Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã xác định rõ mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nhằm thực hiện: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Tuy nhiên, quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Nguyên nhân do hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, đồng bộ và thống nhất. Để khắc phục được những tồn tại, yếu kém đó và đạt được mục tiêu đã đề ra, ngoài những yếu tố và định hướng cần thiết khác, vấn đề quan trọng là nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, vai trò quản lý của Nhà nước là yếu tố quan trọng đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Để giúp Nhà nước trong việc quản lý và điều hành nền kinh tế có hiệu quả theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước cần phải có những công cụ mạnh để kiểm tra, kiểm soát. Một trong những công cụ đó là Kiểm toán Nhà nước, Kiểm toán Nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính công của Nhà nước, góp phần làm trong sạch và minh bạch nền tài chính quốc gia.
Trong quá trình đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền, xoá bỏ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trư¬ờng định hư-ớng xã hội chủ nghĩa, Kiểm toán Nhà n¬ước ra đời là một tất yếu khách quan do nhu cầu quản lý của Nhà nư¬ớc đối với việc phát huy hiệu quả các nguồn lực kinh tế đất nư¬ớc trong thời kỳ chuyển giao cơ chế, trong đó quản lý tài chính là một nhiệm vụ quan trọng của Nhà n¬ước, cùng với các công cụ quản lý khác, Kiểm toán Nhà nư¬ớc kiểm tra, kiểm soát về lĩnh vực tài chính công, góp phần tham mưu cho Quốc hội, Chính phủ trong việc hoạch định chính sách, đ¬ường lối kinh tế của đất nư¬ớc, trong việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực về tài sản và công quỹ quốc gia.
Kiểm toán Nhà nư¬ớc Việt Nam ra đời theo Nghị định số 70/CP ngày 11 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ, là cơ quan trực thuộc Chính phủ, đã từng b¬ước khẳng định được vai trò, vị trí của mình như¬ một công cụ quản lý hữu hiệu của Nhà nư¬ớc. Luật Kiểm toán nhà nư¬ớc được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2006. Theo đó, Điều 13 quy định: “Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Điều 14 quy định: “Kiểm toán Nhà nước có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước” [18,tr.12]. Kiểm toán Nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính công của nhà nước, hoàn toàn độc lập với Quốc hội và Chính phủ, không nằm trong 3 hệ thống quyền lực là lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước. Điều đó, cũng đã khẳng định vai trò của Kiểm toán Nhà n¬ước trong quản lý vĩ mô nền kinh tế là công cụ kiểm tra tài chính công của Nhà nư¬ớc nhằm đư¬a việc chi tiêu Ngân sách Nhà n¬ước và công quỹ quốc gia tiết kiệm và có hiệu quả, ngăn ngừa lãng phí và tiêu cực góp phần làm lành mạnh nền tài chính quốc gia. Kiểm toán Nhà nước Việt Nam ra đời và đi vào hoạt động đ¬ược 15 năm, so với nhiều cơ quan Kiểm toán Nhà nư¬ớc trên thế giới thì vẫn còn rất non trẻ, nhữ-ng thành tựu và kết quả mà Kiểm toán Nhà nư¬ớc Việt Nam đạt đư¬ợc trong lĩnh vực kiểm tra tài chính công những năm vừa qua là rất đáng ghi nhận. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, Kiểm toán Nhà nư¬ớc góp phần thiết lập trật tự kỷ cương trong hoạt động thu- chi Ngân sách Nhà nư¬ớc, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính và tiết kiệm chi Ngân sách Nhà nư¬ớc.
Như vậy, thông qua hoạt động của mình Kiểm toán Nhà nư¬ớc góp phần phát hiện những bất cập và đề xuất các giải pháp hoàn thiện thể chế kinh tế thị truờng; phát hiện các gian lận tham nhũng, các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh tế và kiến nghị xử lý theo quy định của pháp luật; góp phần khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị truờng và nâng cao hiệu quả quản lý tài chính công.
120 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1195 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã xác định rõ mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nhằm thực hiện: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Tuy nhiên, quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Nguyên nhân do hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, đồng bộ và thống nhất... Để khắc phục được những tồn tại, yếu kém đó và đạt được mục tiêu đã đề ra, ngoài những yếu tố và định hướng cần thiết khác, vấn đề quan trọng là nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, vai trò quản lý của Nhà nước là yếu tố quan trọng đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Để giúp Nhà nước trong việc quản lý và điều hành nền kinh tế có hiệu quả theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước cần phải có những công cụ mạnh để kiểm tra, kiểm soát. Một trong những công cụ đó là Kiểm toán Nhà nước, Kiểm toán Nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính công của Nhà nước, góp phần làm trong sạch và minh bạch nền tài chính quốc gia.
Trong quá trình đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền, xoá bỏ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Kiểm toán Nhà nước ra đời là một tất yếu khách quan do nhu cầu quản lý của Nhà nước đối với việc phát huy hiệu quả các nguồn lực kinh tế đất nước trong thời kỳ chuyển giao cơ chế, trong đó quản lý tài chính là một nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước, cùng với các công cụ quản lý khác, Kiểm toán Nhà nước kiểm tra, kiểm soát về lĩnh vực tài chính công, góp phần tham mưu cho Quốc hội, Chính phủ trong việc hoạch định chính sách, đường lối kinh tế của đất nước, trong việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực về tài sản và công quỹ quốc gia.
Kiểm toán Nhà nước Việt Nam ra đời theo Nghị định số 70/CP ngày 11 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ, là cơ quan trực thuộc Chính phủ, đã từng bước khẳng định được vai trò, vị trí của mình như một công cụ quản lý hữu hiệu của Nhà nước. Luật Kiểm toán nhà nước được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2006. Theo đó, Điều 13 quy định: “Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Điều 14 quy định: “Kiểm toán Nhà nước có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước” [18,tr.12]. Kiểm toán Nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính công của nhà nước, hoàn toàn độc lập với Quốc hội và Chính phủ, không nằm trong 3 hệ thống quyền lực là lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước. Điều đó, cũng đã khẳng định vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong quản lý vĩ mô nền kinh tế là công cụ kiểm tra tài chính công của Nhà nước nhằm đưa việc chi tiêu Ngân sách Nhà nước và công quỹ quốc gia tiết kiệm và có hiệu quả, ngăn ngừa lãng phí và tiêu cực góp phần làm lành mạnh nền tài chính quốc gia. Kiểm toán Nhà nước Việt Nam ra đời và đi vào hoạt động được 15 năm, so với nhiều cơ quan Kiểm toán Nhà nước trên thế giới thì vẫn còn rất non trẻ, những thành tựu và kết quả mà Kiểm toán Nhà nước Việt Nam đạt được trong lĩnh vực kiểm tra tài chính công những năm vừa qua là rất đáng ghi nhận. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, Kiểm toán Nhà nước góp phần thiết lập trật tự kỷ cương trong hoạt động thu- chi Ngân sách Nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính và tiết kiệm chi Ngân sách Nhà nước.
Như vậy, thông qua hoạt động của mình Kiểm toán Nhà nước góp phần phát hiện những bất cập và đề xuất các giải pháp hoàn thiện thể chế kinh tế thị truờng; phát hiện các gian lận tham nhũng, các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh tế và kiến nghị xử lý theo quy định của pháp luật; góp phần khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị truờng và nâng cao hiệu quả quản lý tài chính công.
Hiện nay, ở Việt Nam chưa có một công trình khoa học nào thực hiện nghiên cứu riêng biệt về vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Để góp phần nâng cao và tăng cường vai trò của Kiểm toán Nhà nước, đồng thời xây dựng Kiểm toán Nhà nước trở thành công cụ kiểm tra tài chính công quan trọng của nhà nước, việc nghiên cứu một cách đầy đủ đề tài "Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam" là hết sức cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
- Trong nước, hiện nay cũng có một số tác giả nghiên cứu về vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong cải cách hành chính như: CN.Hà Ngọc Son, PGS.TS Nguyễn Đình Hựu và TS.Mai Vinh viết về “Vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong công cuộc cải cách hành chính nhà nước”...
- Ngoài nước, do đặc điểm kinh tế xã hội và thể chế chính trị của mỗi quốc gia trên thế giới khác nhau nên vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường của các quốc gia cũng không giống nhau; mỗi cơ quan Kiểm toán Nhà nước trên thế giới đều có đặc thù về địa vị pháp lý, chức năng và nhiệm vụ. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu của nước ngoài là kinh nghiệm và bài học quý báu đối với Kiểm toán Nhà nước Việt Nam.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất phương hướng và các giải pháp nâng cao vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu trên, Luận văn tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
- Làm rõ những vấn đề chung về Kiểm toán Nhà nước, trên cơ sở đó, xác định vị trí, vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng về hoạt động của Kiểm toán Nhà nước trong công tác kiểm tra, kiểm soát việc quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế.
- Tìm ra nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, vị trí của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường và thực trạng hoạt động của Kiểm toán Nhà nước từ năm 1994 đến nay. Trong đó có tham khảo một số kinh nghiệm của Kiểm toán Nhà nước của một số nước trên thế giới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn.
- Sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, lôgíc kết hợp với lịch sử, tổng kết, đánh giá quá trình hình thành, phát triển và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước ở Việt Nam.
- Kế thừa một cách có chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu trước đây có liên quan và cập nhật những thông tin mới về chủ đề nghiên cứu.
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn
- Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống, kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ đóng góp quan trọng trong việc xác định đúng vị trí và vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
- Góp phần thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu của đề tài, ngoài phần mở đầu, kết luận danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm có 3 chương, 8 tiết:
- Chương 1: Những vấn đề chung về Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
- Chương 2: Thực trạng hoạt động của Kiểm toán nhà nước ở Việt Nam.
- Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. TỔNG QUAN VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1.1. KiÓm to¸n
Kiểm toán có gốc từ Latinh là: "Audit" gắn liền với nền văn minh Ai Cập và La Mã cổ đại, xuất hiện vào thế kỷ thứ III trước công nguyên. Auditing có nghĩa là "nghe", do các nhà cầm quyền La Mã tổ chức để kiểm tra độc lập về tình hình tài chính. Hình ảnh của kiểm toán cổ điển là việc kiểm tra về tài sản, phần lớn được thể hiện bằng cách người ghi chép đọc to lên cho một bên độc lập "nghe" rồi chấp nhận. Cho đến những năm 30 của thế kỷ XX, kiểm toán với nghĩa là kiểm tra độc lập và bày tỏ ý kiến mới được phát triển ở các nước Bắc Mỹ và Tây Âu.
Ngày nay, hoạt động kiểm toán đã vượt khỏi phạm vi của từng địa phương, từng quốc gia và phát triển theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá từ đó hình thành các tổ chức nghề nghiệp kiểm toán quốc tế, các tập đoàn kiểm toán mang tầm quốc tế hoạt động xuyên quốc gia. Một số tập đoàn kiểm toán xuyên quốc gia đứng đầu thế giới như: Coopers Lybrand, Ersnt and Young, Price Water House và Deloitte Touch Tomatsu...
Mặc dù khái niệm kiểm toán đã xuất hiện khá lâu đời nhưng cho đến nay vẫn còn có những cách hiểu khác nhau, đôi khi chưa có sự đồng nhất: Vương quốc Anh đã đưa ra khái niệm: " Kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về những bản khai tài chính của một xí nghiệp do một kiểm toán viên được bổ nhiệm để thực hiện những công việc đó theo đúng với bất kỳ nghĩa vụ pháp định có liên quan"[23, tr.30]; Với khái niệm này, các nhà khoa học ở Anh quan niệm kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và bày tỏ ý kiến về bản khai tài chính của kiểm toán viên theo nghĩa vụ pháp định. Hoa Kỳ lại quan niệm: "Kiểm toán là một quá trình mà qua đó một người độc lập, có nghiệp vụ tập hợp và đánh giá rõ ràng về một thông tin có thể lượng hoá có liên quan đến một thực thể kinh tế riêng biệt nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa thông tin có thể lượng hoá với những tiêu chuẩn đã được thiết lập" [23, tr.30-31]; các nhà khoa học về kiểm toán Hoa Kỳ cũng khẳng định sự kiểm tra độc lập của kiểm toán viên, tuy nhiên nhấn mạnh hơn đến khía cạnh chuyên môn tức là các kiểm toán viên không chỉ độc lập mà phải “có nghiệp vụ”; khái niệm của Hoa Kỳ cũng nhấn mạnh đến sự phù hợp giữa thông tin với các tiêu chuẩn đã được thiết lập. Còn các nhà kinh tế nước Cộng hoà Pháp lại quan niệm rằng: "Kiểm toán là việc nghiên cứu và kiểm tra các tài khoản niên độ của một tổ chức do một người độc lập, đủ danh nghĩa gọi là một kiểm toán viên tiến hành để khẳng định rằng những tài khoản đó phản ánh đúng tình hình tài chính thực tế không che dấu sự gian lận và chúng được trình bày theo mẫu chính thức của luật định" [23, tr.31].
Theo định nghĩa của Liên đoàn quốc tế các nhà kế toán (International Federation of Accountants –IFAC) thì “ Kiểm toán là việc các kiểm toán viên độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về các bản báo cáo tài chính”. Trong giáo trình kiểm toán của các tác giả Alvin A.Rens và James K.Loebbecker đã định nghĩa: Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được của một đơn vị cụ thể nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập; Định nghĩa khác nêu: Kiểm toán là thủ pháp xem xét và kiểm tra một cách khách quan về từng khoản mục bao gồm việc thẩm tra những thông tin đặc trưng được xác định bởi kiểm toán viên hoặc thiết lập bởi thực hành chung. Nói tổng quát, mục đích của kiểm toán là trình bày ý kiến hoặc đi đến kết luận về cái được kiểm toán. (Auditing - Theory & Practice của John Dunn, University of Strathclyde, Glasgow nhà xuất bản Prentice Hall).
Như vậy, các khái niệm trên phản ánh tương đối đầy đủ về các đặc trưng cơ bản của kiểm toán truyền thống đã phát triển lâu đời. Các khái niệm khẳng định rằng: Kiểm toán là sự kiểm tra và bày tỏ ý kiến về bản khai tài chính hoặc các tài khoản của một tổ chức, cơ quan, xí nghiệp; việc kiểm toán được thực hiện bởi kiểm toán viên có chuyên môn nghiệp vụ, độc lập; đánh giá mức độ trung thực, phù hợp của các thông tin so với các tiêu chuẩn đã được thiết lập; các thông tin kiểm toán được trình bày theo một cách thức nhất định. Các khái niệm đó mới chỉ tập trung ở việc kiểm toán các bản khai tài chính, mang tính truyền thống khi kiểm toán được xuất hiện. Ngày nay, khái niệm kiểm toán hết sức rộng mở, phát triển vượt ra ngoài khuôn khổ quan niệm truyền thống. Bằng chứng là kiểm toán ngày nay không chỉ dừng lại ở việc kiểm tra các bản kê khai tài chính, các tài khoản... mà đã phát triển trên phạm vi rộng lớn. Thông qua hoạt động kiểm toán có thể kiểm tra, kiểm soát việc tuân thủ các quy định của pháp luật; nội quy, quy chế của mọi chủ thể kinh tế cũng như kiểm tra, giám sát vĩ mô tình hình phát triển của nền kinh tế; hiệu lực và hiệu quả quản lý các nguồn lực...
Ở Việt Nam, khái niệm kiểm toán mới xuất hiện vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, với sự ra đời của các công ty kiểm toán và tư vấn tài chính trực thuộc Bộ Tài chính. Ngày 11/7/1994 cơ quan Kiểm toán Nhà nước được thành lập đã ghi nhận một dấu mốc quan trọng đối với sự phát triển của hệ thống kiểm toán ở Việt Nam. Thuật ngữ kiểm toán đã được nhiều nhà kinh tế học bàn tới, trong đó, nổi bật là các khái niệm kiểm toán sau: theo giáo trình Lý thuyết kiểm toán của Trường Đại học Kinh tế quốc dân quan niệm: " Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực" [23, tr.30]; quan niệm cho rằng kiểm toán không chỉ là bản khai tài chính mà là “ xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động”; đồng thời, khái niệm cũng đề cập đến việc sử dụng phương pháp kiểm toán khi kiểm toán viên thực thi nhiệm vụ. Học viện Tài chính Hà Nội lại nêu khái niệm: ''Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền, có kỹ năng nghiệp vụ, thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng của một đơn vị nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được xây dựng'' [29, tr.5]. Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh cho rằng: “Kiểm toán là một quá trình do Kiểm toán viên đủ năng lực và độc lập tiến hành nhằm thu thập bằng chứng về những thông tin có thể định lượng của một tổ chức và đánh giá chúng nhằm thẩm định và báo cáo về mức độ phù hợp giữa những thông tin đó với các chuẩn mực đã được thiết lập” [30, tr.7].
Qua việc phân tích các khái niệm kiểm toán, có thể thống nhất với quan niệm kiểm toán của Học viện Tài chính Hà Nội, đây là khái niệm diễn đạt đầy đủ nội dung của hoạt động kiểm toán: Kiểm toán là một quá trình chứ không phải là một hoạt động đơn lẻ; quá trình đó phản ánh hoạt động của các chuyên gia độc lập, có thẩm quyền, có kỹ năng nghiệp vụ; thông qua hoạt động kiểm toán, các chuyên gia có thể thu thập, định lượng, đánh giá các thông tin về chủ thể kinh tế (so với chuẩn mực đã xác định) và có thể kiểm tra, kiểm soát được các hoạt động kinh tế cả ở tầm vi mô và vĩ mô. Quan niệm về kiểm toán như trên rất rộng mở về nội dung đã thoát ly được quan niệm truyền thống về kiểm toán, đó là chỉ kiểm tra các bản kê khai tài chính, các tài khoản mà đã phát triển việc kiểm toán tuân thủ các quy định của pháp luật; nội quy, quy chế của chủ thể kinh tế cũng như kiểm toán hoạt động nhằm đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong việc quản lý các nguồn lực của một tổ chức, đơn vị, xí nghiệp.
Như vậy, Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền, có kỹ năng nghiệp vụ, thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng của một đơn vị nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được xây dựng.
1.1.1.2. KiÓm to¸n Nhµ níc
Để hiểu được khái niệm Kiểm toán Nhà nước, trước hết cần phân biệt hoạt động kiểm toán nhà nước và cơ quan Kiểm toán Nhà nước.
Hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước là việc kiểm tra, đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính; việc tuân thủ pháp luật; tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Hoạt động kiểm toán nhà nước được thực hiện bởi Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Kiểm toán Nhà nước là công cụ kiểm tra tài chính công quan trọng của Nhà nước. Hoạt động của Kiểm toán Nhà nước góp phần phân bổ, quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản công một cách hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả. Kiểm toán Nhà nước góp phần ngăn ngừa các hành vi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí công quỹ quốc gia, xây dựng nền kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Lịch sử Kiểm toán Nhà nước của các nước trên thế giới đã hình thành và phát triển hàng trăm năm nay. Các quốc gia trên thế giới đều sử dụng Kiểm toán Nhà nước như một công cụ hữu hiệu nhằm kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế tài chính của Nhà nước, là bộ phận không thể thiếu được trong cơ cấu nhà nước pháp quyền.
Mục đích hoạt động của Kiểm toán Nhà nước là cung cấp các thông tin tin cậy về quản lý tài chính của quốc gia phục vụ các cơ quan quản lý nhà nước, Chính phủ và Quốc hội. Ngoài ra, Kiểm toán Nhà nước còn cung cấp thông tin cho xã hội, công chúng trong việc tham gia giám sát các hoạt động tài chính, ngân sách của quốc gia. Hoạt động của Kiểm toán Nhà nước không vì mục đích lợi nhuận mà chủ yếu và trước hết là bảo vệ quyền lợi của nhà nước và xã hội trong việc quản lý, sử dụng nguồn lực. Ngăn ngừa các hành vi xâm hại đến lợi ích của quốc gia, lợi ích của cộng đồng, xã hội. Do đó, có thể quan niệm Kiểm toán Nhà nước là một loại hình dịch vụ công. Kiểm toán Nhà nước hoạt động theo nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Như vậy, Kiểm toán Nhà nước là một tổ chức kiểm toán thuộc cơ cấu của bộ máy nhà nước của một quốc gia. Kiểm toán Nhà nước có thể là một tổ chức nằm trong Chính phủ hay cơ quan trực thuộc Quốc hội hoặc là cơ quan độc lập với cả Chính phủ và Quốc hội như hiện nay.
1.1.2. Sự hình thành Kiểm toán Nhà nước
Sự xuất hiện của kiểm toán nói chung và Kiểm toán Nhà nước nói riêng ở các nước khác nhau vào những thời điểm khác nhau và không giống nhau. ë Trung Quốc, kiểm toán xuất hiện cách đây 3000 năm và đến năm 92 trước Công nguyên vào thời nhà Tống đã có Toà Kiểm toán của triều đình. Ở Pháp, vua Arlemagne (768 - 814) đã tuyển dụng quan chức các cấp phụ trách giám sát công việc quản lý, đặc biệt là đối với các nghiệp vụ tài chính của các quan chức địa phương và trình bày lại kết quả với Hoàng đế hoặc các vị quan cận thần. Hoạt động kiểm toán mới chỉ phát triển mạnh mẽ và mang tính phổ biến trong khoảng vài trăm năm gần đây. Ở Đức, vào năm 1714, Vua Phổ đã ra sắc lệnh thành lập Phòng Thẩm kế Tối cao. Kiểm toán hiện diện như một công cụ không thể thiếu được đối với bất cứ mô hình kinh tế nào, một hình thái xã hội nào và không hề bị chi phối bởi kiến trúc thượng tầng. Sự tồn tại và phát triển của kiểm toán đã khẳng định tính hiệu lực, hiệu quả, kinh tế và tiết kiệm cũng như ý nghĩa thiết thực của kiểm toán đối với mọi quốc gia. Song những kết quả mà kiểm toán đạt được trong tất cả các lĩnh vực thực sự có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia kể từ sau các cuộc cách mạng về kinh tế và hiện đại hoá vào những năm sau của thế kỷ XX.
Hiện nay, các khu vực trên thế giới đều hình thành tổ chức cơ quan Kiểm toán tối cao và gia nhập INTOSAI. Tuỳ theo từng quốc gia, cơ quan Kiểm toán Nhà nước có nhiều tên gọi khác nhau như: Toà Thẩm kế Cộng hoà Pháp, cơ quan Tổng kế toán Hoa Kỳ, Uỷ ban Kiểm toán và Kiểm soát Ấn Độ..., Kiểm toán Nhà nước Việt Nam là thành viên chính thức của INTOSAI.
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ và hệ thống tổ chức của Kiểm toán Nhà nước
1.1.3.1. Chức năng của Kiểm toán Nhà nước
Theo thuật ngữ quốc tế, cơ quan kiểm toán của các nước thường gọi là cơ quan kiểm toán tối cao, thực hiện các chức năng: kiểm tra tính xác thực và hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực tài chính công; phát hiện kịp thời những sai lệch so với các chuẩn mực đã được thừa nhận, vi phạm các nguyên tắc về tính hợp pháp, hợp lý, kinh tế và tiết kiệm trong công tác quản lý các nguồn lực (ngân sách và kinh tế); đưa ra các kiến nghị, giải pháp cụ thể buộc các đơn vị được kiểm toán sửa chữa khắc phục, bồi thường hoặc có những hành vi tái phạm tương tự trong tương lai.
Điều 14 Luật Kiểm toán nhà nước quy định Kiểm toán Nhà nước có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
1.1.3.2. Nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước
Nhiệm vụ cơ bản của các cơ quan kiểm toán tối cao là thực hiện việc kiểm tra tài chính công của nhà nước để giúp các cơ quan chức năng của Nhà nước trong quản lý và điều hành ngân sách nhà nước, nhằm phát triển kinh tế của đất nước. Để thực hiện được nhiệm vụ cơ bản đó, Kiểm toán Nhà nước Việt Nam hiện nay phải thực hiện: việc xây dựng và quyết định kế hoạch kiểm toán hàng năm, báo cáo với Quốc hội, Chính phủ trước khi thực hiện; tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm toán hàng năm và thực hiện nhiệm vụ kiểm toán theo yêu cầu của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; xem xét, quyết định việc kiểm toán khi Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có yêu cầu; trình kết quả kiểm toán để Quốc hội xem xét, quyết định dự toán ngân sách nhà nước, quyết định phân bổ ngân sách trung ương, quyết định dự án, công trình quan trọng quốc gia, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; tham gia với Uỷ ban Kinh tế, Uỷ ban Tài chính- Ngân sách và các cơ quan khác của Quốc hội, Chính phủ trong việc xem xét, thẩm tra báo cáo về dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương, phương án điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước, phương án bố trí ngân sách cho dự án, công trình quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định và quyết toán ngân sách nhà nước; tham gia hoạt động giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về lĩnh vực tài chính - ngân sách, giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước và chính sách tài chính khi có yêu cầu; tham gia trong việc xây dựng và thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh khi Chính phủ và Quốc hội yêu cầu; báo cáo và gửi kết quả kiểm toán, kết quả thực hiện kiến nghị kiểm toán với Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; gửi báo cáo kiểm toán cho Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; cung cấp kết quả kiểm toán cho Bộ Tài chính, Hội đồng nhân dân nơi kiểm toán và các cơ quan khác theo quy định của pháp luật; tổ chức công bố công khai báo cáo kiểm toán năm, báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán và báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán; chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra và các cơ quan khác của Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, xử lý những vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân đã được phát hiện thông qua hoạt động kiểm toán; quản lý hồ sơ kiểm toán, giữ bí mật tài liệu, số liệu kế toán và thông tin về hoạt động của đơn vị được kiểm toán theo quy định của pháp luật. Đồng thời, thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước; tổ chức và quản lý công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực của Kiểm toán Nhà nước; tổ chức các kỳ thi và cấp chứng chỉ Kiểm toán viên nhà nước và chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ kiểm toán nội bộ; sử dụng kết quả kiểm toán nội bộ của cơ quan, tổ chức được quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
Như vậy, thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ quan trọng mà pháp luật trao cho Kiểm toán Nhà nước Việt Nam đã thấy rõ một phần cơ bản về vai trò to lớn của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế nói chung và kinh tế thị trường ở Việt Nam nói riêng.
1.1.3.3. Quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước
Để thực hiện được các nhiệm vụ quan trọng của mình, cơ quan Kiểm toán tối cao nói chung có quyền được tiếp cận với tất cả các thông tin, tài liệu, số liệu, văn bản có liên quan đến công tác tài chính và có quyền: yêu cầu đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin, tài liệu phục vụ cho việc kiểm toán; đề nghị các cơ quan hữu quan phối hợp công tác, giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện nhiệm vụ được giao; yêu cầu đơn vị được kiểm toán thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các kết luận, kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước đối với các sai phạm trong báo cáo tài chính và các sai phạm trong việc tuân thủ