Luận văn Khu công nghiệp với sự phát triển Kinh tế - Xã hội ở tỉnh Hải Dương

Phát triển khu công nghiệp là một giải pháp quan trọng nhằm thu hút vốn đầu tư thúc đẩy công nghiệp phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, đồng thời tạo điều kiện bảo vệ môi trường sinh thái bảo đảm phát triển bền vững. Ở nước ta, năm 1991, Đảng và Nhà nước có chủ trương triển khai thí điểm việc thực hiện giải pháp quan trọng này. Từ đó đến nay, cả nước đã có gần 200 tr¨m khu c«ng nghiÖp víi c¸c quy m«, lo¹i h×nh được phân bổ hầu khắp các tỉnh, thành phố. Sự phát triển các khu công nghiệp đã góp phÇn to lín vµo viÖc thùc hiÖn c¸c môc tiªu kinh tÕ - x• héi của đất nước. Các khu công nghiệp trở thành điểm thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài, đón nhận các tiến bộ khoa học kỹ thuật và tạo ra những nhân tố quan trọng thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Hải Dương là tỉnh mới được tái lập từ 1/1/1997, thuộc một trong tám tỉnh của vùng kinh tế trọng điểm ở đồng bằng Bắc bộ với hệ thống giao thông thủy, bộ, đường sắt thuận lợi. Hải Dương trở thành địa bàn cung cấp hàng hóa quan trọng đồng thời tham gia trung chuyển hàng hóa giữa hệ thống cảng biển với các tỉnh và thành phố lớn ở phía Bắc. Trong tương lai, Hải Dương lµ träng ®iÓm thu hút, phát triển công nghiệp, du lịch thương mại và trở thành một trong các đô thị lớn trong vùng. Trong xu thế phát triển chung của cả nước, tỉnh Hải Dương đã có 10 khu công nghiệp với diện tích 2.087 ha. Sự phát triển khu công nghiệp ở Hải Dương trong thời gian qua đã góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, thu hút vốn và công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiến bộ của nhiều nước trên thế giới. Đồng thời, sự phát triển khu công nghiệp đã tạo điều kiện cho sự ra đời các khu đô thị, nâng cao chất lượng đời sống dân cư. Tuy nhiên, trong 17 năm qua, sự phát triển các khu công nghiệp ë tỉnh Hải Dương đã bộc lộ những bất cập trong giải quyết vấn đề môi trường sinh thái, việc làm, thu nhập của người dân mất đất, sự quá tải của hệ thống kết cấu hạ tầng. Những bất cập đó đang là lực cản cho việc phát huy vai trò của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, gây ra những bức xúc trong xã hội.

 

doc117 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1216 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Khu công nghiệp với sự phát triển Kinh tế - Xã hội ở tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khu c«ng nghiÖp víi sù ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi ë tØnh h¶i d­¬ng Hµ Néi - 2009 Môc lôc Trang Më ®Çu 1 Ch­¬ng 1: C¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn vÒ t¸c ®éng cña c¸c khu c«ng nghiÖp ®èi víi sù ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi 6 1.1. Khu c«ng nghiÖp vµ t¸c ®éng cña nã ®èi víi sù ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi 6 1.2. Nh÷ng nh©n tè chñ yÕu chi phèi t¸c ®éng cña khu c«ng nghiÖp tíi sù ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi 30 1.3. Kinh nghiÖm cña mét sè tØnh vÒ xö lý t¸c ®éng tiªu cùc trong ph¸t triÓn khu c«ng nghiÖp 34 Ch­¬ng 2: Thùc tr¹ng t¸c ®éng cña c¸c khu c«ng nghiÖp ®èi víi sù ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi cña tØnh H¶i D­¬ng 44 2.1. Sù ra ®êi vµ ph¸t triÓn c¸c khu c«ng nghiÖp ë tØnh H¶i D­¬ng 44 2.2. §¸nh gi¸ nh÷ng t¸c ®éng cña c¸c khu c«ng nghiÖp ®èi víi sù ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi ë tØnh H¶i D­¬ng 60 Ch­¬ng 3: Ph­¬ng h­íng vµ gi¶i ph¸p ®¶m b¶o cho ho¹t ®éng cña c¸c khu c«ng nghiÖp ë tØnh H¶i D­¬ng g¾n víi sù ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi trªn ®Þa bµn 76 3.1. Ph­¬ng h­íng ph¸t triÓn c¸c khu c«ng nghiÖp ë tØnh H¶i D­¬ng g¾n víi sù ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi 76 3.2. Nh÷ng gi¶i ph¸p chñ yÕu nh»m ph¸t huy mÆt tÝch cùc vµ ng¨n ngõa, h¹n chÕ tiªu cùc trong ph¸t triÓn c¸c khu c«ng nghiÖp ®èi víi sù ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi ë tØnh H¶i D­¬ng 88 KÕt luËn 104 danh môc tµi liÖu tham kh¶o 105 phô lôc 110 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN CCN : Cụm công nghiệp CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNXH : Chủ nghĩa xã hội CTCP : Công ty cổ phần KCN : Khu công nghiệp KCNC : Khu công nghệ cao KCX : Khu chế xuất KH – CN : Khoa học – công nghệ KT- XH : Kinh tế -xã hội NĐ : Nghị định NQ : Nghị quyết TU : Tỉnh uỷ UBND : Uỷ ban nhân dân  DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1: Các KCN tỉnh Đồng Nai 36 Bảng 2.1 : Một số khoáng sản chủ yếu của tỉnh Hải Dương 47 Bảng 2.2: Cơ cấu kinh tế ngành của tỉnh Hải Dương giai đoạn 1995-2000 47 Bảng 2.3: Các khu công nghiệp phát triển giai đoạn 2010 – 2020 49 Bảng 2.4: Tổng hợp một số chỉ tiêu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN 59 Bảng 2.5: Bảng tổng hợp kế hoạch doanh thu năm 2008 60 Bảng 2.6: Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của KCN 68 Bảng 3.1: Dự báo tốc độ tăng trưởng GDP và cơ cấu các khu vực kinh tế 80 Bảng 3.2: Dự báo giá trị GDP của các khu vực kinh tế (giá so sánh 1994) 80 Bảng 3.3: Dự báo giá trị sản xuất công nghiệp 81 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phát triển khu công nghiệp là một giải pháp quan trọng nhằm thu hút vốn đầu tư thúc đẩy công nghiệp phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, đồng thời tạo điều kiện bảo vệ môi trường sinh thái bảo đảm phát triển bền vững. Ở nước ta, năm 1991, Đảng và Nhà nước có chủ trương triển khai thí điểm việc thực hiện giải pháp quan trọng này. Từ đó đến nay, cả nước đã có gần 200 tr¨m khu c«ng nghiÖp víi c¸c quy m«, lo¹i h×nh được phân bổ hầu khắp các tỉnh, thành phố. Sự phát triển các khu công nghiệp đã góp phÇn to lín vµo viÖc thùc hiÖn c¸c môc tiªu kinh tÕ - x· héi của đất nước. Các khu công nghiệp trở thành điểm thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài, đón nhận các tiến bộ khoa học kỹ thuật và tạo ra những nhân tố quan trọng thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Hải Dương là tỉnh mới được tái lập từ 1/1/1997, thuộc một trong tám tỉnh của vùng kinh tế trọng điểm ở đồng bằng Bắc bộ với hệ thống giao thông thủy, bộ, đường sắt thuận lợi. Hải Dương trở thành địa bàn cung cấp hàng hóa quan trọng đồng thời tham gia trung chuyển hàng hóa giữa hệ thống cảng biển với các tỉnh và thành phố lớn ở phía Bắc. Trong tương lai, Hải Dương lµ träng ®iÓm thu hút, phát triển công nghiệp, du lịch thương mại và trở thành một trong các đô thị lớn trong vùng. Trong xu thế phát triển chung của cả nước, tỉnh Hải Dương đã có 10 khu công nghiệp với diện tích 2.087 ha. Sự phát triển khu công nghiệp ở Hải Dương trong thời gian qua đã góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, thu hút vốn và công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiến bộ của nhiều nước trên thế giới. Đồng thời, sự phát triển khu công nghiệp đã tạo điều kiện cho sự ra đời các khu đô thị, nâng cao chất lượng đời sống dân cư. Tuy nhiên, trong 17 năm qua, sự phát triển các khu công nghiệp ë tỉnh Hải Dương đã bộc lộ những bất cập trong giải quyết vấn đề môi trường sinh thái, việc làm, thu nhập của người dân mất đất, sự quá tải của hệ thống kết cấu hạ tầng... Những bất cập đó đang là lực cản cho việc phát huy vai trò của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, gây ra những bức xúc trong xã hội. Nhằm góp phần vào giải quyết những bức xúc này, tôi chọn đề tài “Khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương” ®Ó nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị. Việc nghiên cứu này vừa có ý nghĩa về mặt lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp bách không chỉ đối với tỉnh Hải Dương mà còn đối với cả nước. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Kể từ khi Đảng, Nhà nước ta có chủ trương xây dựng và phát triển các khu công nghiệp đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này, tiêu biểu là: - Bộ kế hoạch và đầu tư (2002) “Kinh nghiệm thế giới về phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất và đặc khu kinh tế”; - Nguyễn Mạnh Đức, Lê Quang Anh (1998) “Hướng dẫn đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ở Việt Nam”, Nxb Thống kê; - Vũ Huy Hoàng (2002) “Tổng quan về hoạt động của các khu công nghiệp”, Kỷ yếu khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh; - Trương Thị Minh Sâm (2004) “Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp, khu chế xuất” , Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; - Trần Văn Tùng (2005) “Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường ở một số khu công nghiệp phía Bắc tới sức khỏe cộng đồng”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. - Nguyễn Chơn Trung, Trương Quang Long (2004) “Phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Một số đề tài dưới dạng luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ nghiên cứu vấn đề này như: - Lê Hồng Yến (1996), “Hoàn thiện chính sách cơ chế quản lý nhà nước đối cới các khu công nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (qua thực tiễn khu công nghiệp các tỉnh phía Bắc)”, Luận án tiến sĩ tại trường Đại học Thương mại; - Nguyễn Xuân Hinh (2003), “Quy hoạch xây dựng và phát triển khu công nghiệp Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, Luận án tiến sĩ kinh tế tại trường Đại học Kinh tế quốc dân; - Trần Văn Phùng (2007), “Nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội các khu công nghiệp Miền Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; - Nguyễn Duy Cường (2006), “Hiệu quả kinh tế - xã hội của các khu công nghiệp ở Thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; - Lê Công Đồng (2005), “Thu nhập của người lao động ở khu công nghiệp Tân Bình – Quận Tân Phú, TP Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - Phạm Xuân Đức (2006) “Cung cầu nhà ở cho công nhân các khu công nghiệp ở Hà Nội hiện nay”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; - Bùi Vĩnh Kiên (2002), “Một số giải pháp đẩy mạnh phát triển các khu công nghiệp ở Bắc Ninh”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại trường Đại học kinh tế quốc dân. - Nguyễn Văn Thành (2006), "Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An hiện nay”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; - Hà Thị Thúy (2007), “Các khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Bắc Giang”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, các nghiên cứu đó tập trung vào những vấn đề chung trên phạm vi tổng thể cả nước hoặc trên địa bàn một vùng, một tỉnh khác, trong đó chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ quản lý kinh tế, kinh tế phát triển và có một số đề tài nghiên cứu kinh tế chính trị nhưng lại trên địa bàn tỉnh khác. Đến nay, ở Hải Dương chưa có một công trình khoa học nào dưới góc độ kinh tế chính trị nghiên cứu về tác động của khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đề tài mà học viên lựa chọn nghiên cứu không trùng hợp với các công trình khoa học đã công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn - Mục đích: Đánh giá tác động cña khu công nghiệp (bao gồm các khu công nghiệp, khu chế xuất và cụm công nghiệp) đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương để đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và ngăn ngừa hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra. - Nhiệm vụ: + Hệ thống hóa cơ sở lý luận, thực tiễn về tác động của các khu công nghiệp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn một tỉnh ở nước ta. + Đánh giá thực trạng tác động của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương. + Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy tốt mặt tích cực và ngăn ngừa, hạn chế những tác động tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình phát triển các khu công nghiệp này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của các khu công nghiệp (gồm khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp) đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, trong đó chủ yếu nghiên cứu và phân tích tác động tiêu cực trong quá trình phát triển các khu công nghiệp này. - Phạm vi nghiên cứu: + Về không gian: địa bàn tỉnh Hải Dương. + Về thời gian: từ khi triển khai xây dựng và phát triển các khu công nghiệp ở nước ta đến nay (1991 – 2008). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận - Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam và những lý thuyết về công nghiệp hóa và đầu tư trong nền kinh tế thị trường. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị học, trong đó coi trọng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê từ tư liệu thực tiễn. 6. Những đóng góp khoa học của luận văn - Hệ thống hóa cơ sở lý luận về tác động của các khu công nghiệp đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. - Phân tích đánh giá thực trạng tác động của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hải Dương từ năm 1991 đến nay. Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, khắc phục ngăn ngừa những tiêu cực trong quá trình phát triển hình thức tổ chức kinh tế này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - Xà HỘI 1.1. KHU CÔNG NGHIỆP VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - Xà HỘI 1.1.1. Khu công nghiệp Vào những năm cuối thế kỉ XIX, KCN đã được hình thành ở một số nước tư bản phát triển. Năm 1896, xuất hiện KCN đầu tiên ở Traffort Park thành phố Manchester nước Anh. Sau đó, KCN lần lượt được thành lập ở các nước khác như Mỹ năm 1899, Italia năm 1904; và kể từ những năm 50 thế kỷ XX thì KCN thực sự bùng nổ, trở thành phổ biến ở các nước. Trong quá trình phát triển đó, KCN đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực nên nó được coi là một công cụ để phát triển kinh tế. Ngày nay, KCN xuất hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Mặc dù thuật ngữ KCN được sử dụng khá phổ biến nhưng bản thân nó lại bao hàm nhiều hình thức tổ chức và tính chất hoạt động khác nhau. Theo nghĩa thông thường, KCN là khu vực có tính chất độc lập tập trung nhiều doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Các KCN ra đời là kết quả của việc xây dựng các doanh nghiệp công nghiệp riêng rẽ. Xen lẫn với các doanh nghiệp công nghiệp là khu dân cư hoặc các cơ quan hành chính sự nghiệp các doanh nghiệp thuộc ngành khác… nghĩa là KCN chuyên sản xuất hàng dành cho xuất khẩu. Ở đó, chính quyền đã áp dụng nhiều chính sách ưu đãi như miễn thuế (thuế xuất - nhập khẩu, thuế thu nhập cá nhân, thuế tài sản…) và tự do mua bán. Tuy nhiên, đến nay ở các nước khác nhau có những quan niệm khác nhau về KCN. Có quan niệm cho rằng, KCN là một vùng đất được phân chia và phát triển có hệ thống theo một kế hoạch tổng thể nhằm cung cấp địa điểm cho các ngành công nghiệp tương hợp với hạ tầng cơ sở, các tiện ích công cộng, các dịch vụ phục vụ và hỗ trợ [14, tr.15]. Ở Thái Lan và Philippin, KCN được quan niệm như một thành phố công nghiệp và thực tế nó là một cộng đồng tự túc và độc lập. Ngoài việc cung cấp kết cấu hạ tầng, các tiện nghi, tiện ích công cộng hoàn chỉnh và xử lý chất thải, KCN cũng bao gồm khu thương mại, dịch vụ ngân hàng, trường học, bệnh viện, các khu vui chơi giải trí, khu nhà ở cho công nhân… Các KCN ở Thái Lan và Inđônêxia thường có 3 bộ phận chủ yếu: khu sản xuất hàng tiêu thụ nội địa, khu sản xuất hàng xuất khẩu và khu thương mại dịch vụ. Có quan niệm lại cho rằng, KCN là một khu vực phụ, không nhất thiết phải có sự ngăn cách, biệt lập bởi trên thực tế có nhiều tập đoàn và tổ hợp công nghiệp với một chuỗi đồ sộ các xí nghiệp, nhà máy liên kết với nhau trên một khu vực rộng lớn. Việc bố trí mặt bằng các khu sản xuất trên quy mô lớn như vậy hình thành một loại hình tổ chức mới của KCN mà không nhất thiết phải có quy mô đặc thù [27, tr.30-31, 33]. Theo quan điểm của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) trong tài liệu KCX ở các nước đang phát triển công bố năm 1990, thì KCN là khu vực tương đối nhỏ, phân cách về mặt địa lý trong một quốc gia nhằm mục tiêu thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu bằng cách cung cấp cho các ngành công nghiệp này những điều kiện về đầu tư mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần lãnh thổ còn lại của nước chủ nhà. Trong đó đặc biệt là KCX cho phép nhập khẩu hàng hoá dùng cho sản xuất để xuất khẩu miễn thuế [44, tr.18]. Theo quan điểm của Hiệp hội thế giới về KCX (World Expot Processing Zone Association – WEPZA) thì KCX là tất cả các khu vực được chính phủ các nước cho phép thành lập và hoạt động như Cảng tự do, Khu mậu dịch tự do, KCN tự do hay bất kỳ khu vực ngoại thương hoặc khu vục khác được tổ chức này công nhận. Thực tế cho thấy, do nhu cầu phát triển của thương mại và đầu tư quốc tế ngày càng được mở rộng xuất phát từ yêu cầu bức thiết của quá trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của các nước đang phát triển nên khái niệm trên đã được bổ sung thành những quan niệm mới như Khu kinh tế mở, Đặc khu kinh tế, Thành phố mở…[44, tr.8]. Quan niệm của Hiệp hội thế giới về KCX rất rộng đòi hỏi chính sách quản lý có độ linh hoạt cao và mức độ tự do hoá khá lớn. Tuy những quan niệm trên có một số khác nhau về nội hàm KCN, KCX, song về cơ bản đều thống nhất ở những đặc trưng sau: Một là, KCN là nơi hội tụ và thích ứng với nhau về mặt lợi ích và mục tiêu xác định giữa chủ đầu tư và nước chủ nhà. KCN là nơi có môi trường kinh doanh đặc biệt phù hợp, được hưởng những quy chế tự do, các chính sách ưu đãi kinh tế (đặc biệt là thuế quan) so với các vùng khác ở nội địa. Chúng là nơi có vị trí thuận lợi cho việc phát triển sản xuất, thương mại, dịch vụ đầu tư trên cơ sở chính sách ưu đãi về kết cấu hạ tầng, cơ chế pháp lý, thủ tục hải quan, thủ tục hành chính, chính sách tài chính tiền tệ, môi trường đầu tư… Hai là, KCN là bộ phận không thể thiếu và không thể tách rời trong sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Nó thường là những khu vực có vị trí địa lý riêng biệt thích hợp, có hàng rào xung quanh, giới hạn với các vùng lãnh thổ còn lại của nước sở tại và được chính phủ nước đó cho phép hoặc rút phép xây dựng và phát triển. Ba là, KCN là nơi thực hiện mục tiêu hàng đầu về ưu tiên chính sách hướng ngoại, thu hút chủ yếu vốn đầu tư nước ngoài vào phát triển các loại hình sản xuất kinh doanh phục vụ xuất khẩu. Đây là mô hình thu nhỏ về chính sách KT - XH mở cửa của một nước. Ở Việt Nam, khái niệm về KCN được ghi trong Nghị định 192/CP ngày 15/12/1994 của Chính phủ về quy chế KCN. Các KCN được định nghĩa là khu vực công nghiệp tập trung, được thành lập do quyết định của Chính phủ với các ranh giới được xác định, cung ứng các dịch vụ hỗ trợ sản xuất và không có dân cư. Theo Điều 2 - Nghị định 36/CP của Chính phủ ban hành về: “Quy chế hoạt động của các KCN, KCX, KCNC” thì khái niệm về KCN được giải thích như sau: KCN là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. KCX là KCN tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu. Những doanh nghiệp này được hưởng những ưu đãi đặc biệt về thuế quan, miễn thuế đối với tất cả các hàng hoá xuất nhập khẩu. Sản phẩm của các doanh nghiệp này chỉ được phép xuất khẩu chứ không được tiêu thụ trên thị trường nội địa. Trong trường hợp bán trên thị trường nội địa thì sẽ phải chịu thuế nhập khẩu như đối với những hàng hoá nhập khẩu thông thường. KCNC là KCN tập trung những doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao, bao gồm nghiên cứu triển khai khoa học và công nghệ, đào tạo và các dịch vụ có liên quan, có ranh giới xác định, do chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong KCN cao có thể có doanh nghiệp chế xuất. Doanh nghiệp chế xuất là doanh nghiệp chuyên sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, được thành lập và hoạt động theo quy chế này. Doanh nghiệp KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN, gồm doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ. Doanh nghiệp sản xuất KCN là doanh nghiệp sản xuất hàng công nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN. Doanh nghiệp dịch vụ KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN, thực hiện dịch vụ và các công trình kết cấu hạ tầng KCN, dịch vụ sản xuất công nghiệp. Có thể thấy rằng KCN là những địa bàn sản xuất công nghiệp gồm nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, không có dân cư sinh sống, có ranh giới pháp lý riêng, có ban quản lý riêng do Chính phủ thành lập. Về kết cấu hạ tầng, KCN được cung cấp đầy đủ các yếu tố hạ tầng kỹ thuật hiện đại, đạt các tiêu chuẩn quy định phục vụ trực tiếp cho hoạt động các doanh nghiệp công nghiệp. Về cơ cấu ngành, trong KCN có cả các ngành truyền thống mà trong nước có lợi thế so sánh và cả các ngành công nghiệp mới như điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ lắp ráp v.v.. So với KCX, KCN thường có phạm vi hoạt động rộng hơn. Nó không chỉ bao gồm các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và dịch vụ cho xuất khẩu mà còn mở ra cho tất cả các ngành công nghiệp bao gồm cả sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Các doanh nghiệp 100% vốn trong nước có thể được vào hoạt động tại KCN, khác với KCX chỉ liên kết với các công ty có vốn nước ngoài. Các ưu đãi từ phía Chính phủ cũng được thực hiện đối với doanh nghiệp trong KCN chú trọng tới việc sản xuất hàng xuất khẩu, do đó những doanh nghiệp này sẽ được hưởng chế độ ưu đãi như trong KCX và cũng sẽ được hưởng ưu đãi như trong KCN. KCX là khu vực thu hút các dự án đầu tư nước ngoài để xuất khẩu. Quan hệ giữa các doanh nghiệp chế xuất với thị trường nội địa là quan hệ ngoại thương cũng giống như quan hệ giữa thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. KCX là khu thương mại tự do, bởi vì hàng hoá từ KCX ra nước ngoài và từ nước ngoài vào KCX không phải chịu thuế xuất nhập khẩu và ít bị ràng buộc bởi hàng rào phi thuế quan. Còn quan hệ giữa các doanh nghiệp KCN với thị trường nội địa là quan hệ nội thương (trừ doanh nghiệp chế xuất trong KCN được hưởng ưu đãi như doanh nghiệp trong KCX). KCN không phải là khu thương mại tự do mà là khu sản xuất tập trung. Về điều kiện ưu đãi, doanh nghiệp KCX được hưởng thuế thu nhập 10%, miễn thuế trong 4 năm đầu đối với doanh nghiệp sản xuất, nộp 15% và miễn 2 năm đối với doanh nghiệp dịch vụ; còn doanh nghiệp KCN nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 15% đối với doanh nghiệp xuất khẩu dưới 50% sản phẩm trong 2 năm, 10% đối với doanh nghiệp xuất khẩu trên 80% sản phẩm và trong 2 năm. Đối với nước sở tại, thì KCX có nhiều mặt lợi hơn so với KCN. Điều này có thể được lý giải bởi các lý do sau đây: - Doanh nghiệp chế xuất không được trực tiếp sử dụng thị trường nội địa nên nhìn chung là không cạnh tranh với sản xuất trong nước. - Nhà nước không lo cân đối ngoại tệ cho doanh nghiệp mà ngược lại, nguồn ngoại tệ của xã hội lại được tăng lên nhanh chóng nhờ hoạt động của KCX. - Thúc đẩy việc mở cửa thị trường nội địa nhanh hơn, phù hợp với chủ trương xây dựng nền kinh tế mở hướng mạnh về xuất khẩu. Tuy nhiên, những gì được coi là có lợi cho nước sở tại thì ngược lại là bất lợi đối với nhà đầu tư. Để có thể xuất khẩu được 100% sản phẩm, việc tổ chức sản xuất phải đạt chất lượng cao, đồng đều, giá hợp lý, phù hợp với điều kiện cạnh tranh của thị trường quốc tế. Do các bất lợi trên mà các nhà đầu tư nước ngoài thường quan tâm đến hình thức KCN, nhằm tận dụng lợi thế về thị trường nội địa. Điều này nghĩa là việc xây dựng thành công các KCX thường gặp khó khăn hơn là KCN. Việc các nhà đầu tư nước ngoài coi trọng mô hình KCN là có căn nguyên riêng của nó, nhưng cần phải thấy được một vấn đề là nếu một quốc gia có quá nhiều KCN hoạt động sẽ có hàng nghìn doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng chủ yếu do nước ngoài đầu tư. Điều này sẽ tạo ra hiện tượng cạnh tranh gay gắt không cần thiết trên thị trường nội địa. Để khuyến khích đầu tư vào KCX, cần rà soát lại toàn bộ hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước theo tinh thần khuyến khích mạnh hơn, ưu đãi nhiều hơn cho KCX, làm cho nó có sức hấp dẫn cao hơn đối với các nhà đầu tư so với KCN. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng của các KCN và KCX là không ít khó khăn, nhưng việc kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn này là khó khăn hơn nhiều. Chất lượng của một KCX hay KCN phụ thuộc nhiều vào chất lượng của các dự án đã thu hút được. Như vậy KCN và KCX có những đặc điểm khác nhau xuất phát từ sự khác nhau về mục đích, đối tượng tham gia hay mối liên kết của chúng đối với nền kinh tế. KCN thường được nhận một sự ưu tiên nhất định từ phía chính quyền địa phương và Chính phủ với vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế vùng (địa phương), KCN bao gồm những doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. KCX cũng được xác định là KCN nhưng tập trung những doanh nghiệp chuyên sản xuất chế biến các hàng xuất khẩu, được sự ưu tiên đặc biệt của Chính phủ, có vai trò then chốt trong việc chuyển từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở. Từ Nghị định 36/CP cho thấy KCN là một khái niệm động gắn liền với điều kiện cụ thể nơi nó hình thành. Các tiêu chí để hình thành một KCN bao gồm: Thứ nhất, KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp có đủ cơ sở pháp lý, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp. Thứ hai, KCN là khu vực có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, xây dựng theo quy hoạch tổng thể đã được chính phủ phê duyệt. Thứ ba, KCN phải do chính phủ hoặc do Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập. Khi muốn hình thành KCN đã có trong quy hoạch tổng thể, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sẽ chỉ đạo việc lập báo cáo nghiên cứu khả thi thành lập KCN và trình Thủ tướng chính phủ xem xét để quyết định thành lập. Thứ tư, trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất. Đó là các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu. Tuy vậy, có thể coi khái niệm mà chúng ta sử dụng là khái niệm hẹp và chỉ quan tâm chủ yếu đến phần diện tích dành cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng để cho thuê, còn việc xây dựng các công trình phúc lợi xã hội không nằm trong phạm vi quy định. Quan niệm này dẫn đến một thực tế là khi xây dựng KCN, người ta không quan tâm đến tính đồng bộ của nó theo nghĩa rộng nên ảnh hưởng lớn đến hiệu quả KT - XH của KCN. Cho nên việc quy hoạch phát triển sản xuất nhất thiết phải đi kèm quy hoạch phát triển hạ tầng xã hội. Hiện nay ở nước ta đã xuất hiện hàng trăm các KCN vừa và nhỏ do Trung ương thành lập và các cụm CN ở các địa phương của chính quyền địa phương (cấp tỉnh, thành phố). Mặc dù có một số đặc điểm đặc thù như quy mô thường nhỏ hơn, ảnh hưởng thường hẹp hơn nhưng về bản chất không có sự khác biệt so với các KCN của Trung ương. Trong đề tài, khái niệm KCN được hiểu bao gồm cả KCN do Trung ương thành lập, quản lý và cả các cụm CN do chính quyền địa phương thành lập. Nói tóm lại, sự ra đời của các KCN nhằm mục đích cung cấp các điều kiện về kết cấu hạ tầng tốt nhất cho việc xây dựng và vận hành của các cơ sở sản xuất công nghiệp đặc biệt là hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào nước sở tại sẽ có được đầy đủ điều kiện mặt bằng, đường sá, hệ thống cung cấp điện, nước, hệ thống xử lý nước thải… để sản xuất kinh doanh mang lại lợi ích cho cả hai phía. 1.1.2. Tác động của khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội KCN ở Việt Nam ra đời cùng với chính sách đổi mới mở cửa do Đại hội Đảng lần thứ VI khởi xướng. Hoạt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van sua.doc
Tài liệu liên quan