Trong dòng chảy phát triển của lịch sử có một lực lượng to lớn để làm nên sức mạnh và niềm tự hào của dân tộc. Đó chính là nhân dân. Những nhà tư tưởng lớn của dân tộc đã từng có những tổng kết: “Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”, “dân vi quý, xã tắc thứ chi”. Dân chính là chủ thể của dân tộc, tự đứng lên bằng chính sức mạnh nội sinh, tình đoàn kết, lòng nồng nàn yêu nước để bảo vệ chủ quyền dân tộc. Cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp, chống Mỹ chính là cuộc kháng chiến thần thánh, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết, đó là cuộc “chiến tranh nhân dân”, bởi nó được gột lên từ chính sự cố kết của cộng đồng, ý thức tự giác của mỗi một người dân, niềm tin vào chính nghĩa, vào ngày mai thắng lợi.
Ngày nay đất nước đã sang một trang mới, công cuộc đổi mới bước đầu đã giành được những thành tựu đáng kể, chủ thể tiên phong trong công cuộc đổi mới chính là nhân dân, bài học xuyên suốt các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX, X mà Đảng ta quán triệt khi lãnh đạo đất nước đó chính là “lấy dân làm gốc”, Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền, của dân, do dân, vì dân, các mặt trận đoàn thể đều trên cơ sở tập hợp rộng rãi quần chúng nhân dân. Trên bình diện lý luận và thực tiễn đều có sự xuất hiện của nhân dân với tư cách là chủ thể của xã hội. Mặt khác ta cũng thấy rằng, xã hội càng phát triển thì đi kèm theo nó là những nguy cơ, các nguy cơ không hề được dập tắt mà trái lại nó lại được nhân lên trong những điều kiện mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định: đất nước ta đối diện với những “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta” [19, tr.22]. Đối diện và chịu những ảnh hưởng trực tiếp từ những nguy cơ này chính là những người dân, đặc biệt là những người dân ở cơ sở - cộng đồng dân cư - người dân ở đây tồn tại cùng chiều dài của lịch sử dân tộc, nơi nẩy sinh các mối quan hệ xã hội vững bền của dân tộc.
Ngày nay cùng sự đi lên của đất nước thì cộng đồng dân cư chính là nhân tố để kiến tạo nên một xã hội mới. Nhưng chính trong điều kiện hiện nay, lại đặt ra vấn đề là làm sao phát huy được hiệu quả của cộng đồng dân cư, đặt nó trong yêu cầu cần được tự giác cao. Có một chủ thể nhận biết và phát huy được giá trị của cộng đồng dân cư một cách trực tiếp nhất là chính quyền cơ sở, là vai trò quản lý, chỉ đạo của nhà nước bằng pháp luật, bằng các chính sách, quy định hiện hành nhưng vấn đề là phát huy tính hiệu quả của nó tới mỗi một người dân, “bàn tay dài” của Nhà nước có với tới dân cư ở cơ sở không, người dân miền xuôi cũng như miền ngược có được ấm no, sung túc không, có bị đe doạ hay bị bóc tách tại cộng đồng mà mình đang sinh sống không? Vấn đề không phải là không có chính quyền, không có pháp luật, không có chính sách, nhưng vấn đề là án lệnh không được thực thi, chính sách không được chấp hành. Ở đây, chính là mối quan hệ giữa chủ trương và hiệu quả, giữa quản lý của chính quyền và tự quản của cộng đồng dân cư; những kết quả mà mỗi cá nhân cần thực hiện, không có gì tốt bằng tự thân chủ thể hành động, phát huy sức mạnh nội tại và một bên là sự quản lý của chính quyền cơ sở, cần tránh hai thái cực: buông lỏng quản lý hay o ép hoạt động chủ động tích cực của cộng đồng. Vậy ở đây đặt ra vấn đề thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở.
142 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1227 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư trong việc thực thi quyền lực Nhà nước ở cơ sở (qua khảo sát thực tiễn ở xã Đồng Văn, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong dòng chảy phát triển của lịch sử có một lực lượng to lớn để làm nên sức mạnh và niềm tự hào của dân tộc. Đó chính là nhân dân. Những nhà tư tưởng lớn của dân tộc đã từng có những tổng kết: “Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”, “dân vi quý, xã tắc thứ chi”... Dân chính là chủ thể của dân tộc, tự đứng lên bằng chính sức mạnh nội sinh, tình đoàn kết, lòng nồng nàn yêu nước để bảo vệ chủ quyền dân tộc. Cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp, chống Mỹ chính là cuộc kháng chiến thần thánh, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết, đó là cuộc “chiến tranh nhân dân”, bởi nó được gột lên từ chính sự cố kết của cộng đồng, ý thức tự giác của mỗi một người dân, niềm tin vào chính nghĩa, vào ngày mai thắng lợi.
Ngày nay đất nước đã sang một trang mới, công cuộc đổi mới bước đầu đã giành được những thành tựu đáng kể, chủ thể tiên phong trong công cuộc đổi mới chính là nhân dân, bài học xuyên suốt các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX, X mà Đảng ta quán triệt khi lãnh đạo đất nước đó chính là “lấy dân làm gốc”, Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền, của dân, do dân, vì dân, các mặt trận đoàn thể đều trên cơ sở tập hợp rộng rãi quần chúng nhân dân. Trên bình diện lý luận và thực tiễn đều có sự xuất hiện của nhân dân với tư cách là chủ thể của xã hội. Mặt khác ta cũng thấy rằng, xã hội càng phát triển thì đi kèm theo nó là những nguy cơ, các nguy cơ không hề được dập tắt mà trái lại nó lại được nhân lên trong những điều kiện mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định: đất nước ta đối diện với những “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta” [19, tr.22]. Đối diện và chịu những ảnh hưởng trực tiếp từ những nguy cơ này chính là những người dân, đặc biệt là những người dân ở cơ sở - cộng đồng dân cư - người dân ở đây tồn tại cùng chiều dài của lịch sử dân tộc, nơi nẩy sinh các mối quan hệ xã hội vững bền của dân tộc.
Ngày nay cùng sự đi lên của đất nước thì cộng đồng dân cư chính là nhân tố để kiến tạo nên một xã hội mới. Nhưng chính trong điều kiện hiện nay, lại đặt ra vấn đề là làm sao phát huy được hiệu quả của cộng đồng dân cư, đặt nó trong yêu cầu cần được tự giác cao. Có một chủ thể nhận biết và phát huy được giá trị của cộng đồng dân cư một cách trực tiếp nhất là chính quyền cơ sở, là vai trò quản lý, chỉ đạo của nhà nước bằng pháp luật, bằng các chính sách, quy định hiện hành nhưng vấn đề là phát huy tính hiệu quả của nó tới mỗi một người dân, “bàn tay dài” của Nhà nước có với tới dân cư ở cơ sở không, người dân miền xuôi cũng như miền ngược có được ấm no, sung túc không, có bị đe doạ hay bị bóc tách tại cộng đồng mà mình đang sinh sống không? Vấn đề không phải là không có chính quyền, không có pháp luật, không có chính sách, nhưng vấn đề là án lệnh không được thực thi, chính sách không được chấp hành. Ở đây, chính là mối quan hệ giữa chủ trương và hiệu quả, giữa quản lý của chính quyền và tự quản của cộng đồng dân cư; những kết quả mà mỗi cá nhân cần thực hiện, không có gì tốt bằng tự thân chủ thể hành động, phát huy sức mạnh nội tại và một bên là sự quản lý của chính quyền cơ sở, cần tránh hai thái cực: buông lỏng quản lý hay o ép hoạt động chủ động tích cực của cộng đồng. Vậy ở đây đặt ra vấn đề thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở.
Có một nhân tố tác động sâu sắc đến cộng đồng dân cư cơ sở, đó chính là cơ chế thị trường. Một mặt thị trường là sản phẩm tiến bộ của nhân loại nhưng mặt khác cơ chế của nó tác động rất khốc liệt, song hành với nó thì người dân phải đối mặt với cơm, áo, gạo, tiền, xăng dầu, lửa điện. Người nông dân sau một đêm tỉnh dậy thấy mình không còn là chính mình nữa, nguy cơ về tương lai sẽ ra sao khi ruộng đất không còn, nguy cơ của sản phẩm làm ra bị tư thương ép giá, tương lai con cái học hành như thế nào với mức học phí quá cao tại một trường học nào đó. Chúng ta vẫn nói đến dân chủ tức dân là chủ và dân làm chủ; nhưng thực tế có như vậy không? Cộng đồng dân cư chính là nơi chứa đựng những hậu quả của việc quyền lực nhà nước, quyền lực của dân, quyền lực của luật pháp, của những cá nhân được uỷ quyền nhưng không được kiểm soát chặt chẽ. Tại chính những cơ sở, một số cán bộ tự xem mình là “quan cơ sở” lợi dụng quyền lực cá nhân để trục lợi, đục khoét của dân, trong sớm chiều trở thành một tầng lớp đặc quyền, đặc lợi. Vậy nên các chính sách, pháp luật về đến cộng đồng dân cư không được chấp hành hoặc bị méo mó, xuyên tạc. Đơn thư tố giác của người dân từ các cơ sở cộng đồng cứ gửi lên chồng chất mà không được giải quyết kịp thời. Tất cả những điều này đang giằng xé lấy đời sống thực tiễn của người dân; cái quyền lực của đa số, của một xã hội công dân sẽ được thể hiện và phát huy như thế nào? Cộng đồng dân cư phải làm gì để tự bảo vệ mình, không có một liều thuốc vắcxin để phòng ngừa hữu hiệu hết cho các loại bệnh. Phải chăng người dân tại các cộng đồng cần chủ động đề xuất, chủ động tổ chức, chủ động kết nối, chủ động thực hiện, chủ động kiểm tra, giám sát....Tựu trung lại đó chính là tính tự quản của cộng đồng dân cư ở tại chính quyền cơ sở.
Chính quyền cơ sở- nơi được xem là cấp thấp nhất trong hệ thống chính trị nhưng lại chịu sự chi phối trực tiếp nhất trong việc thực thi các chủ trương, chính sách, pháp luật của nhà nước, nơi mà người dân được phát huy quyền làm chủ của mình với nhiều vấn đề thực tế nhất.
Đại hội X của Đảng xác định: “Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển là chìa khoá của thành công” [19, tr.71]. Để thực hiện được điều đó thì một vấn đề quan trọng là chúng ta cần phải nâng cao vai trò chủ động của cộng đồng dân cư như một lăng kính phản ngược lại để chứng minh cho tính hiệu quả trong quản lý của nhà nước tại cơ sở.
Thực tiễn cấp bách như thế bởi nó liên quan đến vận mệnh của người dân, của những nhu cầu thiết yếu của một xã hội công dân sinh động tại các cộng đồng dân cư cơ sở, nhưng lý luận để soi đường, để hướng dẫn, để tổ chức, để lý giải một cách sâu sắc có tính hệ thống thì đôi lúc lại chậm hơn một bước, nếu không nói đó là sự tụt hậu của lý luận trong vấn đề này. Ở nước ta, thực tiễn đặt ra cho tính tự quản của cộng đồng dân cư không phải là mới, nó xuất hiện ở miền bắc từ đầu những năm 60, khi tính tự quản của cộng đồng đánh giặc giữ nước chuyển sang tính cộng đồng của xây dựng quê hương, nhưng để phát huy tính tự quản của người dân tại các cộng đồng dân cư dưới sự bảo hộ của nhà nước thì lại là một quá trình đề xuất của người dân. Đến nay, vấn đề này qua các công trình lý luận nghiên cứu vẫn còn rất ít, có chăng chỉ là những đề xuất giải pháp khi các tác giả muốn phát huy tính hiệu quả của hệ thống chính trị, của tổ chức cơ sở đảng, của nhà nước, của các tổ chức chính trị xã hội, của quy chế dân chủ, của hiệu quả thực thi pháp luật, của vấn đề nông thôn, nông nghiệp... Trong khi đó phải nhìn nhận một cách khách quan rằng, đất nước ta đi từ xã hội phong kiến thuần nông, với hơn 70% dân số làm nghề nông, cả một xã hội rộng lớn nằm ở đây, xoay xung quanh nó là một hỗn hợp những vấn đề, những nội dung đan xen và không đan xen, chính đáng và không chính đáng, hình thức hay thực quyền đều hiển hiện ở đây. Trên thế giới, nghiên cứu vấn đề này với tính cách là xã hội dân sự, còn ở nước ta vấn đề này mới được đặt ra và chưa được giải quyết thấu đáo, đặc biệt là triển khai và áp dụng lý thuyết này phù hợp với điều kiện đặc thù của Việt Nam. Và trong thực tiễn thì các nước như cộng hoà liên bang Đức, Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ, Hàn Quốc đều đã triển khai mạnh mẽ giao quyền tự quản cho cộng đồng dân cư như một phương cách hữu hiệu nhất cho việc làm chủ của người dân và thực sự đã thành một đối trọng tạo cân bằng quyền lực trong xã hội. Vì vậy chúng ta cần có một hệ thống lý luận cho vấn đề này xứng tầm với yêu cầu của thực tiễn.
Sở dĩ chọn cộng đồng dân cư xã Đồng Văn, huyện Thanh Chương Tỉnh Nghệ an làm mẫu nghiên cứu, bởi xuất phát nằm trong địa bàn tỉnh Nghệ An là cộng đồng dân cư trung chuyển các đặc thù của cộng đồng dân cư miền Bắc và miền Nam. Người dân Nghệ An đông đúc với nhiều loại hình cộng đồng tiêu biểu như cộng đồng dân cư thuần nông, cộng đồng dân cư dân tộc, cộng đồng dân cư nông công dịch vụ, cộng đồng dân cư nông trường... Cộng đồng dân cư Nghệ An luôn tự hào về truyền thống cố kết cộng đồng trong việc giữ làng, giữ nước, tinh thần sáng tạo, hiếu học của ông đồ xứ Nghệ, ý chí quật cường của Xô viết Nghệ tĩnh vv... Ngày nay, hoà cùng khí thế đổi mới của cả nước, dù xa các trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước, nhiều vấn đề thực tiễn bức xúc nổi cộm, nhiều điều kiện khó khăn, lực cản khách quan và chủ quan, nhưng cộng đồng dân cư Nghệ An vẫn là một cộng đồng tiêu biểu của cả nước trong việc phát huy sức mạnh nội sinh, nhằm phát huy tính tự quản của mình mà xã Đồng Văn là một điển hình.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên, tôi chọn đề tài “Hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở”(Qua khảo sát thực tiễn ở xã Đồng Văn, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An) làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua tìm hiểu của tôi các công trình nghiên cứu về hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư là không nhiều, đặc biệt là các nhà nghiên cứu chưa đi sâu bàn bạc các nội dung trọng tâm, các giải pháp cụ thể của nó, để từ đó khái quát lên thành một hệ thống lý luận đem áp dụng vào thực tiễn. Thường thì các tác giả đã đề cập đến ít nhiều về tính tất yếu của cộng đồng dân cư trong việc tồn tại và phát triển của nó, về vai trò nên áp dụng tính tự quản ở cộng đồng cơ sở mang tính chất thuận chiều từ hệ thống chính trị từ trên xuống chứ chưa thực sự xem nó là một chủ thể thực sự của việc nghiên cứu. Có nhiều tác giả cũng đã mục sở thị các mô hình chính quyền địa phương các nước trên thế giới nhưng vẫn là một lý luận mở, bởi các tác giả cũng chưa nhắc đến việc ứng dụng cụ thể trong điều kiện Việt Nam, đặc biệt là thực tiễn hiện nay ở các cộng đồng dân cư Việt thì tính tự quản được thể hiện và phát huy như thế nào. Một số công trình khác cũng đã bóc tách được vấn đề cộng đồng dân cư ra khỏi chính quyền nhưng dụng ý của tác giả cũng là để phát huy có hiệu quả các chính sách của nhà nước ở cơ sở, đặc biệt là chính sách với cấp xã. Tuy nhiên khi nghiên cứu về đề tài này thì không thể bỏ qua các công trình nghiên cứu sau:
- Đề tài: “Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay” do TS Nguyễn Văn Sáu làm chủ nhiệm. Đây là đề tài huy động được đông đảo tập thể các nhà nghiên cứu lý luận giàu kinh nghiệm, nó đã đáp ứng được phần nào thực tiễn đang đặt ra cho việc đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở theo tinh thần Nghị quyết trung ương 5 khoá IX. Các tác giả đã cung cấp được khá đầy đủ những cơ sở thực tiễn và lý luận về cộng đồng làng xã hiện nay như thực trạng và giải pháp xây dựng chính quyền cơ sở, vấn đề phát huy dân chủ ở cơ sở, xây dựng đội ngũ cán bộ, huy động các nguồn nhân lực và tài chính từ cộng đồng, vấn đề huy động sức dân, các giải pháp để chống đói nghèo ở cộng đồng dân cư làng xã. Tác giả lấy thực tế từ các địa phương cơ sở để chứng minh cho tính đúng đắn của lý luận.
- Đề tài: “Ba cơ chế thị trường, nhà nước và cộng đồng ứng dụng cho Việt Nam” của tác giả Đặng Kim Sơn. Đây là một cách nghiên cứu theo hướng khá mới mẻ và thú vị. Thông qua các mô hình, các hộp dữ liệu ở các nước cũng như của đất nước mình mà tác giả đã dày công nghiên cứu, mổ xẻ để lý giải về mối quan hệ giữa con người với con người trong cộng đồng thành một lực lượng ngang hàng với nhà nước và thị trường. Tên gọi cộng đồng trong sách này để chỉ loại cơ chế quan hệ và xử thế của từng cá nhân hoặc giữa các nhóm người với nhau theo một số quy luật trong xã hội loài người.
Bằng các dẫn chứng của mình, tác giả đã nêu ra được những mặt tốt đẹp của cơ chế cộng đồng như lá chắn để bảo vệ quyền lợi của cá nhân, môi trường phát triển xã hội, khắc phục được những mặt yếu của cơ chế này như tính cục bộ họ mạc huyết thống, đúng sai đều dễ lây truyền. Đây cũng chính là một cơ sở để hiểu về cộng đồng dân cư sinh động, đa dạng và phức tạp.
- Đề tài: “Vai trò của các đoàn thể nhân dân trong đảm bảo dân chủ ở cơ sở”. PGS.TSKH.Phan Xuân Sơn.. Tác giả đã nghiên cứu sâu sắc và khoa học về một vấn đề mà tác giả xem là hướng nghiên cứu đúng và cần đầu tư hơn nữa. Đó chính là xã hội công dân (cách nói hiện đại về cộng đồng dân cư) nền tảng cho vấn đề chính sách dân tộc; sức mạnh của cộng đồng thể hiện ở khả năng phân cấp, giao quyền, mức độ tham gia ra quyết định và tự huy động lực lượng của nhân dân, trình độ hoạt động tự giác và tự chủ của cơ sở. Từ đây tác giả đã đề ra việc thực hiện tự trị và tự quản bằng cách nâng cao hiệu quả hoạt động của các đoàn thể nhân dân.
- Đề tài: "Tổ chức quản lý ở thôn, ấp, bản. Thực trạng và giải pháp đổi mới, hoàn thiện” của TS Phạm Hữu Nghị. Xuất phát từ quan điểm: Thôn, ấp, bản không phải là cấp chính quyền mà là một tổ chức của công đồng dân cư, tác giả đã đề xuất đã đề xuất những giải pháp đổi mới, hoàn thiện các thiết chế để quản lý nó. Tác giả khẳng định rõ: Trưởng thôn chỉ là người đại diện cho cộng đồng dân cư và bỏ quy định trưởng thôn là người đại diện cho UBND xã; đồng thời UBND xã chịu trách nhiệm quản lý hành chính nhà nước trên toàn bộ địa bàn xã, còn thôn chỉ là đơn vị tổ chức do nhân dân tự quản; các thiết chế quản lý ở thôn, ấp, bản là thiết chế tự quản chứ không phải đại diện của chính quyền xã, cánh tay nối dài của chính quyền xã; mặt khác cần đổi mới phương thức xây dựng hương ước, quy ước cho phù hợp với tính đặc thù của mỗi cộng đồng dân cư.
- Một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ:
Hoàng Đức Sơn, Những đặc điểm cơ bản của hệ thống chính trị đảm bảo tốt dân chủ ở cơ sở, Luận văn thạc sĩ, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2000.
Chu Văn Hưởng, Vấn đề phân cấp, phân quyền trong thực thi quyền lực nhà nước ở địa phương hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện CTQG Hồ Chí Minh,2008.
Trần Khánh Sơn, Đổi mới hệ thống chính trị cấp Huyện ở Nghệ An hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2008.
Ngoài ra còn có các cuốn sách làm cơ sở lý luận thiết thực cho việc nghiên cứu đề tài này như:
- Vấn đề quyền lực chính trị và thực thi quyền lực chính trị, (Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp cơ sở năm 2008). PGS, TSKH Phan Xuân Sơn,Học viện CT-HC QG Hồ Chí Minh
- Một số lý thuyết và kinh nghiệm tổ chức nhà nước trên thế giới, 2005, Thang Văn Phúc, Nguyễn Đăng Thành (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Chính quyền cấp xã và quản lý nhà nước ở cấp xã. Ban tổ chức cán bộ Chính phủ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
- Hương ước trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt Nam hiện nay, TS Đào Duy Úc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
- Hệ thống chính trị cơ sở. Đặc điểm xu hướng - những vấn đề bức xúc (Kỷ yếu), TS Vũ Hoàng Công, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2001.
- Hoạch định chính sách ở Việt Nam hiện nay - Tiếp cận bước đầu thông qua quá trình hoạch định chính sách đối với cán bộ cấp xã, (Trích từ đề tài cấp bộ: Chính sách và những vấn đề cơ bản chi phối việc hoạch định chính sách ở Việt Nam). TS Nguyễn Đăng Thành, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2002.
- Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay. PGS Hoàng Chí Bảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
- Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay. Đồng chủ biên PGS,TSKH Phan Xuân Sơn-ThS Lưu Văn Quảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Chính sách và chiến lược giảm bất bình đẳng và nghèo đói, Diễn đàn kinh tế tài chính Việt Pháp, 2003.
- Nông hội làng. Hồ Chí Minh. Trích Văn kiện Đảng toàn tập (giai đoạn 1924-1930).
- Dân tộc học đại cương, Lê Sỹ Giáo, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002.
- Tâm lý người Việt Nam đi vào cộng nghiệp hoá, hiện đại hoá -những diều cần khắc phục, Phạm Minh Hạc, Nxb Trẻ, Hà Nội, 2004.
- Chuyện nhà chuyện nước, Hữu Thọ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
- Cơ sở Văn hoá Việt Nam, Trần Ngọc Thêm, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998.
- Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm. Trần Quốc Vượng, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 2000.
- Chủ nghĩa tam dân. Tôn Trung Sơn. Viện thông tin khoa học xã hội, Hà Nội, 1995.
- Nhà nước trong một thế giới chuyển đổi (Báo cáo nhanh về tình hình phát triển thế giới năm 1997), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
- Thể chế chính trị, PGS,TS Nguyễn Đăng Dung, Bùi Ngọc Sơn, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004.
* Các bài báo:
- ThS Nguyễn Hoàng Anh (2002), “Trưởng thôn và vai trò tự quản ở cộng đồng dân cư cơ sở”, đặc san 3, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp.
- TS Đặng Đình Tân (2002), “Chính quyền cấp xã-Một số vấn đề đặt ra hiện nay", đặc san 3, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp.
- Bùi Ngọc Sơn (2002), “Trống làng nào làng ấy đánh”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 12.
- Phùng Văn Hùng (2006), “Tăng cường tính tự quản của chính quyền địa phương góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý và điều hành ngân sách nhà nước”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 4.
- Nguyễn Văn Thâm (2000), “Một số vấn đề quản lý nhà nước ở thôn bản hiện nay”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 1.
- Nguyễn Hữu Hải (2005), “Vài nét về chính quyền địa phương Đan Mạch”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 1.
- Nguyễn Đức Hạnh (2001), “Vài nét về chính quyền địa phương Hoa Kỳ”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,Số 2
- Nguyễn Xuân Diên (2002), “Thẩm phán làng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 2.
Nhìn chung các công trình, các bài viết đã đóng góp những kiến giải nhất định có liên quan đến tính tự quản của công đồng dân cư với việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở, tuỳ góc độ nghiên cứu mà các tác giả đã có cách khai thác lý luận và gắn với thực tiễn khác nhau. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu chuyên sâu toàn diện về tính tự quản của cộng đồng dân cư với việ thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở. Đặc biệt là lấy mẫu thực tế ở xã Đồng văn, Huyện Thanh Chương, Tỉnh Nghệ An. Vì vậy việc chọn đề tài này để nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận và thực tiễn về vấn đề nêu trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích: Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở qua khảo sát tại xã Đồng văn, Huyện Thanh Chương, Tỉnh Nghệ An, từ đó tìm ra giải pháp hữu hiệu để phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của cộng đồng dân cư trong việc quản lý của nhà nước ở cơ sở đáp ứng yêu cầu của đổi mới đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ quan niệm, vai trò, đặc điểm, phương thức của hoạt động tự quản cộng đồng dân cư trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở.
- Nêu những thực trạng hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở, làm rõ những nội dung của hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư và sự quản lý của nhà nước ở cơ sở qua khảo sát ở xã Đồng Văn, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất những giải pháp hữu hiệu để thực hiện tốt hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở đáp ứng yêu cầu thực tiễn và nhiệm vụ trong tình hình mới đặt ra.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động tự quản ở các cộng đồng dân cư thông qua các Hương ước, quy ước, quy chế dân chủ, mối quan hệ, những vấn đề nổi cộm mà người dân đặt ra.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tính kế thừa, chuyển giao hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư từ lịch sử để lại. Nhưng tập trung nghiên cứu thời kỳ đổi mới CNH, HĐH đất nướcvà xã Đồng Văn, huyện Thanh Chương là điển hình.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của nhà nước; lý luận khoa học, tiến bộ của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước về những nội dung liên quan đến hoạt động tự quản của các cộng đồng dân cư ở chính quyền cơ sở.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện bằng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, kết hợp chặt chẽ giữa cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn; giữa phương pháp phân tích và tổng hợp, diễn giải và quy nạp, giữa phương pháp lôgíc và lịch sử; đồng thời kết hợp với điều tra và khảo sát tình hình thực tế.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Làm rõ vị trí, vai trò, phương thức và phát huy sự chủ động, sáng tạo hoạt động tự quản của các cộng đồng dân cư trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở nói riêng, chính sách pháp luật của nhà nước, sự phát triển của xã hội nói chung.
- Đánh giá đúng thực trạng tính tự quản của các cộng đồng dân cư trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở và đưa ra một số giải pháp khả thi áp dụng thực tiễn
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo vận dụng cho các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, các cấp chính quyền địa phương trong cả nước và riêng ở tỉnh Nghệ An.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu hoặc những ai quan tâm vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần ở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
HOẠT ĐỘNG TỰ QUẢN CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ TRONG VIỆC THỰC THI QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở CƠ SỞ
MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
Hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư là gì?
1.1.1.1. Cộng đồng
Theo Từ điển Tiếng Việt, cộng đồng là "toàn thể những người cùng sống, có những điểm giống nhau, gắn bó thành một khối trong sinh hoạt xã hội” [3, tr.192].
Có định nghĩa lại cho rằng: Cộng đồng là “Một tập hợp người sống thành một xã hội trong cùng thời gian, trên cùng một lãnh thổ đã được xác định, có chung đặc điểm tâm lý, tình cảm, có quan hệ gắn bó với nhau thành một khối và tạo ra một mạng lưới thông tin với nhau” [84, tr.15-16].
Khái niệm cộng đồng chỉ nhiều đối tượng có những đặc điểm tương đối khác về quy mô, đặc tính xã hội. Nói đến khái niệm cộng đồng có thể là những khối tập hợp người, các liên minh rộng lớn như cộng đồng thế giới, cộng đồng Châu Âu... Nhỏ hơn, cộng đồng có thể là một kiểu/ hạng xã hội, căn cứ vào những đặc tính tương đồng về sắc tộc, chủng tộc hay tôn giáo...Nhỏ hơn, danh từ cộng đồng được sử dụng cho các đơn vị xã hội cơ bản là gia đình, làng hay một nhóm xã hội nào đó có những đặc tính xã hội chung về lý tưởng xã hội, lứa tuổi, nghề nghiệp, thân phận xã hội [29, tr.15-16].
Quan điểm truyền thống sử dụng thuật ngữ cộng đồng như là một cảm nghĩ, khi con người có ý thức cộng đồng, là cảm giác chung của cộng đồng được xác nhận thông qua việc tôn trọng các biểu tượng, các đặc điểm riêng có của cộng đồng.
Quan điểm hiện đại cho rằng:
Cộng đồng là một thuật ngữ dùng để mô tả một tổ chức xã hội đạt trình độ cao trong tổ chức và hoạt động. Nó là một nơi, một tập thể địa lý giống như một làng, một thành phố hay một trung tâm. Một cộng đồng là một tổ chức xã hội có quan tâm đến những nhu cầu cơ bản như kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, chính trị... của các thành viên của mình [8, tr.34].
Cộng đồng được xác định là những người sống và làm việc trong một khu vực địa lý nhất định. Điều đó có nghĩa là cộng đồng bao gồm tất cả các thành viên của gia đình, không chỉ bao gồm chủ hộ. Cộng đồng bao gồm các tổ chức xã hội được thiết lập bởi chính cộng đồng để đại diện cho các quan điểm của họ" [61, tr.5].
Thuật ngữ cộng đồng còn được hiểu như là một phân thể/ đơn vị/ nhóm người trong hệ thống xã hội, ở đó mọi người ý thức được những đặc trưng và tính chất chung về những gì mà mình đang có. Quan niệm mác-xít cho rằng: Cộng đồng là mối quan hệ qua lại giữa các cá nhân, được quyết định bởi sự cộng đồng các lợi ích của các thành viên có sự giống nhau về các điều kiện tồn tại và hoạt động của những con người hợp thành cộng đồng đó, bao gồm các hoạt động sản xuất vật chất và các hoạt động khác của họ, sự gần gũi giữa họ về tư tưởng, tín ngưỡng, hệ giá trị và chuẩn mực, nền sản xuất, sự tương đồng về điều kiện sống cũng như các quan niệm chủ quan của họ về các mục tiêu và phương tiện hoạt động [29].
Về bản chất của cộng đồng hoàn chỉnh, J.H.Fitcher cho rằng, cộng đồng bao gồm 4 yếu tố: (1) tương quan cá nhân mật thiết với những người khác, tương quan này đôi khi được gọi là tương quan đệ nhất đẳng, tương quan mặt đối mặt, tương quan thân mật; (2) có sự liên hệ về tình cảm và cảm xúc cá nhân trong những nhiệm vụ và công tác xã hội của tập thể; (3) có sự hiến dâng tinh thần hoặc dấn thân đối với nhữ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van moi.doc 1.doc
- bia ngoai.doc