Dùng pháp luật hoặc đạo đức để cai trị đã trở thành thuật trị nước, an dân từ ngàn xưa của các nhà nước. Dưới mỗi triều đại, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội đặc thù của mình mà các giai cấp cầm quyền lựa chọn một phương thức quản lý nhà nước thích hợp, hiệu quả, đó có thể là đức trị (quản lý xã hội bằng đạo đức), là pháp trị (quản lý xã hội bằng pháp luật) hoặc kết hợp cả hai phương thức đó.
Ở Việt Nam, trong suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm của các triều đại phong kiến, do chịu ảnh hưởng sâu sắc của các quan điểm Phật giáo, Nho giáo nên phương thức cai trị xã hội bằng pháp luật và hoạt động xây dựng pháp luật còn bị xem nhẹ. Chính vì vậy, đạo đức giữ vai trò to lớn trong điều chỉnh các QHXH. Cùng với nền văn hóa lúa nước: tương thân, tương ái, đoàn kết, nhân hòa, khoan dung, trọng nghĩa. hàng loạt QHXH đã được điều chỉnh bằng hệ thống quy phạm đạo đức. Có thể nói, đạo đức đã len lỏi đến từng mối QHXH, thấm đẫm trong tư tưởng đối nhân xử thế của người Phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng. Khi các QHXH ngày càng phát triển đa dạng và phong phú thì bên cạnh việc sử dụng các chuẩn mực đạo đức để điều chỉnh xã hội, các triều đại phong kiến đã từng bước để ý đến việc xây dựng pháp luật nhằm thể chế hóa những chuẩn mực đạo đức làm công cụ để điều chỉnh QHXH mang tính công quyền. Trong các triều đại phong kiến Việt Nam, chúng ta đặc biệt ghi nhận vai trò của triều Lê (Tiền Lê) với đại biểu Lê Thánh Tông (1442-1497) – Người đã kết hợp nhuần nhuyễn đạo đức với pháp luật trong thuật trị nước của mình.
Bước sang thời kỳ Pháp thuộc, sự tàn bạo và hà khắc của pháp luật đô hộ lại càng làm nhân dân có chung tâm lý xa luật, sợ luật bởi sự bóc lột và khai thác kiệt quệ sức người, sức của, bởi sự bất bình đẳng giữa địa vị của người mất nước và kẻ cướp nước. Đó là thứ pháp luật thống trị, xa rời những giá trị nhân văn bảo vệ quyền con người và tất yếu nó bị nhân dân phản đối.
Bước ngoặt có tính lịch sử của thuật dựng nước, giữ nước, xây dựng đất nước phồn thịnh bằng pháp luật gắn liền với công lao và sự nghiệp giải phóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở Người, đi tìm con đường giải phóng dân tộc, cứu nước, cứu dân cũng đồng thời là quá trình nhận thức, khẳng định vai trò, giá trị của pháp luật trong dựng nước và giữ nước. Song, chính Người cũng là điển hình mẫu mực trong việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa pháp luật và đạo đức. Quản lý nhà nước bằng pháp luật, nhưng phát huy tối đa vai trò của đạo đức trong xây dựng đời sống mới. Đạo đức công dân giúp cho mỗi người tự giác nhận thức, tôn trọng và thực hiện pháp luật. Đạo đức công chức góp phần ngăn chặn sự thoái hóa của người thực thi quyền lực nhà nước. Đặc biệt, đạo đức XHCN chính là cơ sở xây dựng nhà nước XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân phù hợp với bản sắc văn hóa Việt Nam. Tư tưởng hiến trị, pháp trị kết hợp với đạo đức của Người là yếu tố quyết định sự ra đời và phát triển không ngừng của hệ thống pháp luật XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Tại Điều 2, Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 (sau đây gọi tắt là Hiến pháp 1992) khẳng định: "Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức"[9, tr.13].
Xây dựng NNPQ là nhấn mạnh vai trò của pháp luật. Song không nên đề cao một chiều đến mức tuyệt đối hóa vai trò của pháp luật, coi pháp luật là yếu tố duy nhất để điều chỉnh các QHXH, mà bỏ qua vai trò hỗ trợ của các quy tắc xã hội khác như đạo đức, phong tục, tập quán tốt đẹp và các quy tắc tôn giáo tiến bộ. Bởi vì pháp luật chỉ tập trung đáp ứng được trong điều chỉnh những QHXH cơ bản và quan trọng liên quan tới lợi ích và vận mệnh của toàn bộ quốc gia. Đạo đức và các quy tắc xã hội khác sẽ bổ sung và lấp vào các khoảng trống trong các QHXH mà pháp luật chưa vươn tới được. Ở mối quan hệ này ta thấy, trong pháp luật phải có đạo đức, thiếu đạo đức, pháp luật xơ cứng và khó có thể thực hiện trong đời sống thực tế bằng sự tự giác, bằng niềm tin, khó có thể đạt tới chuẩn mực của "văn hóa pháp lý". Trong đạo đức cũng phải có pháp luật, thiếu pháp luật đạo đức mất sự định hướng để phát triển các giá trị bên trong của mình, mất đi sự bảo hộ cho các chuẩn mực đạo đức tồn tại và phát triển lâu bền.
113 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1197 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dùng pháp luật hoặc đạo đức để cai trị đã trở thành thuật trị nước, an dân từ ngàn xưa của các nhà nước. Dưới mỗi triều đại, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội đặc thù của mình mà các giai cấp cầm quyền lựa chọn một phương thức quản lý nhà nước thích hợp, hiệu quả, đó có thể là đức trị (quản lý xã hội bằng đạo đức), là pháp trị (quản lý xã hội bằng pháp luật) hoặc kết hợp cả hai phương thức đó.
ở Việt Nam, trong suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm của các triều đại phong kiến, do chịu ảnh hưởng sâu sắc của các quan điểm Phật giáo, Nho giáo nên phương thức cai trị xã hội bằng pháp luật và hoạt động xây dựng pháp luật còn bị xem nhẹ. Chính vì vậy, đạo đức giữ vai trò to lớn trong điều chỉnh các QHXH. Cùng với nền văn hóa lúa nước: tương thân, tương ái, đoàn kết, nhân hòa, khoan dung, trọng nghĩa... hàng loạt QHXH đã được điều chỉnh bằng hệ thống quy phạm đạo đức. Có thể nói, đạo đức đã len lỏi đến từng mối QHXH, thấm đẫm trong tư tưởng đối nhân xử thế của người Phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng. Khi các QHXH ngày càng phát triển đa dạng và phong phú thì bên cạnh việc sử dụng các chuẩn mực đạo đức để điều chỉnh xã hội, các triều đại phong kiến đã từng bước để ý đến việc xây dựng pháp luật nhằm thể chế hóa những chuẩn mực đạo đức làm công cụ để điều chỉnh QHXH mang tính công quyền. Trong các triều đại phong kiến Việt Nam, chúng ta đặc biệt ghi nhận vai trò của triều Lê (Tiền Lê) với đại biểu Lê Thánh Tông (1442-1497) – Người đã kết hợp nhuần nhuyễn đạo đức với pháp luật trong thuật trị nước của mình.
Bước sang thời kỳ Pháp thuộc, sự tàn bạo và hà khắc của pháp luật đô hộ lại càng làm nhân dân có chung tâm lý xa luật, sợ luật bởi sự bóc lột và khai thác kiệt quệ sức người, sức của, bởi sự bất bình đẳng giữa địa vị của người mất nước và kẻ cướp nước. Đó là thứ pháp luật thống trị, xa rời những giá trị nhân văn bảo vệ quyền con người và tất yếu nó bị nhân dân phản đối.
Bước ngoặt có tính lịch sử của thuật dựng nước, giữ nước, xây dựng đất nước phồn thịnh bằng pháp luật gắn liền với công lao và sự nghiệp giải phóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. ở Người, đi tìm con đường giải phóng dân tộc, cứu nước, cứu dân cũng đồng thời là quá trình nhận thức, khẳng định vai trò, giá trị của pháp luật trong dựng nước và giữ nước. Song, chính Người cũng là điển hình mẫu mực trong việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa pháp luật và đạo đức. Quản lý nhà nước bằng pháp luật, nhưng phát huy tối đa vai trò của đạo đức trong xây dựng đời sống mới. Đạo đức công dân giúp cho mỗi người tự giác nhận thức, tôn trọng và thực hiện pháp luật. Đạo đức công chức góp phần ngăn chặn sự thoái hóa của người thực thi quyền lực nhà nước. Đặc biệt, đạo đức XHCN chính là cơ sở xây dựng nhà nước XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân phù hợp với bản sắc văn hóa Việt Nam... Tư tưởng hiến trị, pháp trị kết hợp với đạo đức của Người là yếu tố quyết định sự ra đời và phát triển không ngừng của hệ thống pháp luật XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Tại Điều 2, Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 (sau đây gọi tắt là Hiến pháp 1992) khẳng định: "Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức"[9, tr.13].
Xây dựng NNPQ là nhấn mạnh vai trò của pháp luật. Song không nên đề cao một chiều đến mức tuyệt đối hóa vai trò của pháp luật, coi pháp luật là yếu tố duy nhất để điều chỉnh các QHXH, mà bỏ qua vai trò hỗ trợ của các quy tắc xã hội khác như đạo đức, phong tục, tập quán tốt đẹp và các quy tắc tôn giáo tiến bộ... Bởi vì pháp luật chỉ tập trung đáp ứng được trong điều chỉnh những QHXH cơ bản và quan trọng liên quan tới lợi ích và vận mệnh của toàn bộ quốc gia. Đạo đức và các quy tắc xã hội khác sẽ bổ sung và lấp vào các khoảng trống trong các QHXH mà pháp luật chưa vươn tới được. ở mối quan hệ này ta thấy, trong pháp luật phải có đạo đức, thiếu đạo đức, pháp luật xơ cứng và khó có thể thực hiện trong đời sống thực tế bằng sự tự giác, bằng niềm tin, khó có thể đạt tới chuẩn mực của "văn hóa pháp lý". Trong đạo đức cũng phải có pháp luật, thiếu pháp luật đạo đức mất sự định hướng để phát triển các giá trị bên trong của mình, mất đi sự bảo hộ cho các chuẩn mực đạo đức tồn tại và phát triển lâu bền.
Những năm gần đây, hàng loạt các văn bản pháp luật của nhà nước đã thể hiện sự pháp luật hóa những giá trị đạo đức thành chuẩn mực pháp luật để điều chỉnh những quan hệ phát triển không ngừng của đời sống xã hội như Luật Hôn nhân và gia đình (2000), Luật Lao động (2002), Pháp lệnh cán bộ công chức (2003), Luật Dân sự (2005)... Bên cạnh đó, sự thừa nhận và khuyến khích của nhà nước đối với xây dựng hương ước mới, xây dựng bảo tồn những phong tục tập quán có ý nghĩa trong hình thành và phát triển nhân cách con người mới lại một lần nữa thể hiện sự nhìn nhận, đánh giá của nhà nước về vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội. Có thể thấy giữa pháp luật và đạo đức luôn có mối quan hệ chặt chẽ qua lại với nhau.
Chỉ thị 23-CT/TW ngày 27/3/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về "Đẩy mạnh nghiên cứu tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới" là một bằng chứng hết sức sâu sắc và rõ ràng trong việc Đảng và Nhà nước nhận định vai trò to lớn của sự kết hợp giữa pháp luật với đạo đức khi xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, việc xây dựng thành một hệ thống chuẩn mực các giá trị đạo đức mới-đạo đức cách mạng còn là công việc phức tạp và nhạy cảm trong đời sống chính trị hiện nay. Hiệu quả của sự kết hợp pháp luật và đạo đức trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội cũng là rất khác nhau, nó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu một cách lâu dài, thống nhất cả về lý luận và thực tiễn để có thể đưa ra một cái nhìn tổng quát và hữu hiệu, đem lại lợi ích thiết thực cho quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
Xuất phát từ những lý do phân tích nêu trên, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: "Kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay" để làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sự kết hợp giữa pháp luật và đạo đức trong QLNN là một vấn đề đang được nhiều nhà khoa học quan tâm. Hầu hết các tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu sự giống và khác nhau giữa pháp luật và đạo đức; sự tác động qua lại giữa chúng khi điều chỉnh các QHXH hoặc nghiên cứu mối quan hệ pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội nói chung. ở góc độ này có thể kể ra một số công trình nghiên cứu khoa học sau đây.
-Trần Hậu Thành, "Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật", Tạp chí Giáo dục lý luận, số 5-1998, tr.36-38.
- Trần Hậu Thành và Lê Thị Hoài Thanh, "Về quan hệ giữa đạo đức và pháp luật", Tạp chí Khoa học chính trị, số 6-2000, tr.46-49.
- Hoàng Thị Kim Quế (chủ nhiệm) "Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội ở nước ta hiện nay", Đề tài khoa học cấp bộ, 2002.
- Hoàng Xuân Châu, “Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam” Luận văn Thạc sĩ Luật học Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002.
- Nguyễn Văn Năm, "Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học Đại học Luật Hà Nội, 2003.
Nhóm công trình nghiên cứu về vai trò, về những ảnh hưởng, tác động của đạo đức trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật giai đoạn hiện nay bao gồm:
- Phan Văn Tỉnh, "Đạo đức truyền thống của dân tộc là môi trường thuận lợi của việc thực hiện pháp luật", Xã hội và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
- Nguyễn Quốc Việt, "Bảo lưu các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay", Đề tài nghiên cứu cấp khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002.
- Công trình nghiên cứu của GS.Vũ Khiêu và PGS. Thành Duy "Pháp luật và đạo đức trong triết lý phát triển ở Việt Nam".
Ngoài ra có một số tác giả nghiên cứu về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức nhưng giới hạn trong phạm vi tư tưởng Hồ Chí Minh như:
- Triệu Vũ, "Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa đức trị và pháp trị trong quản lý xã hội", Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 11-1993, tr.17-21.
- Thành Duy "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, đạo đức và lợi ích công dân", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3-1995,tr 4-6.
- Lê Thị Hoài Thanh "Quan điểm Hồ Chí Minh về quan hệ giữa đạo đức và pháp luật", Tạp chí Giáo dục lý luận, số 6-2000, tr.24-26.
- Hoàng Thị Kim Quế, "Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức", Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 8-2002, tr.64-70.
- Lương Hồng Quang, "Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội", Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2002.
Những công trình khoa học kể trên là nguồn tư liệu, là cơ sở lý luận cho tác giả nghiên cứu, kế thừa trong việc xây dựng và phát triển công trình khoa học của mình theo hướng kết hợp pháp luật với đạo đức với tư cách là một phương thức quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, kiến giải vai trò của pháp luật, của đạo đức trong xây dựng và quản lý xã hội, từ đó đưa ra phương thức kết hợp giữa pháp luật và đạo đức để tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quản lý nhà nước, đặc biệt là trong giai đoạn chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Trên cơ sở lý luận về nhà nước và pháp luật, luận văn bước đầu nghiên cứu làm sáng tỏ sự cần thiết phải kết hợp pháp luật với đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay, đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của phương thức kết hợp giữa pháp luật với đạo đức.
- Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
Một là, trên cơ sở nghiên cứu tổng quan về những vấn đề lý luận về QLNN, về pháp luật, về đạo đức, luận văn phân tích và lý giải vai trò to lớn của pháp luật và của đạo đức trong QLNN.
Hai là, làm rõ sự thiết yếu phải kết hợp pháp luật với đạo đức trong điều kiện chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong điều kiện lịch sử kinh tế - chính trị - văn hóa đặc thù của Việt Nam.
Ba là, phải đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của sự kết hợp khoa học - biện chứng này.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng ta về lý luận nhà nước, pháp luật và lý luận về QLNN.
Các phương pháp được sử dụng trong luận văn là các phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học xã hội: phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh, phương pháp xã hội học, phương pháp tâm lý xã hội...
6. Những điểm mới của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước, về pháp luật, về đạo đức.
- Lý giải sự cần thiết phải kết hợp giữa pháp luật với đạo đức trong QLNN đặc biệt là trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay.
- Đánh giá một cách hệ thống, toàn diện thực trạng về sự kết hợp pháp luật với đạo đức trong QLNN ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp nhằm đảm bảo kết hợp pháp luật với đạo đức trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận về kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay
1.1. Quản lý nhà nước, các công cụ cơ bản quản lý nhà nước
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước
Thuật ngữ "quản lý" có nhiều nghĩa khác nhau. Theo “Từ điển tiếng Việt”, quản lý được hiểu dưới hai khía cạnh: "1. Trông coi và gìn giữ theo những yêu cầu nhất định"; "2. Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định" [24, tr.772]. Còn theo sách gốc và nghĩa từ Việt thông dụng, quản lý được hiểu là "trông nom, sửa sang, sắp đặt công việc" [32, tr.695]. ở Phương Tây, từ "quản lý" (management) có nguồn gốc Italia (managiare) được rút ra từ chữ La tinh "manus" nghĩa là bàn tay [12, tr.597].
Như vậy, có thể thấy rằng, thuật ngữ quản lý có nhiều cách diễn đạt khác nhau tùy theo góc độ tiếp cận. Tuy nhiên, quan điểm chung nhất về quản lý do các nhà điều khiển học đưa ra thì quản lý được hiểu là "sự tác động định hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát triển phù hợp với những quy luật nhất định" [39, tr.83]. Trong khái niệm này, "sự tác động có định hướng" được hiểu là sự tác động có tính kế hoạch của người quản lý vào bất kỳ một thời điểm nào đó, hướng đến đối tượng là "một hệ thống nào đó". Hệ thống này được xác định là "tập hợp nhiều yếu tố, đơn vị cùng loại hoặc cùng chức năng có quan hệ hoặc liên hệ với nhau chặt chẽ, làm thành một thể thống nhất" [24, tr.418].
Trong quản lý xã hội nói chung và quản lý lao động ở quá trình sản xuất, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ: quản lý là một dạng hoạt động - một hiện tượng tất yếu trong xã hội loài người. Các Mác cho rằng: "quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất xã hội của quá trình lao động" [18, tr.29-30] và "lao động giám sát và quản lý cần thiết ở tất cả những nơi, mà hoạt động sản xuất trực tiếp có hình thức của một quá trình phối hợp mang tính xã hội chứ không phải là lao động riêng lẻ của những người sản xuất độc lập" [20, tr.432].
Tuy những luận điểm trên đây nói về lao động sản xuất, nhưng có thể áp dụng đối với bất kỳ hoạt động chung nào của con người. Ăngghen khẳng định: "Quản lý là tất yếu khi nhiều người cần hoạt động chung với nhau, khi có sự hiệp tác của một số người" [19, tr.33-34]. Như vậy, ở đâu có sự hiệp tác của nhiều người thì ở đó có nhu cầu cần phải quản lý, đây là nhu cầu tự phát, nhu cầu bên trong của mọi quá trình, mọi sự vật hiện tượng.
Chức năng quản lý là chức năng của một “nhạc trưởng" thể hiện ở sự điều hòa những hoạt động cá nhân. Cho nên theo một nghĩa nào đó quản lý còn được coi là loại hình nghệ thuật: Nghệ thuật điều khiển người khác.
Từ khi xuất hiện nhà nước, một lực lượng nảy sinh từ xã hội, một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự thì phần quản lý xã hội quan trọng nhất do Nhà nước đảm nhiệm, tức là chủ thể nhà nước đứng ra quản lý những QHXH cơ bản nhất, bao trùm nhất của đời sống xã hội. Đó chính là quản lý nhà nước. Cùng với chủ thể quản lý đặc biệt là nhà nước, tham gia vào quản lý xã hội còn có một số chủ thể khác như các tổ chức xã hội, chính đảng, giai cấp, gia đình, các tổ chức tín điều tôn giáo... Tuy nhiên, đối tượng và phạm vi điều chỉnh nhỏ hẹp hơn nhiều. Vì thế có thể coi quản lý xã hội là một khái niệm rất rộng bao hàm QLNN và quản lý phần công việc còn lại của xã hội.
Theo Ăngghen, QLNN là quản lý xã hội do giai cấp nắm quyền thống trị xã hội thực hiện thông qua nhà nước của nó. Nhà nước quản lý xã hội bằng cách phân chia dân cư theo "địa vực", trên cơ sở thiết lập một "quyền lực công cộng" tách rời khỏi dân cư bằng việc đặt ra pháp luật, bắt buộc mọi tổ chức, mọi thành viên của xã hội phải thi hành. Luận điểm trên của Ăngghen cho thấy rằng, để thực hiện quyền lực, để quản lý xã hội, Nhà nước phải có một loại người đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lý. Loại chủ thể này được tổ chức thành các cơ quan nhà nước và hình thành một bộ máy đại diện cho quyền lực chính trị có sức mạnh cưỡng chế để duy trì địa vị của giai cấp thống trị, buộc các giai cấp khác phải phục tùng ý chí của giai cấp thống trị.
Nội hàm của QLNN thay đổi phụ thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia qua các giai đoạn lịch sử. Ngày nay, QLNN xét về mặt chức năng bao gồm hoạt động lập pháp của cơ quan lập pháp, hoạt động hành chính của Chính phủ và hoạt động tư pháp của hệ thống tư pháp. Thông qua ba hoạt động đặc thù này mà QLNN có những điểm khác biệt so với quản lý xã hội nói chung của các loại chủ thể khác như đã kể trên. Đó là:
- Chủ thể QLNN là các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Đối tượng QLNN là toàn thể nhân dân, tức toàn bộ dân cư sống và làm việc trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
- Vì tính đa dạng về lợi ích, hoạt động của các nhóm người trong xã hội, QLNN diễn ra trên tất cả các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa; xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của nhân dân.
Quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà nước, lấy pháp luật làm công cụ quản lý chủ yếu nhằm duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Từ những điểm khác biệt đã nêu trên, có thể hiểu QLNN là một dạng quản lý xã hội đặc biệt mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh hành vi hoạt động của con người trên tất cả các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Như trên đã trình bày, đối tượng của QLNN là các QHXH đầy nhạy cảm và biến động. Nó là các thực thể sống trong mối liên hệ đan xen, phức hợp, mà không tồn tại độc lập, riêng biệt. Chính vì vậy, tùy thuộc vào đặc điểm lịch sử, văn hóa, tùy thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ mà các chủ thể QLNN phải có sự linh hoạt, sáng tạo trong việc vận dụng, kết hợp các phương thức quản lý khác nhau, nhằm đạt hiệu quả tối ưu nhất. Điều này lý giải tại sao trong cùng một giai đoạn, có quốc gia dùng pháp luật làm công cụ cơ bản để QLNN, có quốc gia lại chủ yếu dùng đạo đức, dùng các phong tục, tập quán, tiền lệ, các tín điều tôn giáo để điều chỉnh các QHXH. Hay trong chính một quốc gia, qua các giai đoạn lịch sử, tùy từng thời kỳ có thể dùng pháp luật (pháp trị) hoặc đạo đức (đức trị) hoặc kết hợp cả hai phương thức đó trong thuật dựng nước và giữ nước.
Tuy nhiên, trong hoạt động QLNN, vấn đề kết hợp các yếu tố của hoạt động quản lý là rất phức tạp, đòi hỏi các nhà quản lý phải có năng lực cao cùng với sự hỗ trợ của các phương tiện công nghệ hiện đại. Cũng vì thế mà việc nghiên cứu phương thức QLNN trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam luôn là vấn đề cần được các nhà nghiên cứu làm sáng tỏ cả về mặt lý luận và thực tiễn. Điều này hết sức quan trọng và cần thiết, nhất là trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang tiến hành xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân [9, tr.13] trên nền tảng văn hóa dân tộc, đậm tính nhân bản, nhân văn. Đây tuy không phải là vấn đề mới song cần được lý giải một cách khoa học và biện chứng.
1.1.2. Các công cụ cơ bản quản lý nhà nước
Trải qua chiều dài của lịch sử xã hội, đã có rất nhiều công cụ quản lý được các triều đại nhà nước sử dụng để điều chỉnh các quan hệ trong xã hội nhằm đạt đến một trật tự mà giai cấp thống trị mong muốn. Trong rất nhiều công cụ đó, nổi bật lên hai loại công cụ cơ bản mà nhân loại đã chấp nhận chúng như những phương thức quan trọng để duy trì quyền lực, đó là pháp luật và đạo đức hay còn gọi là pháp trị và đức trị.
1.1.2.1. Pháp luật
Để tổ chức và quản lý các mặt khác nhau của đời sống xã hội, có nhiều công cụ, phương tiện khác nhau, trong đó pháp luật giữ một vai trò rất quan trọng. Là một hiện tượng xã hội phức tạp, cho nên ngay từ khi mới ra đời cũng như trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, pháp luật luôn được quan tâm, nghiên cứu. Tuy vậy, hiện nay khái niệm "pháp luật" vẫn chưa được nhận thức một cách thống nhất.
Quan điểm truyền thống đang được các trường đại học, các nhà khoa học, luật gia thừa nhận cho rằng: "Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các QHXH" [4, tr.64].
Tuy nhiên, một số tác giả không hoàn toàn tán thành với cách hiểu trên. Từ việc phân tách câu từ, họ cho rằng: Nếu nói pháp luật là các "quy tắc xử sự" thì không đầy đủ, chính xác, không bao quát hết được nội hàm bên trong của khái niệm pháp luật, bởi trong pháp luật còn nhiều quy định khác do nhà nước ban hành mà không được coi là quy tắc xử sự - tức chúng không phải là những khuôn mẫu, những mô hình mà luật pháp dự liệu con người phải thực hiện nếu rơi vào trong những trường hợp đã được dự liệu trước.
Đây là cách hiểu gò bó và cứng nhắc, thiếu biện chứng khi nhìn nhận đánh giá các sự vật hiện tượng. Thực tế là có một số không ít các quy định do Nhà nước ban hành chỉ để quy định cách hiểu về một thuật ngữ, giải thích, giới thiệu một khái niệm hay đưa ra những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo định hướng để thực hiện đúng, đủ một quy tắc xử sự cụ thể. Chúng không phải là những quy tắc xử sự, bởi chúng không đưa ra được "khuôn mẫu" xử sự, song thiếu chúng các chủ thể không thể thực hiện pháp luật một cách đúng đắn, đầy đủ như ý tưởng của các nhà lập pháp. Không có nó, chắc chắn việc nhận thức và thực hiện những quy tắc của hành vi sẽ không có sự thống nhất. Mặt khác, pháp luật không phải là phép cộng dồn giản đơn các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành, ở đây chúng ta phải lưu tâm đến từ "hệ thống" những quy tắc xử sự. Chính những tư tưởng, những nguyên tắc hay những quy định về cách hiểu các khái niệm, thuật ngữ đó sẽ là sợi dây liên kết các quy tắc xử sự thành một thể thống nhất, thành một hệ thống hoàn chỉnh đồng bộ.
Bên cạnh đó, cũng sẽ không là chính xác nếu hiểu pháp luật đơn thuần chỉ là ý chí của "giai cấp thống trị". Pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, do đó tất nhiên nó phải là ý chí của giai cấp cầm quyền. Bao giờ giai cấp này cũng thông qua nhà nước - tổ chức đại diện chính thức và hợp pháp cho toàn xã hội để buộc các thành viên phải phục tùng ý chí của mình. Nhà nước bằng sức mạnh cưỡng chế, bằng các biện pháp, nghiệp vụ quản lý có thể cho phép các thành viên trong xã hội được làm gì, không được làm gì và phải làm gì?
Tuy nhiên, với tư cách là một tổ chức quyền lực chung của toàn thể xã hội, nhà nước còn phải đứng ra tổ chức và quản lý đời sống cộng đồng, vì sự ổn định trật tự và phát triển của cả cộng đồng, phải duy trì, củng cố và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Chính vì vậy, pháp luật do nhà nước ban hành không chỉ "thể hiện ý chí của giai cấp thống trị", mà trên cơ sở ý chí của giai cấp thống trị, ý chí chung của cộng đồng xã hội tập trung thành ý chí nhà nước, thông qua hoạt động xây dựng pháp luật, ý chí nhà nước được thể hiện thành những quy định pháp luật cụ thể. Tính xã hội và tính giai cấp của pháp luật được thể hiện hết sức rõ ràng và sâu sắc trong hệ thống pháp luật XHCN. Trong nhà nước XHCN, quyền lợi của giai cấp cầm quyền cơ bản thống nhất với ý chí, quyền lợi của nhân dân lao động, do vậy mà "ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội" là ý chí chung thống nhất của toàn xã hội.
Từ cách hiểu trên đây có thể thấy rằng: Pháp luật XHCN là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước XHCN ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước trên cơ sở giáo dục thuyết phục mọi người tôn trọng và thực hiện.
Trong QLNN, pháp luật được xác định là công cụ quan trọng hữu hiệu để điều chỉnh các QHXH. So với các công cụ QLNN khác, pháp luật có ưu thế hơn hẳn như: tính xác định chặt chẽ về nội dung, hình thức, trình tự thủ tục ban hành và thực hiện, tính đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước... Vì vậy pháp luật là phương tiện có vai trò quan trọng nhất để tổ chức và quản lý đời sống xã hội. Pháp luật đảm bảo cho xã hội tồn tại và phát triển trong ổn định, trật tự. Nhờ có pháp luật, các hành vi xâm hại trật tự, an toàn xã hội được hạn chế và từng bước bị loại bỏ khỏi đời sống xã hội. Nhờ có pháp luật, giai cấp thống trị có thể củng cố, duy trì địa vị thống trị xã hội, bảo vệ và phát triển các lợi ích của mình, trấn áp sự phản kháng của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Bằng pháp luật, Nhà nước có thể quản lý các mặt khác nhau của đời sống xã hội trên các lĩnh vực của cuộc sống. Nhờ có pháp luật, Nhà nước có cơ sở để phát huy quyền lực của mình, kiểm tra, giám sát các hoạt động của con người, tổ chức trong xã hội. Pháp luật là cơ sở để tổ chức bộ máy nhà nước quy định chức năng, nhiệm vụ, hình thức và phương pháp hoạt động của các cơ quan, nhân viên trong bộ máy nhà nước. Cũng nhờ có pháp luật mà bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu quả, đồng thời pháp luật cũng là công cụ để đảm bảo quyền lực nhà nước được thực hiện với sự kiểm soát chặt chẽ. Do vậy, các hiện tượng lạm quyền, vượt quyền, thiếu trách nhiệm... bị hạn chế và loại trừ.
Do đó có thể nói, pháp luật là phương tiện hữu hiệu để bảo vệ và bảo đảm các quyền tự do dân chủ, lợi ích của các thành viên trong xã hội, góp phần tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ ngoại giao với các quốc gia khác nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van.doc
- Mục lục.doc