt Nam đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, biển, đảo góp phần qua trọng trong sự nghiệp, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu mạnh. Vấn đề của kinh tế biển là chủ đề mới được đề cập gần đây, do đó số công trình nghiên cứu chưa nhiều, chưa đa dạng chủ yếu chỉ đề cập những dạng sau: - Thông tin chuyên đề số 08, ngày 25/12/2006 của văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về "Chiến lược và mô hình quản lý biển của một số nước". - Tạp chí Cộng Sản số 20, ngày 25/9/2007 "Về kinh tế biển". - Tạ Quang Ngọc, "Để Việt Nam sớm trở thành quốc gia mạnh về biển và giàu lên từ biển", Tạp chí Cộng sản, tháng 7/2007. - Ban Tuyên giáo Trung ương (2007) về "Biển và hải đảo Việt Nam". - Đỗ Hoài Nam (2003), "Phát triển kinh tế - xã hội và môi trường các tỉnh ven biển Việt Nam", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. - Lê Cao Đoàn (1999), "Đổi mới phát triển kinh tế ven biển", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Mai Văn Ngọc (2008), "Phát triển ngành thuỷ sản Quảng Bình theo hướng bền vững", Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Nguyễn Văn Bon (2008), "Kinh tế biển Sóc Trăng", Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hố Chí Minh, Hà Nội. - Dương Văn Hồng (2008), "Kinh tế biển Trà Vinh", Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Mặc dù thời gian qua không ít đề tài nghiên cứu kinh tế biển ở nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu kinh tế biển Nghệ An trên phương diện kinh tế chính trị. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài này không trùng với các công trình đã công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu luận văn 3.1. Mục đích Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của phát triển kinh tế biển nói chung, đề xuất những quan điểm, phương hướng, giải pháp phát huy tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế biển của Nghệ An trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. 3.2. Nhiệm vụ Trình bày khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển kinh tế biển; đánh giá thực trạng phát triển kinh tế biển của Nghệ An thời gian qua; đề xuất phương hướng, giải pháp để phát triển kinh tế biển Nghệ An trong bối cảnh hội nhập khu vực và thế giới, giai đoạn 2009 - 2015. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn chú trọng nghiên cứu vấn đề phát triển kinh tế biển Nghệ An trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thông qua nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế biển ở một số địa bàn như: Thị xã Cửa Lò, Huyện Nghi Lộc, Huyện Diễn Châu, Huyện Quỳnh Lưu ... trong khoảng thời gian từ 2003 - 2008. 5. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Những nguyên lý của Chủ Nghĩa Mác- lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, Nghị quyết cùng với những tổng kết kinh nghiệm của Đảng về kinh tế biển và kế thừa chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học có nội dung liên quan đến đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng – lịch sử, luận văn chú trọng sử dụng các phương pháp trừu tượng hoá khoa học, kết hợp lô gích với lịch sử, tổng hợp và phân tích, so sánh ... 6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ sở chủ yếu của phát triển kinh tế biển; Khái quát những thành tựu, hạn chế phát triển kinh tế biển của Nghệ An trong thời gian qua; Đề xuất phương hướng và giải pháp có tính khả thi để phát triển kinh tế biển Nghệ An, giai đoạn đến 2015và tầm nhìn 2020. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 1.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA KINH TẾ BIỂN TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 1.1.1. Một số khái niệm Thế kỷ XXI được các nhà chiến lược xem là" thế kỷ của biển và Đại dương". Trong điều kiện các nguồn tài nguyên trên đất liền đang ngày bị cạn kiệt, không gian kinh tế truyền thống đã trở nên không còn phù hợp nữa, nhiều quốc gia bắt đầu có chiến lược quay ra biển và định hình các phương án chiếm biển và khống chế biển, khai thác các nguồn lợi từ biển và hải đảo thành lãnh địa, thành không gian kinh tế mới, để tìm kiếm và bảo đảm các nhu cầu về nguyên liệu, năng lượng, thực phẩm và không gian sinh tồn trong tương lai. Với việc phê chuẩn công ước của Liên Hợp Quốc về luật biển 1982, Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển. Ngày 2 tháng 8 năm 1977, Hội thảo khoa học về biển lần thứ nhất được tổ chức tại Nha Trang đã nêu rõ phương hướng chiến lược xây dựng và phát triển khoa học kỹ thuật về biển và kinh tế biển. Trong những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nước ta đã có một số Nghị quyết, chính sách phát triển kinh tế biển - Đặc biệt quan trọng nhất phải kể đến Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 06/05/1993 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia” - trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ bảo vệ tài nguyên, môi trường sinh thái biển, phấn đấu trở thành một quốc gia mạnh lên từ biển và giàu lên từ biển vào những năm 2020; Ngày 22/9/1997, Bộ Chính trị đã ban hành chị thị số 20-CT/TW về “Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng CNH, HĐH” chủ trương phát triển đất nước thành một quốc gia mạnh lên từ biển, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội biển đảo và ven biển kết hợp với yêu cầu bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia ... Như vậy, phát triển kinh tế biển đã được đặt trong tổng thể phát triển kinh tế của đất nước, trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới. Biển, đảo là một bộ phận cấu thành phạm vi chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, cùng với đất liền tạo ra môi trường sinh tồn và phát triển của dân tộc ta. Lấn biển để dựng nước đồng thời thông qua biển để giữ lấy nước đây là nét độc đáo trong bản sắc văn hoá Việt Nam cần được giữ gìn và phát huy trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Công ước năm 1982, vùng biển của nước ta được mở rộng lên đến gần một triệu km2, tiếp giáp với năm vùng biển có chế độ pháp lý khác nhau. Tuy nhiên, do tính đặc thù của môi trường biển nên mọi hoạt động của kinh tế biển đều liên quan mật thiết và chịu sự tác động của đất liền, không thể tách rời kinh tế biển ra khỏi kinh tế đất liền. Vì vậy, khi xem xét kinh tế biển, cũng cần đề cập đến kinh tế vùng ven biển ở một mức độ, khía cạnh cần thiết. Do vậy, việc thống nhất trong quan niệm chung về biển, kinh tế biển và kinh tế vùng ven biển là cần thiết để nghiên cứu nội hàm của chúng. Theo nghĩa chung nhất và theo truyền thống, biển được quan niệm là một vùng nước mặn rộng lớn nối liền với các Đại dương, hoặc là các hồ nước mặn có thông với Đại Dương một cách tự nhiên; đôi khi, biển chỉ là một hồ nước ngọt được khép kín hoặc có đường thông tự nhiên ra các biển cả lớn. Trong đời sống thông thường biển được hiểu như một từ đồng nghĩa với Đại Dương hoặc là các vùng nước Đại Dương nói chung [12]. Mặc dù vậy, cái được gọi là kinh tế biển – về mặt khái quát có thể hiểu, bao gồm: Thứ nhất, toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển như kinh tế hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển), đánh bắt và nuôi trồng hải sản, khai thác dầu khí ngoài khơi, du lịch biển, làm muối, dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn trên biển, kinh tế đảo... Thứ hai, nó bao gồm cả các hoạt động trực tiếp liên quan đến khai thác biển, mặc dù không hoàn toàn diễn ra trên biển nhưng hoạt động kinh tế này lại liên quan đến yếu tố của biển hay trực tiếp phục vụ cho kinh tế biển ở vùng ven biển – thông thường đó là hoạt động đóng và sửa chữa tàu biển (hoạt động này cũng được xếp vào kinh tế hàng hải), công nghiệp chế biến dầu, khí, công nghiệp chế biến thuỷ, hải sản, cung cấp dịch vụ biển, thông tin liên lạc (biển), nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào tạo nhân lực phục vụ kinh tế biển, điều tra cơ bản về tài nguyên - môi trường biển ... Khác với kinh tế biển, kinh tế vùng ven biển lại bao gồm toàn bộ các hoạt động kinh tế ở dải ven biển (có thể tính theo địa bàn các xã ven biển, các huyện ven biển hay các tỉnh tiếp giáp biển - có địa giới tiếp giáp biển) bao gồm cả lĩnh vực nông lâm, ngư nghiệp; công nghiệp và dịch vụ trên phạm vi địa bàn đó. Như vậy, kinh tế biển là toàn bộ các hoạt động kinh tế được diễn ra trên biển và ở đất liền nhưng có liên quan trực tiếp cho hoạt động khai thác các nguồn lợi kinh tế từ biển. Từ những định nghĩa về kinh tế biển như đã nêu chúng ta thấy đặc trưng của kinh tế biển khác với các ngành khác, so với một số ngành kinh tế khác. Vì kinh tế biển luôn mang những tính chất kinh tế đặc thù, mang tính chất đa ngành, đa lĩnh vực: Bao gồm nhiều ngành, nghề khác nhau, có quan hệ tác động qua lại lệ thuộc lẫn nhau. 1.1.2. Sự cần thiết phát triển kinh tế biển trong hội nhập kinh tế quốc tế 1.1.2.1. Những tất yếu bên trong Nước ta với diện tích đất liền không lớn, mật độ dân số cao, đặc biệt ở vùng đồng bằng sông Hồng và các đô thị; có khoảng1/3 dân số cả nước sinh sống ở vùng ven biển và trực tiếp chịu ảnh hưởng của biển, nhưng chỉ có gần 40% số này sống nhờ hoạt động kinh tế liên quan trực tiếp đến biển [1, tr.52]. Trước yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH phát triển kinh tế nhằm thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, khoa học... trong khi nguồn tài nguyên trên đất liền đang ngày một cạn kiệt và không có khả năng tái tạo. Để đảm bảo khả năng tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững với tốc độ hàng năm từ 8% trở lên... thì các lĩnh vực kinh tế liên quan đến biển và kinh tế ven biển phải được coi trọng và đóng vai trò chủ lực trong phát triển kinh tế [2, tr.53]. Hướng phát triển ra biển càng cần thiết hơn nữa khi nước ta mở cửa hội nhập trong điều kiện xuất phát điểm thấp. Mặc dù kinh tế biển nước ta chưa phát triển, chưa bắt kịp xu thế của thế giới, thì những hạn chế trong việc khai thác vùng gần bờ lại thể hiện càng rõ hơn khi vươn ra vùng biển quốc tế. Là một quốc gia có biển, một nhân tố được xem như là đắc địa, Việt nam cần tăng cường hơn nữa những khả năng vươn ra biển và xác định đây là nhân tố thúc đẩy các vùng trong đất liền phát triển. Từ vị trí địa - kinh tế, địa - chính trị rất quan trọng của biển Việt Nam nên trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng ta xác định một nhiệm vụ, một phương hướng, một quyết tâm chiến lược: "Việt Nam phải trở thành một quốc gia mạnh về biển và giàu lên từ biển" [3, tr.19]. Quốc gia mạnh về biển là quốc gia xây dựng được tiềm lực mọi mặt khai thác hiệu quả và bảo vệ vững chắc vùng biển của mình. Tiềm lực ở đây là tiềm lực chính trị, tinh thần, văn hoá, tiềm lực kinh tế - xã hội, tiềm lực khoa học- công nghệ, tiềm lực quốc phòng, an ninh- đối ngoại. Về quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển, với việc một số quốc gia ven Biển Đông chưa đạt được thoả thuận về phân định vùng biển, hải đảo đang tiềm ẩn những bất ổn, dễ dẫn đến xung đột, tác động không nhỏ đến ổn định của khu vực. Thực tiễn phát triển của đất nước đòi hỏi phải xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển một cách khoa học và hợp lý, cần phải có một chương trình hành động toàn diện về biển và vùng ven biển, nhanh chóng xây dựng một Việt Nam quốc gia mạnh về biển. Giàu lên từ biển là khai thác hiệu quả cao mọi tiềm năng kinh tế biển đem lại sự giàu có cho đất nước, cho địa phương vùng ven biển và cho từng gia đình làm kinh tế biển đảo. Lợi ích kinh tế biển không chỉ xuất từ một địa phương, một ngành mà cần có sự liên kết một cách khoa học sự phát triển các ngành các lĩnh vực trên toàn vùng, trên địa bàn cụ thể thành một chương trình đồng bộ thống nhất. Đặc biệt phát triển phải chú trọng mọi mặt ở những vùng ven biển. Đại hội đại biểu toàn quốc lần X của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định cần phải xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, trọng tâm, trọng điểm. Sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế. Phát triển hệ thống cảng biển, vận tải biển, khai thác và chế biến dầu khí, hải sản, dịch vụ biển, đẩy nhanh công nghiệp đóng tàu biển và công nghiệp khác, chế biến hải sản. Phát triển mạnh, đi trước một bước, một số vùng kinh tế ven biển và hải đảo [4, tr.93]. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực... thì một khuynh hướng cơ bản là phải phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển. Trước mắt cần tập trung đầu tư phát triển các lĩnh vực: Thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí, hải sản, rà soát và bổ sung quy hoạch hệ thống cảng biển, các cơ sở đóng tàu, hệ thống vận tải và các dịch vụ hàng hải, phát triển du lịch biển đảo, với cơ cấu ngành, nghề phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, đạt hiệu quả cao. Kết hợp chặt chẽ với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng, bảo vệ môi trường, tăng cường hợp tác quốc tế, vừa phát triển góp phần vào bảo vệ quốc gia. Trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán nước ta, đồng thời khai thác tài nguyên ở hải phận quốc tế. Xây dựng các trung tâm kinh tế, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất lớn ở vùng duyên hải gắn với các hoạt động kinh tế biển làm động lực quan trọng đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Kết hợp chặt chẽ với phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển nội địa... Để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ to lớn đó, trước hết cần phải có chính sách tạo sức hấp dẫn thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế biển trên tinh thần chủ động, tích cực hội nhập. Phát huy triệt để các nguồn lực bên trong, tranh thủ sự hợp tác các nguồn lực bên ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của mỗi quốc gia. 1.1.2.2. Những tác động từ bên ngoài Toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ dưới tác động thúc đẩy của cách mạng khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức đã làm tăng sức ép cạnh tranh và tác động sâu sắc đến các nền kinh tế. Cùng với đó là tiến trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trong mọi lĩnh vực; các công ty xuyên quốc gia không ngừng điều chỉnh lại, và hình thành nên các tập đoàn khổng lồ chi phối nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh trên phạm vi toàn thế giới; nền kinh tế thế giới cũng như mỗi quốc gia ngày càng trở nên năng động, liên kết với nhau chặt chẽ hơn; liên kết thương mại toàn cầu, khu vực và việc hình thành hệ thống tài chính quốc tế... đã mang lại những triển vọng phát triển kinh tế tri thức... Việc hình thành thị trường mang tính toàn cầu đã đem lại nhiều cơ hội, đồng thời cũng nhiều thách thức và nguy cơ đối mặt với các nước tham gia thị trường toàn cầu, nhất là các nước đang phát triển như Việt Nam. Trong bối cảnh đó nước ta phải phát huy tính năng động, sáng tạo, tích cực chuẩn bị lực lượng về mọi mặt, vươn lên để hội nhập kinh tế quốc tế, bằng nhiều cách điều chỉnh chiến lược, chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ các rào cản thương mại hàng hoá, dịch vụ, luân chuyển vốn, lao động và kỹ thuật giữa nước ta và các nước khác ngày một dễ dàng hơn. Thị trường thế giới ngày một trở nên thống nhất và sự tác động qua lại của các quốc gia cao lên, từ đó làm cho các nước thường xuyên phải điều chỉnh chính sách một cách linh hoạt thích ứng với xu thế chung của quá trình hội nhập kinh tế. Vì vậy, hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh phức tạp, đặc biệt là đấu tranh chống lại sự chi phối, áp đặt của các cường quốc kinh tế và các công ty xuyên quốc gia, không ngừng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, góp phần phát triển kinh tế, củng cố an ninh, chính trị, độc lập tự chủ về kinh tế và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc của mỗi quốc gia, thông qua việc thiết lập chặt chẽ với nhau, trong sự tác động qua lại, đan xen nhiều chiều. Các nước đang phát triển trong đó có nước ta chủ động lựa chọn phát triển ngành, nghề có lợi thế cao trong quá trình cạnh tranh, phát triển và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế. Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng minh, biển đóng một nhân tố vô cùng quan trọng của mỗi quốc gia có biển trong quá trình phát triển của mình. Nhiều quốc gia có biển đã có những chính sách giữ gìn tài nguyên khoáng sản trong vùng biển của nước mình rất nghiêm ngặt, và coi đó là một nguồn dữ trữ quan trọng, bên cạnh đó lại khai thác ở những vùng biển khác. Và có chiến lược đầu tư cho khoa học - công nghệ biển, đặc biệt chú trọng vào công nghệ khai thác, bảo vệ tài nguyên biển và được xem là một trong bốn mũi nhọn quan trọng của thế kỷ XXI. Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và dân số, nguồn tài nguyên thiên nhiên trên đất liền, nhất là tài nguyên không còn khả năng tái tạo được ngày càng cạn kiệt đã đem lại lợi thế vô cùng lớn cho các quốc gia có biển, từ đó cũng nẩy sinh ra nhiều mâu thuẫn về quyền lợi giữa các nước có biển và những quốc gia không có biển gây nên những tranh chấp phức tạp và gay gắt về chủ quyền, và quyền lợi từ biển. Trướ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan Van.doc
Tài liệu liên quan