Luận văn Huy động, cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát triển nông nghiệp tại huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam

Ở nước ta, trước mắt cũng như lâu dài, nông nghiệp và kinh tế nông thôn luôn luôn là một ngành kinh tế cơ bản và quan trọng, nông nghiệp và nông thôn nước ta tập trung hơn 80% dân cư, 70% lực lượng lao động xã hội, nơi đáp ứng nhu cầu đời sống tất yếu cho toàn xã hội, là nguồn nội lực để phát triển bền vững nông nghiệp và kinh tế quốc dân, là chỗ dựa để các ngành, các doanh nghiệp khai thác, kinh doanh phát triển, là nơi có lợi thế so sánh nguồn nhân lực và vật lực để cạnh tranh tham gia vào thị trường thế giới.

Thực tiễn trải qua 20 năm (1986-2006) một loạt chủ trương, chính sách, cơ chế quản lý mới trong nông nghiệp của Đảng và Nhà nước; bộ mặt nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đã và đang có những thay đổi theo hướng tích cực. Vấn đề lương thực đã giải quyết được cơ bản; cơ cấu ngành, nghề nông nghiệp bước đầu chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá, hình thành các vùng chuyên canh lớn trồng cây công nghiệp và cây ăn quả, thúc đẩy chăn nuôi gia súc, gia cầm. Việc trồng, bảo vệ rừng được chú trọng. Cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn được quan tâm đầu tư cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới. Chương trình xoá đói, giảm nghèo, tạo việc làm trong nông nghiệp, nông thôn và đẩy mạnh định canh, định cư, xoá nhà tạm cho đồng bào các dân tộc miền núi được tích cực triển khai

Tuy nhiên, hiện nay vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân luôn là một vấn đề chiến lược hàng đầu, được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương 7 Khoá VII chỉ rõ : " Trong những năm trước mắt, khả năng vốn còn có hạn, nhu cầu công ăn việc làm rất cấp bách, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, tình hình kinh tế - xã hội chưa thật sự ổn định vững chắc. Vì vậy, cần tập trung, nỗ lực đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, ra sức phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, các ngành du lịch, dịch vụ." [10].

Để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông thôn cần phải có những nguồn lực nhất định, trong đó vốn là một trong những nhân tố hết sức cần thiết. Do vậy, phải nâng cao tỷ lệ huy động, sử dụng vốn một cách hợp lý và có hiệu quả, mà hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có vai trò quan trọng trong việc tổ chức huy động tập trung và cho vay vốn đối với lĩnh vực này.

Huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam là một huyện miền núi, nông dân chiếm 95% dân số, cơ sở vật chất kỹ thuật trong những năm gần đây tuy có tập trung đầu tư cải tạo và xây dựng mới nhưng vẫn còn lạc hậu so với yêu cầu phát triển, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, sản xuất phân tán, manh mún, năng suất thấp, sản phẩm hàng hoá ít, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao.

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Phước Sơn lần thứ XVIII (tháng 10 năm 2005) đã nêu là : Phát triển bền vững nền kinh tế theo cơ cấu " Lâm - Nông - Công nghiệp - Thương mại, dịch vụ". Tiếp tục ổn định ĐCĐC, sắp xếp lại dân cư, hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt cho những hộ còn khó khăn. Nhằm tăng ổn định giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp mỗi năm từ 5 - 6%. Tạo thêm việc làm để tăng thu nhập cho nhân dân. Tích cực huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, tiếp nhận các kênh đầu tư vốn từ cấp trên, để đáp ứng nhu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện.

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX (tháng 2 năm 2006) đã xác định : "Phát triển kinh tế miền núi, trung du vừa nhằm mục tiêu giảm nghèo, vừa làm chức năng chỗ dựa, tác động trở lại đối với sự phát triển của vùng đồng bằng ven biển, đảm bảo nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, cung cấp điện, xi măng, các loại nguyên liệu xây dựng và tạo thế liên kết với Lào, Thái Lan, để tham gia vào tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây" [15].

Từ đó vấn đề huy động tập trung vốn và cho vay vốn để phát triển nông nghiệp tại địa bàn huyện có ý nghĩa hết sức thiết thực. Vì vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số có vị trí chiến lược trong sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng XHCN. Đồng thời có vai trò tác dụng trong việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là giải pháp cơ bản để chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tự túc khép kín tại địa phương thành nền kinh tế có cơ cấu kinh tế hợp lý phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, vận động theo cơ chế thị trường.

Vấn đề đặt ra hiện nay là làm sao có thể huy động được tối đa các nguồn vốn và sử dụng vốn một cách hợp lý, phục vụ mục tiêu phát triển nông nghiệp tại địa bàn một cách hiệu quả nhất. Điều này liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Trên cơ sở lý luận đã học và thông qua thực tiễn công tác tại địa phương trong lĩnh vực Ngân hàng. Tôi chọn đề tài :

Huy động, cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát triển nông nghiệp tại huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam. Nhằm tiếp tục nêu ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả huy động, cho vay vốn tín dụng ở khu vực nông thôn, đặc biệt là khu vực nông thôn miền núi phía tây của tỉnh Quảng Nam hiện nay, góp phần giải quyết các yêu cầu bức xúc trước mắt cũng như lâu dài về vốn đối với các thành phần kinh tế trên địa bàn, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững. Do vậy, đề tài này không chỉ có ý nghĩa lý luận nói chung mà đang còn là vấn đề bức xúc đối với địa phương và đối với bản thân trong công tác thực tiễn.

 

doc104 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1098 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Huy động, cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát triển nông nghiệp tại huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài ở nước ta, trước mắt cũng như lâu dài, nông nghiệp và kinh tế nông thôn luôn luôn là một ngành kinh tế cơ bản và quan trọng, nông nghiệp và nông thôn nước ta tập trung hơn 80% dân cư, 70% lực lượng lao động xã hội, nơi đáp ứng nhu cầu đời sống tất yếu cho toàn xã hội, là nguồn nội lực để phát triển bền vững nông nghiệp và kinh tế quốc dân, là chỗ dựa để các ngành, các doanh nghiệp khai thác, kinh doanh phát triển, là nơi có lợi thế so sánh nguồn nhân lực và vật lực để cạnh tranh tham gia vào thị trường thế giới. Thực tiễn trải qua 20 năm (1986-2006) một loạt chủ trương, chính sách, cơ chế quản lý mới trong nông nghiệp của Đảng và Nhà nước; bộ mặt nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đã và đang có những thay đổi theo hướng tích cực. Vấn đề lương thực đã giải quyết được cơ bản; cơ cấu ngành, nghề nông nghiệp bước đầu chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá, hình thành các vùng chuyên canh lớn trồng cây công nghiệp và cây ăn quả, thúc đẩy chăn nuôi gia súc, gia cầm. Việc trồng, bảo vệ rừng được chú trọng. Cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn được quan tâm đầu tư cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới. Chương trình xoá đói, giảm nghèo, tạo việc làm trong nông nghiệp, nông thôn và đẩy mạnh định canh, định cư, xoá nhà tạm cho đồng bào các dân tộc miền núi được tích cực triển khai… Tuy nhiên, hiện nay vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân luôn là một vấn đề chiến lược hàng đầu, được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương 7 Khoá VII chỉ rõ : " Trong những năm trước mắt, khả năng vốn còn có hạn, nhu cầu công ăn việc làm rất cấp bách, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, tình hình kinh tế - xã hội chưa thật sự ổn định vững chắc. Vì vậy, cần tập trung, nỗ lực đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, ra sức phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, các ngành du lịch, dịch vụ.." [10]. Để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông thôn cần phải có những nguồn lực nhất định, trong đó vốn là một trong những nhân tố hết sức cần thiết. Do vậy, phải nâng cao tỷ lệ huy động, sử dụng vốn một cách hợp lý và có hiệu quả, mà hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có vai trò quan trọng trong việc tổ chức huy động tập trung và cho vay vốn đối với lĩnh vực này. Huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam là một huyện miền núi, nông dân chiếm 95% dân số, cơ sở vật chất kỹ thuật trong những năm gần đây tuy có tập trung đầu tư cải tạo và xây dựng mới nhưng vẫn còn lạc hậu so với yêu cầu phát triển, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, sản xuất phân tán, manh mún, năng suất thấp, sản phẩm hàng hoá ít, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Phước Sơn lần thứ XVIII (tháng 10 năm 2005) đã nêu là : Phát triển bền vững nền kinh tế theo cơ cấu " Lâm - Nông - Công nghiệp - Thương mại, dịch vụ". Tiếp tục ổn định ĐCĐC, sắp xếp lại dân cư, hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt cho những hộ còn khó khăn. Nhằm tăng ổn định giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp mỗi năm từ 5 - 6%. Tạo thêm việc làm để tăng thu nhập cho nhân dân. Tích cực huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, tiếp nhận các kênh đầu tư vốn từ cấp trên, để đáp ứng nhu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX (tháng 2 năm 2006) đã xác định : "Phát triển kinh tế miền núi, trung du vừa nhằm mục tiêu giảm nghèo, vừa làm chức năng chỗ dựa, tác động trở lại đối với sự phát triển của vùng đồng bằng ven biển, đảm bảo nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, cung cấp điện, xi măng, các loại nguyên liệu xây dựng và tạo thế liên kết với Lào, Thái Lan, để tham gia vào tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây" [15]. Từ đó vấn đề huy động tập trung vốn và cho vay vốn để phát triển nông nghiệp tại địa bàn huyện có ý nghĩa hết sức thiết thực. Vì vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số có vị trí chiến lược trong sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng XHCN. Đồng thời có vai trò tác dụng trong việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là giải pháp cơ bản để chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tự túc khép kín tại địa phương thành nền kinh tế có cơ cấu kinh tế hợp lý phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, vận động theo cơ chế thị trường. Vấn đề đặt ra hiện nay là làm sao có thể huy động được tối đa các nguồn vốn và sử dụng vốn một cách hợp lý, phục vụ mục tiêu phát triển nông nghiệp tại địa bàn một cách hiệu quả nhất. Điều này liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Trên cơ sở lý luận đã học và thông qua thực tiễn công tác tại địa phương trong lĩnh vực Ngân hàng. Tôi chọn đề tài : Huy động, cho vay vốn của Ngõn hàng Nụng nghiệp và Phỏt triển nụng thụn để phỏt triển nụng nghiệp tại huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam. Nhằm tiếp tục nêu ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả huy động, cho vay vốn tín dụng ở khu vực nông thôn, đặc biệt là khu vực nông thôn miền núi phía tây của tỉnh Quảng Nam hiện nay, góp phần giải quyết các yêu cầu bức xúc trước mắt cũng như lâu dài về vốn đối với các thành phần kinh tế trên địa bàn, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững. Do vậy, đề tài này không chỉ có ý nghĩa lý luận nói chung mà đang còn là vấn đề bức xúc đối với địa phương và đối với bản thân trong công tác thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu Hoạt động huy động và cho vay vốn của Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nói riêng để phát triển nông nghiệp, nông thôn đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu và đề cập đến dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau và nhiều đề tài khoa học, luận văn thạc sĩ, tiến sĩ đã được công bố như :" Đổi mới hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam", Luận văn thạc sĩ của Võ Văn Lâm. " Một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Hải Dương", Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Thanh. " Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp ở huyện miền núi Lập Thạch - Vĩnh Phúc", Luận văn Thạc sĩ của Hoàng Đức Tiến. " Huy động vốn trong nước phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước " , Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Văn Phúc. " Làm gì cho nông thôn Việt Nam", của Phạm Đỗ Chí - Đặng Kim Sơn - Trần Nam Bình - Nguyễn Tiến Triển. Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh - Trung tâm kinh tế Châu á -Thái Bình Dương ( VAPEC ) - Thời báo kinh tế Sài Sòn, 2003. " Nghị quyết Trung ương IV khoá VIII về vấn đề tín dụng nông nghiệp, nông thôn". Nxb CTQG,1998. Công trình được tuyển chọn từ những ý kiến đóng góp của hơn 200 nhà khoa học, cán bộ quản lý, những người làm công tác thực tiễn, tham gia cuộc hội thảo khoa học, do Tạp chí cộng sản và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam phối hợp tổ chức. " Một số vấn đề về công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam", của GS. TS. Đỗ Hoài Nam. Nxb Khoa học xã hội,2004…Tuy nhiên, với một huyện miền núi phía tây của tỉnh Quảng Nam mà cụ thể là ở huyện Phước Sơn thì đến nay vẫn chưa có tác giả nào nghiên cứu sâu, toàn diện và có hệ thống dưới góc độ kinh tế chính trị. Vấn đề " Huy động, cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát triển nông nghiệp tại huyện Phước Sơn tỉnh Quảng Nam" vẫn là mới mẻ, cần được tiếp cận, nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu : - Mục đích : Góp phần đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động và cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát triển nông nghiệp tại địa bàn huyện Phước Sơn - giai đoạn 2006 - 2010. - Nhiệm vụ : Làm rõ cơ sở lý luận về vốn và vai trò của vốn đối với quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn; phân tích, đánh giá tình hình huy động và cho vay vốn để phát triển nông nghiệp và đề xuất các giải pháp cơ bản về hoạt động huy động, cho vay vốn để phát triển nông nghiệp tại huyện Phước Sơn giai đoạn 2006- 2010 và những năm tiếp theo. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động huy động và cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát triển nông nghiệp tại huyện Phước Sơn , tỉnh Quảng Nam. - Phạm vi nghiên cứu hoạt động huy động, cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát triển nông nghiệp tại huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam từ năm 2001 đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu truyền thống của chủ nghĩa Mác - Lênin : Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống, thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp để rút ra kết luận về những vấn đề xem xét. 6. Đóng góp của luận văn - Luận văn làm rõ những luận cứ khoa học về các phương thức huy động, cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát triển nông nghiệp. - Phân tích thực trạng huy động và cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong giai đoạn 2001 - 2005 tại huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam. - Đề xuất các giải pháp chủ yếu trong hoạt động huy động và cho vay vốn để phát triển nông nghiệp, nông thôn tại huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển theo hướng bền vững. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. Chương 1 : Cơ sở lý luận về huy động và cho vay vốn của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Chương 2 : Thực trạng huy động, cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát triển nông nghiệp ở huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2001 - 2005 Chương 3 : Phương hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả huy động và cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn để phát triển nông nghiệp ở huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam đến năm 2010. Chương 1 cơ sở lý luận về huy động và cho vay vốn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường 1.1. Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Ngày nay, người ta khó có thể hình dung nổi nền kinh tế thị trường mà lại vắng bóng các tổ chức tài chính trung gian làm chức năng "cầu nối" giữa người có vốn và người cần vốn. Trong thực tế, các tổ chức tài chính trung gian được hình thành ở rất nhiều dạng, nhưng nội dung hoạt động của chúng lại đan xen lẫn nhau rất khó phân biệt rõ ràng. Trong số các tổ chức tài chính trung gian, hệ thống các Ngân hàng Thương mại (NHTM) chiếm vị trí quan trọng nhất cả về quy mô tài sản và về thành phần các nghiệp vụ. Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh tế tiền tệ hoạt động trên cơ sở " đi vay " để "cho vay" thông qua nghiệp vụ tín dụng của mình. Việc "buôn" tiền của Ngân hàng Thương mại suy cho cùng phải đạt được lợi nhuận. Với tư cách là một trung gian tài chính, Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn. Doanh nghiệp ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc thù. Chất liệu kinh doanh chủ yếu của loại hình này là " quyền sử dụng các khoản tiền tệ". Đặc quyền phát hành tiền thuộc về Ngân hàng trung ương. NHTM phải bỏ chi phí mua lại "quyền sử dụng" của tiền này trong một thời gian nhất định. Do vậy, hầu hết các nghiệp vụ của NHTM đều có kỳ hạn cụ thể và có hoàn trả. NHTM không thể bán "tiền" mà chỉ bán quyền sử dụng của tiền, nên khi hết thời hạn sử dụng theo cam kết, tiền phải quay về ngân hàng theo nguyên mệnh giá của nó. Ngân hàng vừa là người "cung cấp" đồng vốn, đồng thời cũng là người "tiêu thụ" đồng vốn của khách hàng. Tất cả những hoạt động "mua bán" này thường thông qua một số công cụ và nghiệp vụ ngân hàng. NHTM luôn tìm cách tối đa hoá lợi nhuận. NHTM kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay và cho vay. Để thu hút tiền vào ngân hàng đưa ra các điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền. Tiếp đó, ngân hàng phải tìm ra những cách có lợi để đem cho vay những gì đã vay được [45.tr 28]. Xét về chức năng, NHTM không trực tiếp tham gia vào sản xuất và lưu thông hàng hoá như các doanh nghiệp thông thường, mà nó thực hiện các chức năng trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và làm dịch vụ tiền tệ, tư vấn tài chính cho khách hàng… Ngân hàng kinh doanh tiền tệ chủ yếu không phải bằng vốn tự có, mà chủ yếu bằng vốn của những người gửi tiền qua vai trò trung gian tín dụng, làm môi giới cho các nhà đầu tư và những người có tích luỹ, Thực hiện các chức năng trung gian của mình, NHTM nắm trong tay một bộ phận lớn nhất của cải xã hội dưới dạng giá trị, nhưng không có quyền sở hữu chúng, mà chỉ có quyền sử dụng với những điều kiện ràng buộc, đòi hỏi NHTM phải chịu trách nhiệm vật chất đối với những người chủ sở hữu thực của các tài sản này và sử dụng tài sản vốn đúng với điều kiện ràng buộc sao cho có hiệu quả nhất. Khi thực hiện chức năng trung gian tài chính, NHTM làm chủ chính bản thân mình, không làm hộ ai, do đó ngân hàng có trách nhiệm phải hoàn trả tiền cho người gửi và được tự mình sử dụng số tiền gửi đó. Hoạt động này mang lại lợi ích thiết thực cho các bên hữu quan. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là một doanh nghiệp nhà nước, được nhà nước cấp vốn tự có, được quyền tự chủ hoàn toàn về tài chính từ khâu lựa chọn các phương thức huy động vốn, lựa chọn phương án đầu tư đến quyết định mức lãi suất với quan hệ cung cầu trên thị trường vốn. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được quyền kinh doanh tổng hợp, đa năng, vừa làm chức năng kinh doanh thật sự, vừa làm chức năng dịch vụ tài chính trung gian cho Chính phủ và các tổ chức kinh tế xã hội trong nước và quốc tế. Đối tượng phục vụ chủ yếu là nông dân và các doanh nghiệp hoạt động có liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Trong những năm qua Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn không ngừng vươn lên để phục vụ đắc lực, có hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn [7, tr.16]. 1.1.1. Vốn và vai trò của vốn đối với quá trình phát triển kinh tế 1.1.1.1. Khái niệm vốn + Vốn : Vốn là một phạm trù kinh tế, là điều kiện tiên quyết của bất cứ một doanh nghiệp nào, ngành kinh tế và dịch vụ nào trong nền kinh tế quốc dân. Vốn là một hình thái giá trị được biểu hiện bằng tiền của các nguồn lực đi vào sản xuất kinh doanh, quá trình hoạt động phải được bảo tồn và sinh lợi. Vốn là yếu tố sản xuất khan hiếm nhất của nền kinh tế nước ta hiện nay. Dưới dạng tiền tệ, vốn được định nghĩa là khoản tích luỹ, tức là một bộ phận của thu nhập chưa được tiêu dùng. Dưới hình thức vật chất, vốn bao gồm các loại máy móc, thiết bị, nhà xưởng, các công trình hạ tầng, các loại nguyên liệu, nhiên liệu, các sản phẩm trung gian, các thành phẩm… Bên cạnh vốn tồn tại dưới dạng vật chất còn có các loại vốn vô hình (bằng phát minh sáng chế…) không tồn tại dưới dạng vật chất nhưng có giá trị kinh tế và cũng là yếu tố vốn cần thiết cho quá trình phát triển. Vốn là một loại nhân tố "đầu vào", đồng thời bản thân nó lại là kết quả "đầu ra" của hoạt động kinh tế. Trong quá trình hoạt động của nền kinh tế, vốn luôn luôn vận động và chuyển hoá về hình thái vật chất cũng như từ hình thái vật chất sang hình thái tiền tệ. Vốn tiền tệ được vận động dưới nhiều hình thức khác nhau. Trên thực tế vốn có ba phương thức vận động như sau : T - T ' Là phương thức vận động của các tổ chức tài chính trung gian để huy động vốn trong trường hợp đầu tư mua trái phiếu, cổ phiếu công ty, hoặc góp vốn liên doanh. T - H - T ' Là phương thức vận động vốn của các doanh nghiệp lưu thông (thương mại - dịch vụ). Trong công thức này H là hàng hoá - lao vụ cung ứng được lưu thông và được thực hiện giá trị. TLSX T H … sản xuất …H ' T ' SLĐ Là phương thức vận động vốn của các doanh nghiệp sản xuất. Trong quá trình sản xuất, các tài sản vật chất bao giờ cũng hao mòn theo thời gian. Xu hướng vận động của một nền sản xuất phải tăng thêm điều kiện sản xuất, kỹ thuật mới đòi hỏi xã hội cần phải tiến hành thường xuyên việc bù đắp hao mòn, bổ sung thêm khối lượng các tài sản vật chất, kỹ thuật mới. Những hoạt động đó gọi là hoạt động đầu tư. Như vậy hoạt động đầu tư là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực sản xuất, đồng thời làm tăng thêm năng lực mới cho nền kinh tế. Thực chất là việc chuyển hoá tiền thành tài sản phục vụ cho tái sản xuất mở rộng. Theo tính chất sử dụng của vốn đầu tư, có thể chia thành vốn đầu tư sản xuất và vốn đầu tư phi sản xuất. Vốn đầu tư cho sản xuất bao gồm vốn đầu tư thay thế tài sản cố định bị loại thải để tăng thêm tài sản cố định mới và tăng thêm hàng hoá tồn kho. Theo ngành, vốn đầu tư được chia thành vốn đầu tư cho nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Theo tính chất sở hữu, vốn đầu tư bao gồm vốn đầu tư của nhà nước và vốn đầu tư của khu vực tư nhân. Đối với ngành Ngân hàng, vốn được biểu hiện dưới dạng vốn bằng tiền. Nguồn vốn (Tài sản nợ) của ngân hàng bao gồm : - Tiền gửi : là bộ phận tài sản nợ chủ yếu của NHTM. Nghiệp vụ này là đặc trưng cơ bản trong kinh doanh của ngân hàng, tiền gửi bao gồm các loại: + Tiền gửi thanh toán : (tiền gửi không kỳ hạn) được ký thác vào ngân hàng để thực hiện các khoản chi trả khác. Đây không phải là tiền để dành mà là một bộ phận tiền đang chờ thanh toán. Vì vậy, khách hàng gửi tiền có thể rút ra hoặc sử dụng để thanh toán bất cứ lúc nào theo yêu cầu. Tiền gửi thanh toán của khách hàng được bảo quản trên tài khoản tiền gửi tại ngân hàng để chờ thanh toán là một nguồn vốn được ngân hàng dùng để cho vay trong hoạt động kinh doanh của mình. + Tiền gửi có kỳ hạn : là loại tiền gửi được uỷ thác vào ngân hàng trên cơ sở có sự thoả thuận thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng, tiền gửi có kỳ hạn là một nguồn vốn tín dụng mang tính chất ổn định, vì vậy các ngân hàng thường chú trọng các biện pháp kích thích để huy động các loại tiền gửi này. + Tiền gửi tiết kiệm : là khoản để dành của cá nhân được gửi vào ngân hàng nhằm hưởng lãi theo định kỳ. Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Đây là một nguồn vốn đáng kể trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. + Các hình thức huy động vốn khác : Ngoài việc huy động vốn dưới hình thức tiền gửi, ngân hàng còn phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu. Chứng chỉ tiền gửi là loại trái phiếu nợ ngắn hạn (dưới 12 tháng), trái phiếu là loại phiếu nợ trung, dài hạn. Hai loại phiếu nợ này do ngân hàng phát hành nhằm thu hút tiền để dành của các doanh nghiệp và cá nhân. Trong thời gian qua các NHTM Việt Nam đã phát hành chứng chỉ tiền gửi có thời hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, bên cạnh đó còn phát hành các loại trái phiếu trên 1 năm cùng với lãi suất thích hợp đã thu hút được khối lượng vốn rất lớn trong xã hội tập trung về ngân hàng để đầu tư phát triển. + Vay các ngân hàng : Ngoài tiền gửi và huy động tiền qua phát hành phiếu nợ, các NHTM còn vay vốn các ngân hàng khác, các ngân hàng nước ngoài và vay của ngân hàng trung ương. + Vốn của ngân hàng : Vốn của ngân hàng bao gồm vốn pháp định, các quỹ dự trữ, lợi nhuận còn lại và các loại quỹ khác. Tất cả các nguồn vốn trên của NHTM được hình thành để cho vay trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Cho đến thời gian gần đây, tài sản nợ của NHTM trên khắp thế giới vẫn còn tập trung vào năm nhóm phổ biến là : 1) Vốn pháp định hay vốn điều lệ, 2) tiền gửi không kỳ hạn, 3) tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm, 4) các khoản vay thị trường tiền tệ, 5) các khoản vay các ngân hàng khác hoặc ngân hàng trung ương. Tài sản nợ của NHTM là nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nói theo ngôn ngữ thị trường, tài sản nợ diễn tả những khoản mà NHTM mắc nợ thị trường, nghĩa là bao gồm những khoản mà nhân dân gửi vào (ký thác) cho nó, hay nó đi vay các đối tượng trong nền kinh tế như ngân hàng trung ương, các ngân hàng hay các tổ chức tài chính khác, chính quyền, nước ngoài, các doanh nghiệp, nhân dân… 1.1.1.2. Vai trò của vốn trong quá trình phát triển kinh tế Vốn luôn là vấn đề nổi cộm của những nước muốn thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, với điểm xuất phát thấp như chúng ta thì nhu cầu vốn, đặc biệt là vốn cho nông nghiệp và phát triển nông thôn tồn tại sự khác biệt giữa nhu cầu và khả năng cung cấp vốn. Hàm sản xuất đơn giản nhất và nổi tiếng nhất được sử dụng để phân tích sự phát triển kinh tế - do các nhà kinh tế Roy Harrod ở Anh và Evsey Domar ở Mỹ nêu ra từ những năm 1940 - đã chỉ ra mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với hệ số gia tăng tư bản - đầu ra ( ICOR) và tỷ lệ đầu tư như sau: i g = k Trong đó : g = tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế (GDP,GNP) i = tỷ lệ đầu tư của nền kinh tế (GDP,GNP) k = hệ số gia tăng tư bản - đầu ra (ICOR) Như vậy, theo quan hệ cơ bản Harrod - Domar ở phương trình trên thì : về lâu dài nền kinh tế cần phải giữ vững và gia tăng tỷ lệ đầu tư và khống chế ở mức chấp nhận được đối với hệ số gia tăng tư bản - đầu ra. Bởi vì, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tỷ lệ thuận với tỷ lệ tích luỹ của nền kinh tế và tỷ lệ nghịch với hệ số ICOR. Điều đó có nghĩa là để duy trì được tốc độ tăng trưởng hàng năm của nền kinh tế là 8% với ICOR = 3 thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được ở mức 24% so với GDP (hoặc GNP). Sai lầm trong chiến lược phát triển kinh tế dẫn đến sai lầm trong cơ cấu đầu tư cùng với việc sử dụng vốn lãng phí, kém hiệu quả làm tăng nhanh hệ số ICOR kéo theo việc giảm sút tỷ lệ đầu tư sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng và khả năng tích luỹ của nền kinh tế. Quá trình sử dụng vốn gồm hai giai đoạn và tác động của nó ở từng giai đoạn cũng khác nhau. ở giai đoạn đầu, sự tăng lên về đầu tư làm cho nhu cầu chi tiêu tăng lên tác động đến tổng cầu, tăng sản lượng, công việc làm và kèm theo sự biến động (tăng) giá cả.Tuy nhiên nhu cầu của quá trình đầu tư tạo ra chủ yếu là nhu cầu về tư liệu sản xuất, là cái mà ở các nước đang phát triển rất thiếu. Do đó, nhu cầu xuất khẩu các hàng hoá trong nước sản xuất ra để nhập khẩu tư liệu sản xuất là yêu cầu tất yếu của quá trình phát triển. Mặt khác, khi mà tích luỹ trong nuớc còn thấp việc thu hút đầu tư từ nguồn vốn bên ngoài là cần thiết và tạo ra sự tăng trưởng rõ rệt trong quá trình thực hiện đầu tư. ở giai đoạn thứ hai, đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn vật chất bao gồm tài sản cố định (máy móc, thiết bị, nhà xưởng…) và hàng hoá tồn khó cho sản xuất và các tài sản vật chất phi sản xuất. Vốn sản xuất tăng lên làm tăng khả năng sản xuất của đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng tác động đến tổng cung bằng tăng sản lượng và công việc làm kéo theo mức giá giảm. ở giai đoạn này, sự gia tăng về vốn làm tăng năng lực sản xuất trong nước, thúc đẩy gia tăng sản lượng, năng suất lao động, chất lượng hàng hoá sản xuất ra, tạo khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả các nhân tố tài nguyên và lao động. Chính vì vậy, vốn trở thành nhân tố cơ bản của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế nước ta hiện nay. Tất nhiên, vai trò của vốn dựa trên cơ sở vốn được đầu tư đúng hướng, được quản lý và sử dụng có hiệu quả. Nhìn nhận vai trò của vốn qua hai giai đoạn đã nêu cho thấy cần có cái nhìn thực tế hơn qua các con số về tốc độ tăng trưởng và bản chất hơn về tác động của vốn đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế [2, tr.140-142]. Vốn là một yếu tố cơ bản để phát triển sản xuất, phát triển kinh tế hàng hoá. Trong nông nghiệp nhất là ở vùng đồi núi, các hộ nông dân sản xuất theo phương thức tự cấp tự túc, muốn chuyển lên sản xuất hàng hoá phải có vốn. Trên thực tế, đang tồn tại một vòng luẩn quẩn : Thu nhập thấp Sản xuất phát triển chậm Sức mua thấp Đầu tư thấp Thiếu vốn, đầu tư sẽ thấp, sản xuất kém phát triển và cứ thế sẽ tiếp nối vòng tuần hoàn luẩn quẩn. Từ vai trò của vốn trong quá trình tái sản xuất, nhiều nhà kinh tế thế giới đã rút ra hệ số gia tăng tư bản - đầu ra (hệ số ICOR) liên quan đến tăng trưởng sản xuất nông nghiệp như sau : + ICOR nằm giữa 1 - 2,5 : tăng trưởng chủ yếu dựa vào lao động, chưa dựa chủ yếu vào vốn. Đây là đặc trưng cho các nước nghèo, kinh tế hàng hoá ở dạng sơ khai, chưa phát triển. + ICOR nằm giữa 2,5 - 4,5 : là mức dùng tư bản đã bắt đầu tăng lên và thuộc các nước đang phát triển. + ICOR cao hơn 4,5 : khi sử dụng công nghệ hiện đại, vốn đầu tư lớn và nguồn lao động hạn chế, thiếu lao động, tiêu biểu của các nước công nghiệp phát triển [14]. 1.1.1.3. Những quan điểm chung để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn + Huy động tối đa các nguồn vốn trong nước kết hợp với việc thu hút các nguồn vốn bên ngoài. Muốn đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 9 - 10% với hệ số ICOR dự tính từ 3 đến 3,5 trong thời gian tới thì số vốn đầu tư cho phát triển cần đạt tỷ lệ từ 30% đến 35% GDP. Để huy động được số vốn như vậy trước hết và quan trọng nhất là phải tạo ra và huy động được đến mức tối đa các nguồn tiết kiệm trong nước. Từ quan điểm trên, phương hướng cơ bản cho mọi giải pháp huy động vốn là phải trên cơ sở phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm triệt để cả trong sản xuất và tiêu dùng của toàn xã hội. Vốn trong nước là quan trọng nhất không chỉ ở tỷ lệ của nó trong tổng nguồn vốn đầu tư phát triển, mà còn là nhân tố đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế và là điều kiện, tiền đề để thu hút và sử dụng có hiệu quả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLV chinh thuc.doc
  • docmuc luc- luan van.doc
Tài liệu liên quan