Để đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, cải cách hành chính và cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Muốn xây dựng nhà nước pháp quyền thành công, một trong những nhiệm vụ rất quan trọng là phải hoàn thiện hệ thống pháp luật; mặt khác thông qua công tác phổ biến, giáo dục pháp luật để đưa pháp luật vào cuộc sống, làm cho tất cả mọi cá nhân, tổ chức và cơ quan nhà nước đều hiểu và thực hiện đúng các quy định của pháp luật.
Thực tế gần 20 năm đổi mới đất nước, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, từ Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), các Bộ luật, Luật đến các văn bản dưới luật, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi nhằm thúc đẩy các quan hệ xã hội phát triển. Bên cạnh đó, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cũng được Đảng và Nhà nước chú trọng. Nhiều nghị quyết của Đảng và các văn bản của Nhà nước đã đề cập đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, xác định đúng vị trí của nó trong tăng cường pháp chế XHCN, trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Ngày 7 tháng 01 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg về việc tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay và Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg về việc ban hành kế hoạch triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 1998-2002 và thành lập Hội đồng phối hợp công tác (HĐPHCT) phổ biến, giáo dục pháp luật. Ngày 09 tháng 12 năm 2003, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân. Những quyết định có tính chất bước ngoặt nói trên trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã tạo cơ sở chính trị- pháp lý cần thiết cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trong thời kỳ mới.
Trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, các hình thức, phương pháp đưa pháp luật vào cuộc sống ngày càng đa dạng, sáng tạo. Trong tất cả các hình thức đó, báo cáo viên pháp luật có vai trò rất quan trọng, vì họ là những người tiếp xúc và truyền đạt trực tiếp cho đối tượng tiếp cận pháp luật. Vì vậy, hiệu quả của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật phụ thuộc vào họ rất nhiều, từ kỹ năng biên soạn tài liệu đến phương pháp truyền đạt, từ cách tiếp thu ý kiến của đối tượng nghe truyền đạt đến kỹ năng giải đáp Với tầm quan trọng như vậy, từ sau khi có Chỉ thị 02 của Thủ tướng Chính phủ (1998), đội ngũ báo cáo viên pháp luật trên toàn quốc đã được xây dựng, củng cố và kiện toàn.
101 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1233 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, cải cách hành chính và cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Muốn xây dựng nhà nước pháp quyền thành công, một trong những nhiệm vụ rất quan trọng là phải hoàn thiện hệ thống pháp luật; mặt khác thông qua công tác phổ biến, giáo dục pháp luật để đưa pháp luật vào cuộc sống, làm cho tất cả mọi cá nhân, tổ chức và cơ quan nhà nước đều hiểu và thực hiện đúng các quy định của pháp luật.
Thực tế gần 20 năm đổi mới đất nước, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, từ Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), các Bộ luật, Luật đến các văn bản dưới luật, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi nhằm thúc đẩy các quan hệ xã hội phát triển. Bên cạnh đó, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cũng được Đảng và Nhà nước chú trọng. Nhiều nghị quyết của Đảng và các văn bản của Nhà nước đã đề cập đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, xác định đúng vị trí của nó trong tăng cường pháp chế XHCN, trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Ngày 7 tháng 01 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg về việc tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay và Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg về việc ban hành kế hoạch triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 1998-2002 và thành lập Hội đồng phối hợp công tác (HĐPHCT) phổ biến, giáo dục pháp luật. Ngày 09 tháng 12 năm 2003, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân. Những quyết định có tính chất bước ngoặt nói trên trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã tạo cơ sở chính trị- pháp lý cần thiết cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trong thời kỳ mới.
Trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, các hình thức, phương pháp đưa pháp luật vào cuộc sống ngày càng đa dạng, sáng tạo. Trong tất cả các hình thức đó, báo cáo viên pháp luật có vai trò rất quan trọng, vì họ là những người tiếp xúc và truyền đạt trực tiếp cho đối tượng tiếp cận pháp luật. Vì vậy, hiệu quả của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật phụ thuộc vào họ rất nhiều, từ kỹ năng biên soạn tài liệu đến phương pháp truyền đạt, từ cách tiếp thu ý kiến của đối tượng nghe truyền đạt đến kỹ năng giải đáp… Với tầm quan trọng như vậy, từ sau khi có Chỉ thị 02 của Thủ tướng Chính phủ (1998), đội ngũ báo cáo viên pháp luật trên toàn quốc đã được xây dựng, củng cố và kiện toàn.
Thời gian qua, hoạt động của các báo cáo viên pháp luật đã mang lại những kết quả tích cực, kịp thời chuyển tải các văn bản pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong việc nâng cao kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức và nhân dân, nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, bảo vệ trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên trong quá trình công tác, các báo cáo viên pháp luật vẫn còn có những hạn chế nhất định. Tại Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg và Quyết định 03/1998/QĐ-TTg ngày 7/1/1998 của Thủ tướng Chính phủ đã đánh giá:
Trong những năm qua họ là những người có đóng góp lớn cho công tác này song nhìn chung, lực lượng này chưa thực sự phát huy hết vai trò của mình. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là trình độ, kiến thức pháp luật của báo cáo viên, tuyên truyền viên cơ sở, những người trực tiếp gần dân nhất, trực tiếp giới thiệu và phổ biến văn bản pháp luật cho dân thì trình độ còn hạn chế, nhất là kiến thức, hiểu biết về pháp luật [38, tr.8-9].
Đối với tỉnh Quảng Bình, trong những năm qua, công tác giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật thông qua các báo cáo viên pháp luật nói riêng được cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương quan tâm; nội dung, hình thức cũng như phương pháp từng bước được đổi mới, do vậy đã thu được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua tại tỉnh Quảng Bình vẫn còn có một bộ phận khá lớn nhân dân hiểu biết pháp luật còn sơ sài, hời hợt, nhiều cán bộ, công chức chưa phân biệt được giữa các loại vi phạm pháp luật như: vi phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự… Vi phạm pháp luật ở một số nơi còn xảy ra, thậm chí là phổ biến. Trong khi đó một số nơi cán bộ chính quyền lại thờ ơ với công tác này.
Là cán bộ đang công tác giảng dạy tại Trường Chính trị tỉnh Quảng Bình, tôi nhận thấy công tác giáo dục pháp luật cho nhân dân tỉnh nhà là vấn đề cần đặc biệt quan tâm, nghiên cứu. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ Luật. Đây là một đề tài rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đối với tỉnh Quảng Bình trong tình hình hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những vấn đề cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, vấn đề này được nhiều cơ quan, tổ chức và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, có thể kể tên một số công trình tiêu biểu sau:
+ Công trình đã viết thành sách:
Bàn về giáo dục pháp luật của hai tác giả Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1995; Xây dựng ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật do GS. TSKH. Đào Trí úc chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính của TS. Lê Đình Khiên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
+ Các đề tài khoa học cấp nhà nước và cấp bộ nghiên cứu về phổ biến, giáo dục pháp luật như:
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phổ biến, giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới, đề tài khoa học cấp bộ, mã số 92-98-223 ĐT của Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp; Tìm kiếm mô hình phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít người, đề tài khoa học cấp bộ của Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp, 1995; Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị ở nước ta hiện nay, đề tài khoa học cấp bộ của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000; Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng chương trình quốc gia về phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn tới, đề tài khoa học cấp bộ của Bộ Tư pháp, 2004…
+ Các luận án, luận văn nghiên cứu về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật:
ý thức pháp luật và giáo dục ở Việt nam, luận án Phó tiến sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Đình Lộc (bảo vệ ở Liên xô cũ), 1977; Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường pháp chế XHCN, Luận án Phó tiến sĩ Luật học của tác giả Trần Ngọc Đường (bảo vệ ở Liên xô cũ), 1988; Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay, luận án Phó tiến sĩ Luật học của tác giả Lê Đình Khiên, 1996; Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam, luận án Phó tiến sĩ Luật học của tác giả Dương Thị Thanh Mai, 1996; Giáo dục pháp luật trong các trường đại học trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay, luận án Phó tiến sĩ Luật học của tác giả Đinh Xuân Thảo, 1996 và một số luận văn thạc sĩ luật học của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ sở đào tạo khác cũng đề cập đến chủ đề phổ biến, giáo dục pháp luật.
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, giảng dạy pháp luật hay các cán bộ, công chức làm việc trong các tổ chức, cơ quan nhà nước… được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu khoa học, các bài viết của tập thể và cá nhân đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật. Song cho đến nay chưa có một công trình, luận án, luận văn, đề tài khoa học nào nghiên cứu về công tác giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật nói chung và ở tỉnh Quảng Bình nói riêng. Tuy nhiên, các công trình, luận văn… đã nghiên cứu, tạo điều kiện cho tác giả tham khảo, kế thừa để tiếp tục nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình, phân tích những ưu điểm và hạn chế, từ đó xác định phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn có mục đích nghiên cứu cơ sở lý luận của công tác giáo dục pháp luật, đánh giá thực trạng, xác định phương hướng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích đã nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật.
- Nghiên cứu vị trí, vai trò của báo cáo viên pháp luật đối với công tác giáo dục pháp luật.
- Phân tích, đánh giá thực trạng về giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình, từ đó rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm của thực trạng trên.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật của báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Giáo dục pháp luật là trách nhiệm của nhiều tổ chức, cơ quan. Luận văn chỉ nghiên cứu công tác giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở Quảng Bình trong thời gian từ năm 1998 đến nay, từ khi có Chỉ thị 02 ngày 07/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, về giáo dục pháp luật. Phương pháp luận trong nghiên cứu là phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác-Lênin.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp khảo sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học…
5. Những đóng góp mới về khoa học của đề tài
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và có hệ thống những vấn đề giáo dục pháp luật của đối tượng cụ thể là Báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình.
Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng công tác giáo dục pháp luật, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm về giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình thời gian qua.
Luận văn đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
- Luận văn góp phần vào việc nhận thức rõ tính đặc thù và thực trạng giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình. Từ đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm chỉ đạo của các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị- xã hội đối với đội ngũ báo cáo viên pháp luật trong việc giáo dục pháp luật cho nhân dân địa phương.
- Các giải pháp mà luận văn nêu ra có thể sử dụng để xây dựng đội ngũ báo cáo viên pháp luật có đầy đủ phẩm chất, năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục pháp luật của mình.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật trong các tỉnh khác có điều kiện kinh tế-xã hội-văn hoá tương tự như Quảng Bình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật.
Chương 2: Thực trạng hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình
Chương 3: Quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục pháp luật cho đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay.
Chương 1
Cơ sở lý luận về hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật
1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của báo cáo viên pháp luật
1.1.1. Khái niệm báo cáo viên pháp luật
Thuật ngữ “báo cáo viên” trong một thời gian dài được sử dụng ở nước ta với rất nhiều nghĩa khác nhau, qua các giai đoạn và trong từng lĩnh vực cụ thể.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì báo cáo viên là “Người trình bày báo cáo trước một hội nghị đông người” [84, tr.38]. Theo cách hiểu này thì báo cáo viên là tất cả những người trình bày báo cáo trước một hội nghị đông người. Hội nghị đó có thể do các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức kinh tế hoặc tổ chức xã hội - nghề nghiệp… tổ chức. Do vậy, báo cáo viên không chỉ có ở trong các tổ chức Đảng, Nhà nước, Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ… mà còn có trong các tổ chức tự nguyện quần chúng khác.
Chỉ thị số 14- CT/ TW ngày 03 tháng 8 năm 1978 của Ban Bí thư Trung ương Đảng nêu rõ: “báo cáo viên, tuyên truyền viên là lực lượng tuyên truyền miệng có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn tư tưởng và hành động cho cán bộ đảng viên và nhân dân theo đường lối, quan điểm của Đảng” [1]. Theo Chỉ thị này thì báo cáo viên là một chức danh để chỉ đội ngũ những người tuyên truyền trực tiếp bằng lời nói tới các đối tượng cụ thể. Đội ngũ báo cáo viên được tổ chức ở tất cả các cấp từ trung ương đến tỉnh, thành phố, huyện, quận, xã, phường, thị trấn và ở tất cả các ngành, các tổ chức đoàn thể, các lực lượng vũ trang. Đội ngũ báo cáo viên đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ và sự quản lý của cơ quan tuyên huấn, cơ quan tư tưởng- văn hoá.
Thuật ngữ “báo cáo pháp luật” ra đời và tồn tại rất lâu trong đời sống pháp lý của nhà nước ta, song chưa có một khái niệm cụ thể. Tại Quy chế Báo cáo viên pháp luật (ban hành kèm theo Quyết định số 210/1999/QĐ-BTP ngày 09/7/1999 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp) quy định: “Báo cáo pháp luật là một công tác tư tưởng, văn hóa của Đảng, được tiến hành bằng lời nói trước những đối tượng xác định, nhằm truyền đạt tinh thần, nội dung pháp luật, giúp người nghe hiểu và nâng cao nhận thức về pháp luật, tôn trọng, làm theo pháp luật một cách đúng đắn, thống nhất” [6, tr.1]. Như vậy, báo cáo pháp luật được xác định là một công tác của Đảng; quy định này là sự cụ thể hoá quy định tại Hiến pháp năm 1992 đối với vị trí của Đảng trong đời sống và xã hội, “Đảng Cộng sản Việt Nam…là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” [31,tr.12], Đảng lãnh đạo bằng việc ban hành chủ trương, chính sách và Nhà nước cụ thể hoá chủ trương, chính sách đó bằng pháp luật để nhân dân thực hiện. Do vậy, báo cáo pháp luật thực chất cũng là việc phổ biến chủ trương chính sách của Đảng vào trong nhân dân, từ đó để nhân dân thực hiện tốt chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
“Báo cáo viên pháp luật” là thuật ngữ chỉ những người báo cáo viên làm nhiệm vụ báo cáo pháp luật. Theo quy định tại Quy chế Báo cáo viên pháp luật thì:
Báo cáo viên pháp luật là những người được cơ quan nhà nước công nhận để thực hiện nhiệm vụ báo cáo pháp luật.
Báo cáo viên pháp luật bao gồm :
1. Báo cáo viên pháp luật của Bộ, ngành ở Trung ương (gọi chung là Báo cáo viên pháp luật ở Trung ương).
2. Báo cáo viên pháp luật của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Báo cáo viên pháp luật tỉnh, thành phố).
3. Báo cáo viên pháp luật của quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Báo cáo viên pháp luật huyện, quận) [6, tr.1].
Như vậy, Quy chế này cũng chưa đưa ra được khái niệm chung cho báo cáo viên pháp luật. Tuy nhiên, từ những khái niệm trên chúng ta có thể hiểu: Báo cáo viên pháp luật là những người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận, để thực hiện nhiệm vụ truyền đạt tinh thần, nội dung của pháp luật cho các đối tượng liên quan, giúp cho các đối tượng này hiểu và nâng cao nhận thức về pháp luật, từ đó để họ tôn trọng và chấp hành pháp luật một cách đúng đắn, thống nhất.
1.1.2. Vị trí, vai trò, của báo cáo viên pháp luật
Báo cáo viên pháp luật là những người trực tiếp truyền đạt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với cán bộ, công chức và nhân dân, có thể coi đây là “cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Do vậy, báo cáo viên pháp luật có một vị trí, vai trò rất quan trọng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Vị trí, vai trò đó thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất: Góp phần nâng cao hiểu biết về pháp luật cho cán bộ, công chức và nhân dân.
Pháp luật của Nhà nước không phải ở đâu, lúc nào cũng được mọi người trong xã hội biết đến và nghiêm chỉnh chấp hành. Bởi vì, trên thực tế, pháp luật có thể được một số người tìm hiểu, quan tâm và nắm bắt xuất phát từ yêu cầu công tác phải học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ hay từ nhu cầu sản xuất kinh doanh. Những người này luôn theo sát những quy định của pháp luật mới được ban hành để phục vụ trực tiếp cho công tác của mình. Số lượng đối tượng này không nhiều, chủ yếu là cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước, trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội hay các nhà kinh doanh. Hiện nay, do trình độ dân trí chưa cao, đời sống kinh tế của đa số nhân dân còn gặp nhiều khó khăn nên phần lớn nhân dân lao động trong xã hội chưa có điều kiện tiếp cận với pháp luật. Do vậy, thông qua hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, hoạt động của các báo cáo viên pháp luật nói riêng, những thông tin, những yêu cầu, nội dung của pháp luật được chuyển tải đến với người dân, giúp cho họ hiểu biết về pháp luật, nâng cao trình độ dân trí pháp lý, từ đó dần dần tạo nên thói quen sống và làm việc theo pháp luật. Nếu đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở các cấp, các ngành, các đoàn thể biết phát huy hết vai trò, trách nhiệm của mình sẽ góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật của cán bộ, công chức và nhân dân, từ đó hạn chế được vi phạm pháp luật xảy ra.
Thứ hai: Góp phần hình thành niềm tin vào pháp luật trong nhân dân.
Để nâng cao dân trí pháp lý, việc nâng cao hiểu biết pháp luật của người dân là chưa đủ, mà các báo cáo viên pháp luật còn phải có trách nhiệm thông qua hoạt động của mình tạo lập niềm tin vào pháp luật cho mỗi người dân và cả cộng đồng. Bằng việc tuyên truyền, giải thích, để giúp cho mọi người hiểu biết pháp luật, hiểu biết quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật, hiểu biết về những mặt thuận lợi và khó khăn, phức tạp của việc thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật, những mặt ưu điểm và hạn chế của quá trình điều chỉnh pháp luật.
Pháp luật, cũng như các quy phạm xã hội khác, không bao giờ phản ánh đầy đủ nguyện vọng, mong muốn của tất cả mọi người trong xã hội. Bởi quá trình điều chỉnh pháp luật là lấy lợi ích của đông đảo nhân dân để phục vụ, do đó sẽ có một số ít người trong xã hội không thỏa mãn được. Vì vậy, trách nhiệm của các báo cáo viên pháp luật là thông qua hoạt động của mình giúp cho mọi người hiểu đúng tinh thần, quan điểm xây dựng luật, từ đó để hình thành lòng tin và có hành xử đúng với quy định của pháp luật.
Thứ ba: Góp phần nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân.
ý thức pháp luật của người dân được hình thành bởi hai yếu tố, đó là tri thức pháp luật và thái độ đối với pháp luật.
Tri thức pháp luật là sự hiểu biết pháp luật của các chủ thể. Để hiểu biết pháp luật thì các chủ thể phải thường xuyên học tập, tìm hiểu pháp luật cũng như tích luỹ kiến thức từ thực tiễn cuộc sống.
Thái độ đối với pháp luật chính là trạng thái tâm lý của các chủ thể khi thực hiện và áp dụng pháp luật, họ có thể đồng tình, ủng hộ với các hành vi thực hiện đúng pháp luật hoặc lên án các hành vi vi phạm pháp luật.
ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân chỉ được nâng cao khi công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được tiến hành thường xuyên, liên tục, kịp thời và có tính thuyết phục. Vì vậy, đối với hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, đối với các báo cáo viên pháp luật nói riêng không đơn thuần là tuyên truyền các văn bản pháp luật mà còn phải giúp nhân dân hình thành ý thức đồng tình ủng hộ những hành vi hợp pháp, lên án và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ tư: Góp phần vào việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật bảo đảm tính hợp pháp và tính hợp lý.
Tính hợp pháp của văn bản pháp luật thể hiện khi ban hành phải bảo đảm không trái với Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; đúng thẩm quyền ban hành cũng như phải đúng hình thức và thủ tục do pháp luật quy định.
Tính hợp lý thể hiện văn bản pháp luật phải bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, tập thể và cá nhân cũng như phải bảo đảm tính hệ thống, toàn diện và phù hợp với tình hình, đặc điểm, điều kiện từng địa phương, từng ngành mà văn bản đó điều chỉnh.
Trong quá trình phổ biến, giáo dục pháp luật, các báo cáo viên pháp luật không những cung cấp thông tin về pháp luật cho các đối tượng mà còn nghiên cứu, phân tích những quy định của pháp luật. Thông qua việc nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, một mặt góp phần cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có chất lượng tốt, mặt khác để phát hiện ra những điểm không phù hợp trong các văn bản pháp luật, từ đó đề xuất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bãi bỏ hoặc ban hành các văn bản mới phù hợp.
Thứ năm: Báo cáo viên pháp luật là người động viên, cổ vũ nhân dân hăng hái thi đua lao động sản xuất, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, nâng cao chất lượng công tác và hiệu quả sản xuất. Hiệu quả pháp luật được nâng lên nếu như phương pháp truyền đạt của báo cáo viên pháp luật có sức truyền cảm mạnh mẽ, có khả năng thâm nhập vào trong nhân dân, tác động sâu sắc vào tình cảm của nhân dân đối với pháp luật, từ đó để nhân dân thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình, sống và làm việc theo pháp luật.
Thứ sáu: Báo cáo viên pháp luật thường là những người đang công tác tại các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, họ vừa là người phổ biến, giáo dục pháp luật, vừa là người tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, họ có vai trò rất quan trọng trong việc chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, đảm bảo an ninh quốc phòng ở địa phương và cơ quan cũng như thực hiện có hiệu quả việc quản lý nhà nước trên các mặt, lĩnh vực được giao.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, hình thức hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật
1.2.1. Cơ sở lý luận của giáo dục pháp luật
1.2.1.1. Quan niệm về giáo dục pháp luật
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, V.I. Lênin từng nói: “Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn”. Nhưng cái “khó” mà Lênin nêu ra không phải chỉ là chống thù trong, giặc ngoài để bảo vệ thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà còn ở việc tạo ra một nguồn lực to lớn về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, xây dựng ý thức mới của hàng triệu con người để đưa xã hội tiến lên nhờ kỷ luật lao động tự giác của họ. Và chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấm nhuần luận điểm đó của Lênin, áp dụng vào điều kiện thực tế của Việt Nam, một nước truyền thống phương Đông mà theo V.I. Lênin, nhiệm vụ đấu tranh chống những tàn tích thời trung cổ có ý nghĩa rất quan trọng. Hồ Chí Minh coi giáo dục, trong đó có giáo dục pháp luật là một trong những nhiệm vụ cấp bách của chính quyền mới. Người chỉ rõ:
Chế độ thực dân đã đầu độc nhân dân ta bằng rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hoá dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập.
Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính [54, tr.8-9].
Giáo dục pháp luật là một vấn đề cơ bản không những đối với nước ta mà còn đối với các nước khác trên thế giới. Qua các sách báo, tài liệu hội thảo của một số tác giả nước ngoài đã khẳng định “Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, đào tạo pháp luật như là những nhiệm vụ nâng cao văn hóa pháp luật, ý thức pháp luật của nhân dân” [83, tr.335].
Về khái niệm giáo dục pháp luật, ở nước ta hiện nay còn có nhiều quan điểm, cách hiểu khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: giáo dục pháp luật là một bộ phận của giáo dục chính trị tư tưởng và giáo dục đạo đức.
Theo quan điểm này, giáo dục pháp luật không được xem là một hoạt động độc lập trong hệ thống giáo dục nói chung mà nó là một bộ phận cấu thành của công tác giáo dục chính trị tư tưởng và giáo dục đạo đức; khi tiến hành giáo dục chính trị, tư tưởng và giáo dục đạo đức cho nhân dân thì tự nó sẽ hình thành nên ý thức pháp luật. Điều đó có nghĩa là nếu công tác giáo dục chính trị tư tưởng và giáo dục đạo đức tốt thì sẽ có sự tôn trọng pháp luật của nhân dân. Nói cách khác, sự hình thành ý thức pháp luật của công dân là do quá trình giáo dục chính trị tư tưởng hay giáo dục đạo đức tạo nên.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Giáo dục pháp luật đồng nghĩa với phổ biến, tuyên truyền hay giải thích pháp luật. V
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV.doc
- Mục lục.doc