Luận văn Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay

Văn hóa vốn gắn liền với toàn bộ cuộc sống và với sự phát triển của xó hội. Con người ra đời cùng với văn hóa, trưởng thành nhờ văn hóa, hướng tới tương lai cũng từ văn hóa. Văn hóa của một dân tộc trước hết thể hiện ở bản sắc của dân tộc ấy. Bản sắc dân tộc thể hiện trong hệ giá trị của văn hóa dân tộc, nó biểu hiện và định hướng cho sự lựa chọn trong hành động của con người. Những giá trị văn hóa là thước đo trình độ phát triển và đặc tính riêng của mỗi dân tộc “Một dân tộc thiếu văn hóa chưa phải là một dân tộc thật sự hỡnh thành, một nền văn hóa không có bản sắc dân tộc thỡ nền văn hóa ấy không có sức sống thật sự của nó” [9, tr.16].

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, 54 dân tộc là 54 sắc màu văn hóa tạo nên nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam, được phân bố ở các vùng, miền của Tổ quốc. Do đặc điểm về điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội và nhiều nhân tố ảnh hưởng khác nhau, đã hình thành nên các vùng văn hóa khác nhau, từ đó văn hóa của các dân tộc cũng có những điểm khác biệt và mang tính đặc thù. Trong các vùng văn hóa ấy, vùng Tây Bắc nước ta gồm 6 tỉnh: Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái. Là một vùng rộng lớn, có địa chính trị, kinh tế - văn hóa độc đáo, có vị trí rất quan trọng đối với sự phát triển của đất nước cả về an ninh - quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội bao gồm rất nhiều dân tộc thiểu số sinh sống. Mỗi dân tộc với những đặc điểm riêng, đều sớm hình thành những nét văn hóa riêng có, độc đáo của mình.

Dân tộc Thái là dân tộc có số dân đông thứ hai trong 53 dân tộc thiểu số ở nước ta. Cũng như mọi dân tộc khác, người Thái ở Tây Bắc đã sớm hình thành một nền văn hóa mang mầu sắc riêng và hết sức đặc sắc. Nền văn hóa ấy ảnh hưởng sâu xa đến từng cá nhân trong cộng đồng người Thái, góp phần làm phong phú thêm những giá trị cho nền văn hóa đa dân tộc vùng Tây Bắc Việt Nam.

Những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến đổi. Xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra như một cơn lốc cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia khác không thể đứng ngoài dòng chảy này. Kinh tế thị trường với những ưu điểm và mặt trái của nó, có ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn hóa truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó có văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc. Bên cạnh những giá trị tốt đẹp trong văn hóa truyền thống của người Thái, còn có những yếu tố không còn phù hợp với sự phát triển của thời đại. Trước sự tác động của cơ chế thị trường, của mở rộng hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa hiện nay, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của người Thái nói chung, và người Thái ở Tây Bắc nói riêng đang bị mai một, pha trộn, lai căng, không còn giữ được bản sắc. Vấn đề khác quan trọng hơn cả, đó là chúng ta đang phấn đấu để có được sự bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, các vùng miền trên cả nước. Để đạt được điều này phải kết hợp nhiều yếu tố, trong đó văn hóa chiếm vai trò, vị trí hết sức quan trọng, không thể có bình đẳng dân tộc nếu như không giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta, bởi lẽ: "Vấn đề dân tộc là vấn đề văn hóa, đừng tìm vấn đề dân tộc ở chỗ khác" [19, tr.10].

Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, tạo điều kiện để vùng Tây Bắc phát triển đồng đều và vững chắc, đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu chung của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Trước tình hình đó thì việc giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc là vấn đề mang tính thời sự, cấp bách trong giai đoạn hiện nay.

 

doc107 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1481 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Văn húa vốn gắn liền với toàn bộ cuộc sống và với sự phỏt triển của xó hội. Con người ra đời cựng với văn húa, trưởng thành nhờ văn húa, hướng tới tương lai cũng từ văn húa. Văn húa của một dõn tộc trước hết thể hiện ở bản sắc của dõn tộc ấy. Bản sắc dõn tộc thể hiện trong hệ giỏ trị của văn húa dõn tộc, nú biểu hiện và định hướng cho sự lựa chọn trong hành động của con người. Những giỏ trị văn húa là thước đo trỡnh độ phỏt triển và đặc tớnh riờng của mỗi dõn tộc “Một dõn tộc thiếu văn húa chưa phải là một dõn tộc thật sự hỡnh thành, một nền văn húa khụng cú bản sắc dõn tộc thỡ nền văn húa ấy khụng cú sức sống thật sự của nú” [9, tr.16]. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, 54 dân tộc là 54 sắc màu văn hóa tạo nên nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam, được phân bố ở các vùng, miền của Tổ quốc. Do đặc điểm về điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội và nhiều nhân tố ảnh hưởng khác nhau, đã hình thành nên các vùng văn hóa khác nhau, từ đó văn hóa của các dân tộc cũng có những điểm khác biệt và mang tính đặc thù. Trong các vùng văn hóa ấy, vùng Tây Bắc nước ta gồm 6 tỉnh: Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái. Là một vùng rộng lớn, có địa chính trị, kinh tế - văn hóa độc đáo, có vị trí rất quan trọng đối với sự phát triển của đất nước cả về an ninh - quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội bao gồm rất nhiều dân tộc thiểu số sinh sống. Mỗi dân tộc với những đặc điểm riêng, đều sớm hình thành những nét văn hóa riêng có, độc đáo của mình. Dân tộc Thái là dân tộc có số dân đông thứ hai trong 53 dân tộc thiểu số ở nước ta. Cũng như mọi dân tộc khác, người Thái ở Tây Bắc đã sớm hình thành một nền văn hóa mang mầu sắc riêng và hết sức đặc sắc. Nền văn hóa ấy ảnh hưởng sâu xa đến từng cá nhân trong cộng đồng người Thái, góp phần làm phong phú thêm những giá trị cho nền văn hóa đa dân tộc vùng Tây Bắc Việt Nam. Những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến đổi. Xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra như một cơn lốc cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia khác không thể đứng ngoài dòng chảy này. Kinh tế thị trường với những ưu điểm và mặt trái của nó, có ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn hóa truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó có văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc. Bên cạnh những giá trị tốt đẹp trong văn hóa truyền thống của người Thái, còn có những yếu tố không còn phù hợp với sự phát triển của thời đại. Trước sự tác động của cơ chế thị trường, của mở rộng hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa hiện nay, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của người Thái nói chung, và người Thái ở Tây Bắc nói riêng đang bị mai một, pha trộn, lai căng, không còn giữ được bản sắc. Vấn đề khác quan trọng hơn cả, đó là chúng ta đang phấn đấu để có được sự bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, các vùng miền trên cả nước. Để đạt được điều này phải kết hợp nhiều yếu tố, trong đó văn hóa chiếm vai trò, vị trí hết sức quan trọng, không thể có bình đẳng dân tộc nếu như không giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta, bởi lẽ: "Vấn đề dân tộc là vấn đề văn hóa, đừng tìm vấn đề dân tộc ở chỗ khác" [19, tr.10]. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, tạo điều kiện để vùng Tây Bắc phát triển đồng đều và vững chắc, đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu chung của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Trước tình hình đó thì việc giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc là vấn đề mang tính thời sự, cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề, để đóng góp phần công sức nhỏ bé vào mục tiêu của cả nước nói chung, và tỉnh Sơn La nói riêng, tôi chọn vấn đề “Kế thừa và phỏt huy bản sắc văn húa của dõn tộc Thỏi ở Tõy Bắc hiện nay " làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề này đã được nhiều người nghiên cứu ở những phạm vi và góc độ khác nhau. Nghiên cứu dưới góc độ bản sắc văn hóa có những tác phẩm tiêu biểu như: "Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc", Huy Cận, Nxb Chính trị Quốc gia, 1994. "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam", PGS. Viện sĩ Trần Ngọc Thêm, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2001. "Bản sắc văn hóa Việt Nam", Phan Ngọc, Nxb Văn học, 2002. "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc", Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên). "Bản sắc văn hóa dân tộc", Hồ Bá Thâm, Nxb Văn hóa Thông tin, 2003.  Nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số có: "Tìm hiểu văn hóa vùng các dân tộc thiểu số" của Lò Giàng Páo, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1997. "Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam", Ngô Văn Lệ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998. Đề tài: "Văn hóa truyền thống của các dân tộc Jrai và Bahnar ở tỉnh Gia Lai hiện nay - Thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ Triết học của Lê Thị Mỹ Vân, 1999, Đại học KHXH & NV - ĐHQG Hà Nội."Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong cuộc sống hôm nay", Nguyễn Khoa Điềm, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 7/2000. Đề tài: "Vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số ở Gia Lai trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003 của Đỗ Văn Hòa... Nghiên cứu văn hóa dân tộc Thái có các công trình: “Nghệ thuật trang phục thái”, Lê Ngọc Thắng, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1990. "Văn hóa thái Việt Nam", Cầm Trọng, Phan Hữu Dật, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1995. "Văn hóa và lịch sử người Thái ở Việt Nam", Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1996."Bản Mường - một cấu trúc xã hội truyền thống Thái, Báo cáo khoa học trình bày tại hội nghị quốc tế Thái học lần thứ 4, Chiềng Mai - Thái Lan, (10-1996), Cầm Trọng. Đề tài khoa học KX.03.97: "Nghiên cứu văn hóa bản dân tộc Thái Đen, trên cơ sở đó đề xuất nội dung, giải pháp xây dựng mô hình bản văn hóa", 1999, UBND tỉnh Sơn La. "Vài nét về người Thái ở Sơn La", Vì Trọng Liên, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2002. "Hoa Văn Thái" của Hoàng Lương, Nxb Lao động, Hà Nội, 2003. "Bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống ở vùng núi Bắc Trung Bộ hiện nay", Cao Văn Thanh (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. Và nhiều bài viết trên các tạp chí: Dân tộc học, nghiên cứu lịch sử... Nhìn chung: Các công trình, tác phẩm đều đã đi vào khai thác những đặc điểm chung về bản sắc văn hóa; văn hóa các dân tộc thiểu số; văn hóa của dân tộc Thái ở nước ta. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu những giá trị văn hóa, phong tục tập quán của người Thái (nói chung), người Thái ở Tây Bắc (nói riêng) nhằm giới thiệu về người Thái; những nét đặc sắc - cái hay, cái đẹp của văn hóa dân tộc Thái. Một số đề tài, công trình cũng đề cập tới vấn đề bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái nhưng mới chỉ đề cập một cách chung chung hoặc đi sâu tìm hiểu một số nét văn hóa cụ thể; đã đề cập đến thực trạng và một số giải pháp cho sự phát triển văn hóa các dân tộc Tây Bắc nhưng cũng chỉ là những giải pháp mang tính định hướng chung cho các dân tộc thiểu số; chủ yếu nghiên cứu về văn hóa dân tộc Thái ở góc độ văn hóa, chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc độ triết học, chưa bàn nhiều tới vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc một cách khái quát. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn * Mục đích nghiên cứu: trên cơ sở làm rõ thực trạng kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay (qua thực tế ở tỉnh Sơn La), luận văn đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc nói chung, và dân tộc Thái ở Sơn La nói riêng. * Nhiệm vụ: luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính sau: Một là, làm rõ bản sắc văn hóa của dân tộc Thái và tính tất yếu khách quan của việc kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái. Hai là, đánh giá thực trạng vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay (minh họa bằng các số liệu, thực tế...khảo sát ở tỉnh Sơn La). Ba là, chỉ ra nguyên nhân của thực trạng và đề ra một số giải pháp cơ bản, nhằm kế thừa và phát huy bản sắc dân tộc Thái ở Tây Bắc và Sơn La. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc (nội dung chủ yếu là văn hóa dân tộc Thái ở tỉnh Sơn La) trên góc độ triết học. * Phạm vi nghiên cứu: Văn hóa là một vấn đề rất rộng, văn hóa các dân tộc cũng rất đa dạng và phong phú...Luận văn không trình bày toàn bộ các vấn đề thuộc về văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc mà chủ yếu khai thác một cách có hệ thống, ở khía cạnh triết học những giá trị văn hóa tạo nên "Bản sắc văn hóa" của dân tộc Thái ở Tây Bắc và ở Sơn La nhằm kế thừa và phát huy nó trong giai đoạn hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Thực hiện đề tài này, luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở l‎ý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về văn hóa và chính sách phát triển văn hóa, nhất là quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; đồng thời có tham khảo một số công trình nghiên cứu, đề tài khoa học, sách, báo... tài liệu có liên quan đến nội dung được đề cập trong luận văn. * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgíc; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch, điều tra, so sánh... nhằm thực hiện mục đích mà đề tài đặt ra. 6. Đóng góp khoa học của luận văn Luận văn góp phần làm rõ thêm những nét đặc sắc của tộc Thái ở Tây Bắc; phân tích và hệ thống hóa các giá trị văn hóa của dân tộc Thái dưới góc độ triết học. Qua đó đưa ra những giải pháp cơ bản và thiết thực nhằm kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc và Sơn La trong giai đoạn hiện nay. 7. ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung và làm sáng tỏ lý luận về văn hóa, bản sắc văn hóa và vấn đề kế thừa nó; đồng thời góp phần khẳng định vai trò, ý nghĩa của những giá trị văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc theo hướng: Xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy các bộ môn: Triết học, Văn hóa, Dân tộc học... ở các nhà trường, làm tài liệu tham khảo cho cán bộ hoạch định chính sách và quản lý văn hóa ở Tây Bắc và tỉnh Sơn La. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 4 tiết. Chương 1 Bản sắc văn hóa của dân tộc Thái. Tính tất yếu khách quan của việc kế thừa và phát huy nó 1.1. Bản sắc văn hóa của dân tộc Thái 1.1.1. Một vài nét về lịch sử dân tộc Thái 1.1.1.1. Lịch sử tộc người Thái Trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, có một cộng đồng tộc người tự nhận mình bằng tên riêng Tăy hay Thăy và được gọi chính thức là Thái. Dân tộc Thái có dân số khá đông đảo, theo con số thống kê năm 1973 là trên 36 vạn người. Đến năm 1999, dân số của người Thái có 1.328.725 người sống trải khắp vùng quê miền Tây và Tây Bắc Việt Nam. Bắt đầu từ phía Đông với miền đất người Thái gọi là mường Lò quê tổ ở Tây Bắc tỉnh Yên Bái (nay chia thành ba huyện thuộc tỉnh Yên Bái: Văn Chấn, Mù Căng Chải, Trạm Tấu và thị xã Nghĩa Lộ). Sang phía Tây gồm toàn bộ địa phận ba tỉnh Lai Châu, Điện Biên và Sơn La. Phía Nam người Thái sinh sống ở miền Tây Bắc Hòa Bình (nay là huyện Đà Bắc và Mai Châu) và miền Tây hai tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An. Cuối cùng còn thấy những nhóm sống rải rác trong các tỉnh thuộc vùng núi Tây Nguyên, trong đó huyện Đức Trọng tỉnh Lâm Đồng là nơi họ ở đông hơn cả. Trải qua hàng ngàn năm sinh sống trên các địa bàn trên lãnh thổ Việt Nam, dân tộc Thái đã cùng các dân tộc anh em khác, tham gia dựng nước và giữ nước. Đây cũng chính là quá trình hình thành tộc người để phát triển đến ngày nay. Hiện nay, chưa có cách nào khác để tìm ra cội nguồn của văn hoá lịch sử tộc người Thái, ngoài việc rút ra và đúc kết những hiểu biết mới về đời sống tâm linh của họ. Từ đó, đưa ra những kết luận về nguồn gốc hình thành của dân tộc này. Người Thái ở Việt Nam không theo một tôn giáo chính thống nào trên thế giới mà theo một trong những tục có nghi thức thờ Nước (nặm) và Đất gọi là Cạn (bốc). Nước có biểu tượng Thần chủ là con Rồng (Tô Luông) mang tên chủ nước (chảu nặm), và đất có biểu tượng thần chủ là loài Chim ở núi mang tên chủ đất (chảu đin). Hai biểu tượng thần chủ Rồng, Chim cũng là Mẹ, Cha của Mường và tục thờ này nằm trong toàn bộ nghi lễ cúng mường (xên mương). Theo truyền thống, Thái Đen và Thái Trắng có tục thờ Mẹ- Cha gắn với biểu tượng thần linh Rồng- nước và Chim- cạn trong cúng Mường chéo ngược như sau: Mường Thái Đen thờ: Mẹ - Rồng - nước > < Cha - Chim - Cạn Mường Thái Trắng thờ: Mẹ - Chim - Cạn > < Cha - Rồng - Nước Điều này cho thấy mối liên hệ giữa văn hóa biểu tượng cội nguồn giữa người Thái với truyền thuyết thủy tổ người Việt (Kinh): “Mẹ thủy tổ người Kinh là bà Âu Cơ thuộc giống Tiên (Chim lạc) ở đất, và Cha thủy tổ là ông Lạc Long Quân thuộc loài Rồng- nước (Thủy tộc (biển). Bà Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm con trai, khi khôn lớn thì năm mươi con trai theo cha xuống biển và năm mươi con trai theo mẹ về núi” [41, tr. 23]. Từ đây, ta có thể hình dung được bức tranh có thể có về sự hình thành, và phát triển văn hóa cội nguồn của hai ngành Người thuộc nhóm nói tiếng Thái có liên hệ với Người Việt (Kinh) trong lịch sử hàng ngàn năm hình thành và phát triển: Trong khi Mẹ thủy tổ hay thần Mẹ của ngành người Thái Trắng ở cùng nhóm nữ với bà Âu Cơ trong tập đoàn người mang biểu tượng Chim - cạn thì Mẹ thủy tổ, hay thần Mẹ của ngành người Thái Đen sẽ ở nhóm Nữ của tập đoàn người có đại diện nhóm Nam là ông Lạc Long Quân mang biểu tượng Rồng - nước. Ngược lại, Cha thủy tổ hay thần Cha của ngành người Thái Trắng cùng nhóm Nam là ông Lạc Long Quân mang biểu tượng Rồng Nước thì Cha của ngành Thái Đen sẽ ở nhóm Nam có đại diện nhóm Nữ là Bà Âu Cơ trong tập đoàn người mang biểu tượng Chim - cạn [69]. Theo các nhà nghiên cứu, thì tổ tiên của người Thái đã sinh cơ lập nghiệp tại một vùng nào đó chính trong phạm vi họ đang cư trú hiện nay, có thể từ trước công nguyên đã có một phần người Thái cư trú chủ yếu là ở vùng Mường Thanh bây giờ. Sang những thế kỷ đầu công nguyên, một bộ phận Thái Trắng ở đầu sông Đà, sông Nậm Na đã di cư xuống phía Nam cư trú ở các huyện phía Bắc như mường Tè, mường Xo (Phong Thổ), mường Lay, Quỳnh Nhai (Sơn La). Đến thế kỷ thứ XI theo “Quăm Tô Mương” cho rằng: khởi thủy từ thời đại của anh em Tạo Xuông, Tạo Ngần đưa ngành Thái Đen xuôi theo dòng sông Hồng xuất phát từ mường Ôm, mường Ai (Vân Nam, Trung Quốc) đến mường Lò (Nghĩa Lộ). Sau đó hậu duệ Tạo Xuông, Tạo Ngần đã khai “Mường” lập “Tạo” tạo ra cả một vùng rộng lớn gồm rất nhiều huyện. Vùng giữa ngày nay: Thuận Châu (Mường Muổi) thuộc tỉnh Sơn La là thủ phủ của ngành Thái Đen. Cho đến cuối thế kỷ XIII, người Thái ở Việt Nam đã ổn định về cư trú chủ yếu ở Tây Bắc Việt Nam. Dân tộc Thái chia thành nhiều ngành, mỗi ngành lại chia thành nhiều nhóm khác nhau: Thái Đen (Táy Đăm): Cư trú chủ yếu ở các tỉnh Sơn La (hầu như toàn tỉnh). Nghĩa Lộ (mường Lò) thuộc tỉnh Yên Bái; ở tỉnh Điện Biên; Tuần Giáo tỉnh Lai Châu và một số ở phía Tây Nam tỉnh Lào Cai. Thái Trắng: (Táy Đón hay Táy Khao) tập trung ở Mường Lay, mường So (Phong Thổ, Lai Châu); mường Chiến (Quỳnh Nhai); một số khác tự xưng là Thái Trắng nhưng có nhiều nét giống Thái Đen sống tập trung ở Mường Tấc (Phù Yên), Bắc Yên; mường Sang, Mộc Châu (Sơn La). Nhóm Thái Hòa Bình (Mai Châu, Đà Bắc) có nét giống với các nhóm Thái ở Thanh Hóa. Nhóm Thái ở Thanh Hóa cư trú ở mường Một- mường Đeng tự nhận mình thuộc ngành Đeng (Tay Thanh), ngành Trắng (Tay Mường- Hàng Tổng, Tay Dọ). Nhóm Thái Nghệ An với việc chia ngành Đen, Trắng đã mờ nhạt, họ chỉ quan tâm đến thời gian và quê hương xuất xứ của mình khi đến nơi này. Lịch sử phát triển của người Thái theo con đường dích dắc qua hàng ngàn năm, nhưng với người trong nhóm nói tiếng Thái vẫn giữ mạch tư duy văn hóa lưỡng phân, lưỡng hợp để tưởng nhớ quê cha đất tổ xa xưa nhất. 1.1.1.2. Người Thái ở Tây Bắc Là dân tộc cú số dõn khá đông ở miền Tây Bắc, năm 1955 người Thái ở miền Tây Bắc nước ta mới có 22 vạn người, thì đến năm 1989 riêng người Thái ở tỉnh Sơn La đã có khoảng 40 vạn người, năm 2005 có khoảng 52 vạn người. Có thể thấy rõ điều này khi khảo sát sự phân bố dân cư của tỉnh Sơn La (phụ lục). Người Thái ở Tây Bắc là bộ phận tiêu biểu của người Thái. Mặc dù có những đặc trưng cơ bản, nhưng người Thái ở Tây Bắc vẫn chia hai ngành: Thái Trắng và Thái Đen. Thái Trắng có thể chia thành hai nhóm địa phương: Nhóm thứ nhất cư trú ở phía Bắc ở các huyện Mường Lay, Mường Tè, Phong Thổ, một phần ở Tuần Giáo (Lai Châu), Quỳnh Nhai, Sình Hồ, Tủa Chùa và xã Ngọc Chiến thuộc Mường La, Sơn La. Về đại thể, nhóm này có những đặc trưng văn hóa của một nhóm địa phương thống nhất như: cùng một vùng thổ ngữ, cùng một loại hình sinh hoạt phong tục tập quán, văn học, nghệ thuật, tôn giáo…Nhóm thứ hai, phân bố ở phía Nam trong các huyện Mộc Châu, Phù Yên (Sơn La) và một phần ở Văn Chấn (Yên Bái). Nhóm này do ảnh hưởng của nhiều luồng văn hóa khác nhau, nên chỉ có thể thống nhất trên các nét như: Cùng chung một câu chuyện kể về nguồn gốc của sự thiên di, cùng một phong tục tập quán, một loại hình văn nghệ dân gian. Riêng về ngôn ngữ, có hai vùng thổ ngữ: Mộc Châu và Phù Yên. Thái Đen có những đặc trưng của một nhóm địa phương tương đối thuần nhất. Hiện phân bố ở các huyện Văn Chấn, Than Uyên (Yên Bái); Mường La, Thuận Châu, Mai Sơn, Sông Mã (Sơn La); Tuần Giáo, Điện Biên. Ngoài ra, còn có một phần phân bố ở các huyện Phong Thổ, Sình Hồ, Quỳnh Nhai. Một nhóm Thái Đen có hơi khác một số điểm về tập quán và thổ ngữ, hiện đang cư trú ở huyện Yên Châu nên thường gọi là Thái Yên Châu. Sự phân chia hai ngành Thái Trắng và Thái Đen ở miền Tây Bắc hiện nay, là kết quả của một quá trình thiên di, xáo động trên những diễn biến lịch sử lâu dài và phức tạp. Cho dù hiện nay có hai ngành Thái, chẳng qua cũng là sự chuyển hóa từ một nhóm Thái cổ xưa nhất mà thiên di đi mỗi người một ngả. Rồi đến địa vực cư trú mới của mình, từng nhóm một tiếp xúc với điều kiện tự nhiên và chịu ảnh hưởng của các dân tộc xung quanh rồi xa dần cái nguyên gốc của mình. Tuy vậy, người Thái ở Tây Bắc vẫn mang trong mình những nét văn hóa riêng, độc đáo cần được giữ gìn, kế thừa và phát huy. Sự hình thành nhóm Thái ở Tây Bắc: Đơn vị cư trú của người Thái được gọi là Bản và Mường. Nhiều bản hợp thành một mường nhỏ, nhiều mường nhỏ hợp thành một Châu mường. Ngay từ đầu, các bản mường đã phân bố tương đối đông đúc trên những vùng cư trú của ba nhóm địa phương: ở phía Bắc- những bản mường của người Thái Trắng tập trung trong các thung lũng ruộng đồng màu mỡ. Khoảng thế kỷ thứ VIII, Mường Lay dưới thời Lô Lạnh Lạt Ma đã trở thành trung tâm của vùng này. Lợi dụng sự phát triển của người Thái, qu‎ý tộc thống trị Mường Lay đã bành trướng thế lực khắp nơi. Phía Bắc phát triển tới giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Từ Mường Tè ở phía Đông kéo sang đầu Nặm U (Thượng Lào) ở phía Tây. Phía Nam phát triển dọc theo sông Đà từ Mường Chiên (Quỳnh Nhai) xuống đến miền đất thuộc huyện Mường La ngày nay. Phía Nam, sau đợt thiên di của người Thái Trắng từ Lào sang, bản mường bắt đầu xuất hiện. Khoảng cuối thế kỷ thứ VIII đầu thế kỷ thứ IX dưới thời chúa Nhọt Cằm, Mường Sang đã trở thành trung tâm của vùng này. Thế lực của qu‎ý tộc Mường Sang đã ảnh hưởng khắp khu vực rộng lớn. Phía Bắc đến vùng đất thuộc Mường Vạt (Yên Châu), Phia Đông là đất Mường Tấc (Phù Yên, Sơn La). Phía Tây và miền Tây Nam là miền đất thuộc Mường ét, Chiềng Cọ (Sầm Nưa- Thượng Lào), và phía Nam là vùng đất thuộc hai huyện Đà Bắc, Mai Châu thuộc Hòa Bình ngày nay. Khu vực giữa- sau khi Lạng trượng thu phục đất Mường Thanh, con cháu ông đã nối nghiệp nhau thống trị đất này. Càng về sau anh em trưởng thứ của qu‎ý tộc càng trở nên bất hòa. Lợi dụng tình thế đó, các thế lực của qu‎ý tộc Mường Lay và người Lự ở Thượng Lào đã đánh đuổi qu‎ý‎ tộc Thái Đen ở Mường Thanh. Con cháu Lạng Trượng phải dần về ở Mường Muổi. Sau khi ổn định tại Mường Muổi, họ lại bắt đầu bành trướng khắp vùng cư trú của người Thái Đen, kéo suốt từ vùng hữu ngạn sông Hồng sang sông Mã. Từ đó, trung tâm Mường Muổi thời chúa Lò Lẹt đã nổi tiếng khắp vùng Tây Bắc. Theo nhà nghiên cứu Cầm Trọng trong cuốn “Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam”, ông đã dựa trên các tài liệu lịch sử và cho rằng: Vào khoảng thế kỷ X cho đến thế kỷ XIV, do qu‎ý tộc Thái Đen đã sớm quy thuận triều đình và được triều đình tin dùng, nên đã tạo điều kiện cho thế lực này ở trung tâm Mường Muổi phát triển nhanh chóng. Vào cuối thế kỷ thứ XIV, nơi đây đã trở thành trung tâm thống nhất bộ tộc Thái ở phía Tây. Đây là bước phát triển rất quan trọng của xã hội người Thái ở Tây Bắc, nó đã bước đầu xóa bỏ ranh giới giữa ba vùng cát cứ với các thế lực qu‎ý tộc khác nhau. Thời kỳ này còn được tăng cường thêm một bước, nhờ sự giao lưu văn hóa giữa dân tộc Thái với các dân tộc anh em khác trên miền Tây Bắc và các vùng lân cận khác. Từ đó trở đi, cho dù người Thái có bị phân thành từng châu mường, dù cho núi non hiểm trở và kinh tế chậm phát triển, sự giao lưu giữa các châu mường còn hạn chế. Xã hội Thái cũng trải qua những năm tháng bị bọn đế quốc, phong kiến chia rẽ…Nhưng lịch sử người Thái ở Tây Bắc vẫn phát triển thành một khối. Đến nay, mặc dù người Thái vẫn có các nhóm địa phương với hai ngành Thái Đen, Thái Trắng ở phía Bắc và phía Nam. Nhưng tựu trung lại chỉ là một dân tộc mà tên thường gọi là “Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam” 1.1.2. Văn hóa của dân tộc Thái - bản sắc của nó 1.1.2.1. khái niệm văn hóa và bản sắc văn hóa - Văn hóa: Là khái niệm được sử dụng phổ biến trong đời sống xã hội, thuật ngữ này không những có nhiều nghĩa trong ngôn ngữ hàng ngày mà cả trong các ngành khoa học khác nhau. Tuy nhiên, việc xác định nội hàm của nó cũng còn nhiều ‎ý kiến, vì thế trên thế giới hiện nay có tới hàng trăm cách định nghĩa về văn hóa. Song, về cơ bản đều thống nhất coi văn hóa là những gì mà con người sáng tạo để hình thành nên các giá trị, các chuẩn mực xã hội trong quá trình lao động, hoạt động thực tiễn. Các giá trị chuẩn mực đó tác động, chi phối, điều chỉnh đời sống tâm lý, hành vi, đạo đức và các hoạt động trên mọi lĩnh vực có sự hiện diện của con người.Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người đã sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở, mặc và các phương thức sử dụng, toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [35, tr. 431]. Trong diễn văn khai mạc lễ phát động “Thập niên quốc tế phát triển văn hóa” tại Pháp (21/1/1998), Tổng thư k‎ý UNESCO định nghĩa: Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình [72, tr. 23]. UNESCO thừa nhận văn hóa là cội nguồn trực tiếp của phát triển xã hội, có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Nó không những là yếu tố nội sinh của sự phát triển, mà còn là mục tiêu động lực cho sự phát triển xã hội. Văn hóa giúp cho con người tự hoàn thiện, nó quyết định tính cách riêng của một xã hội, làm cho dân tộc này khác dân tộc khác. Nghiên cứu về văn hóa các nhà văn hóa Việt Nam cũng đưa nhiều định nghĩa khác nhau: “Văn hóa là tất cả những sản phẩm vật chất và không vật chất của hoạt động con người, là giá trị và phương thức xử thế được công nhận, đã khách thể hóa và thừa nhận trong một cộng đồng truyền lại cho một cộng đồng khác và cho các thế hệ mai sau” [28, tr.11]. Định nghĩa này nhấn mạnh trong văn hóa bao gồm các sản phẩm vật chất và các hệ thống giá trị các mẫu mực xử thế và các hệ thống hành vi. Vấn đề cần được nhấn mạnh ở đây là trong khái niệm văn hóa, điều quan trọng là phải được thừa nhận hoặc có nhiều khả năng được thừa nhận trong một nhóm xã hội, và được truyền bá cho các cá thể hoặc các nhóm trong cộng đồng. “Văn hóa là khái niệm dùng để chỉ tổng thể những năng lực bản chất người trong tất cả các dạng hoạt động của họ, là tổng thể các hệ thống giá trị - cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn và lịch sử xã hội của mình.” [24, tr.13-14] Như vậy, nói đến văn hóa là nói đến con người. Lịch sử văn hóa là lịch sử của con người và loài người: Con người

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLV.doc
Tài liệu liên quan