Luận văn Hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở xã ở Việt Nam hiện nay

Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà ra đời đánh dấu một bước chuyển biến vô cùng trọng đại của dân tộc ta. Nó đập tan ách thống trị thực dân tàn bạo, xoá bỏ chế độ phong kiến lỗi thời đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân được làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi dân chủ là một nội dung quan trọng. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực để nhân dân ta vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng, vừa là bản chất và đặc trưng của chế độ mới. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã khẳng định: "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, đó nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình".

Trong quá trình xây dựng đất nước, quyền dân chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng, nhân dân thực hiện quyền làm chủ đất nước trước hết và chủ yếu thông qua các cơ quan dân cử. Trong những năm 80 - 90 của thế kỷ XX tình hình vi phạm quyền dân chủ, tệ quan liêu tham nhũng diễn ra trầm trọng dẫn đến tình trạng khiếu kiện tập thể, sự phản ứng mạnh mẽ của nhân dân, làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền.

Ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 30/CT-TƯ về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cụ thể hoá một bước Chỉ thị này, ngày 15/5/1998, Chính phủ ra Nghị định số 29/ND-CP về thực hiện dân chủ ở xã. Đây là những văn bản quan trọng do Đảng và Nhà nước ban hành nhằm tiếp tục phát huy quyền làm chủ của nhân dân, từng bước đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, chuyên quyền độc đoán, hống hách, xa rời quần chúng, tạo động lực mạnh mẽ trong nhân dân, góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng XHCN.

Tuy nhiên trong quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã, ngoài những mặt tích cực đạt được đã bộc lộ những điểm chưa hoàn chỉnh như: Tính dân chủ hoá, công khai hoá trong việc cung cấp những thông tin có liên quan trực tiếp đến đời sống hằng ngày của nhân dân ở cơ sở còn hạn chế. Việc thực hiện chế độ lấy ý kiến nhân dân trước khi ban hành chủ trương chính sách của chính quyền còn mang tính hình thức, kém hiệu quả, chưa quy định rõ ràng trách nhiệm của chính quyền trong việc thực hiện Quy chế dân chủ. Còn thiếu các phương thức cụ thể để thực hiện phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" một nội dung quan trọng của việc thực hiện quyền dân chủ ở cấp xã.

 

doc89 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1410 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở xã ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài: Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà ra đời đánh dấu một bước chuyển biến vô cùng trọng đại của dân tộc ta. Nó đập tan ách thống trị thực dân tàn bạo, xoá bỏ chế độ phong kiến lỗi thời đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân được làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi dân chủ là một nội dung quan trọng. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực để nhân dân ta vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng, vừa là bản chất và đặc trưng của chế độ mới. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã khẳng định: "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, đó nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình". Trong quá trình xây dựng đất nước, quyền dân chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng, nhân dân thực hiện quyền làm chủ đất nước trước hết và chủ yếu thông qua các cơ quan dân cử. Trong những năm 80 - 90 của thế kỷ XX tình hình vi phạm quyền dân chủ, tệ quan liêu tham nhũng diễn ra trầm trọng dẫn đến tình trạng khiếu kiện tập thể, sự phản ứng mạnh mẽ của nhân dân, làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền. Ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 30/CT-TƯ về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cụ thể hoá một bước Chỉ thị này, ngày 15/5/1998, Chính phủ ra Nghị định số 29/ND-CP về thực hiện dân chủ ở xã. Đây là những văn bản quan trọng do Đảng và Nhà nước ban hành nhằm tiếp tục phát huy quyền làm chủ của nhân dân, từng bước đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, chuyên quyền độc đoán, hống hách, xa rời quần chúng, tạo động lực mạnh mẽ trong nhân dân, góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng XHCN. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã, ngoài những mặt tích cực đạt được đã bộc lộ những điểm chưa hoàn chỉnh như: Tính dân chủ hoá, công khai hoá trong việc cung cấp những thông tin có liên quan trực tiếp đến đời sống hằng ngày của nhân dân ở cơ sở còn hạn chế. Việc thực hiện chế độ lấy ý kiến nhân dân trước khi ban hành chủ trương chính sách của chính quyền còn mang tính hình thức, kém hiệu quả, chưa quy định rõ ràng trách nhiệm của chính quyền trong việc thực hiện Quy chế dân chủ. Còn thiếu các phương thức cụ thể để thực hiện phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" một nội dung quan trọng của việc thực hiện quyền dân chủ ở cấp xã. Trước yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước. Việc triển khai nghiên cứu đề tài: "Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã ở Việt Nam hiện nay" là việc làm cần thiết có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đáp ứng yêu cầu bức xúc hiện nay là xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã là những quy phạm mới được ban hành từ năm 1998 và đang được triển khai thực hiện do vậy các bài viết, công trình nghiên cứu chỉ dừng lại ở chỗ: Tìm hiểu và nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã. Đánh giá, tổng kết những thành tựu và những khó khăn sau hơn 6 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã. Nhìn chung các bài viết đã lý giải về tính tất yếu phải xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, qua thực tiễn khảo sát việc thực hiện quy chế ở các địa phương, vùng miền trong cả nước để đưa ra những thành tựu đã đạt được của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cấp xã cũng như rút ra những bất cập, hạn chế, vướng mắc của Quy chế, mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã và hoàn thiện pháp luật thực hiện dân chủ ở cấp xã trên cơ sở lý luận và thực tiễn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn: 3.1. Mục đích: Mục đích của luận văn là trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về dân chủ ở cơ sở và đánh giá thực trạng pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở trong điều kiện hiện nay; luận văn đề xuát phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ: Từ mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Tìm hiểu, phân tích một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu: Khái niệm, đặc điểm nền dân chủ, bản chất, vai trò của dân chủ ở cơ sở; khái niệm, nội dung, vai trò và tiêu chí hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã. - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về thực hiện dân chủ và thực trạng thi hành pháp luật thực hiện dân chủ ở cấp xã hiện nay. - Đối chiếu, liên hệ với những yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước, trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta, bước đầu đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quy chế về thực hiện dân chủ ở cấp xã trong điều kiện mới. 4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Pháp luật về thực hiện dân chủ hiện nay có phạm vi điều chỉnh tương đối rộng bao gồm việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, cơ quan hành chính, doanh nghiệp, trường học… Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Trong đó tập trung phân tích những vấn đề lý luận chung về dân chủ, về pháp luật thực hiện dân chủ ở cơ sở, về thực trạng thi hành pháp luật thực hiện dân chủ ở cơ sở từ năm 1998 đến nay (Từ khi Chính phủ ban hành Nghị định 29/NĐ-CP ngày 11/5/1998). Trên cơ sở đó đề ra phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã trong điều kiện mới. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu: - Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nền dân chủ XHCN, về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN nói chung và về lý luận xây dựng pháp luật nói riêng. - Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng với các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Lịch sử - cụ thể; kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác: Thống kê, so sánh, điều tra xã hội học. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn: - Luận văn nghiên cứu xác định khái niệm, tiêu chí hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã. - Phân tích, đánh giá một cách tương đối toàn diện thực trạng và những nguyên nhân tồn tại của Quy chế và thực thi Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã. - Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã trong điều kiện mới. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn: - Luận văn góp phần giải quyết một số vấn đề lý luận và thực tiễn hiện nay đang đặt ra đối với hoạt động thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở. - Luận văn thành công sẽ là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy trong các trường pháp lý cũng như nghiện cứu hoàn thiện pháp luật thực hiện quyền dân chủ ở Việt Nam trong thời gian tới. 8. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết./. Chương 1: Cơ sở lý luận về hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã 1.1. Nhận thức chung về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: 1.1.1. Một số quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ XHCN. 1.1.1.1. Dân chủ và quyền dân chủ: Đường lối đổi mới và dân chủ hoá mọi lĩnh vực của đời sống xã hội do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng từ Đại hội VI (Tháng 12/1986) đã và đang đi vào cuộc sống. Sau gần 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới với những thành tựu đạt được đã cho phép chúng ta khẳng định được tính đúng đắn trong đường lối đổi mới của Đảng ta. Tiến tới chủ nghĩa xã hội, chúng ta không thể không xây dựng, phát triển và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa - nền dân chủ và tự do của nhân dân, đưa nhân dân tới vị trí của người làm chủ xã hội, phát huy mọi khả năng chủ động sáng tạo của quần chúng trong mọi hoạt động quản lý kinh tế và xã hội. Nền dân chủ XHCN không những là một nhân tố hợp thành nội dung của chủ nghĩa xã hội mà còn biểu hiện bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, đóng vai trò của một trong những động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội. Nền dân chủ XHCN mà chúng ta đang từng bước xây dựng và hoàn thiện hoàn toàn khác về chất so với nền dân chủ tư sản cũng như các nền dân chủ từng tồn tại trong lịch sử trước đó vốn gắn liền với chế độ áp bức và nô dịch quần chúng lao động. Hướng tới dân chủ xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội khoa học, công cuộc đổi mới và dân chủ hoá mở ra khả năng lôi cuốn đông đảo quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu, khắc phục mọi biểu hiện tập trung quan liêu để thực hiện dân chủ, kỷ luật và pháp luật. Đồng thời cuộc đấu tranh đó cũng nhằm phê phán và loại trừ mọi biểu hiện của dân chủ cực đoan, tự do vô chính phủ, kiên quyết chống lại mọi mưu toan lợi dụng xu thế dân chủ hoá và nhu cầu dân chủ chính đáng của nhân dân để gây mất ổn định xã hội, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, loại bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, tuyên truyền cho những quan niệm trừu tượng, phi lịch sử, làm lu mờ bản chất giai cấp của dân chủ, tách rời dân chủ với pháp luật, quyền lợi và nghĩa vụ. Đây là những vấn đề thời sự trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay mà chúng ta không thể xem nhẹ. Một trong những vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu về lý luận và có ý nghĩa thực tiễn cấp bách trong việc mở rộng và phát huy quyền dân chủ của công dân đó chính là việc nghiên cứu một cách có hệ thống, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa. 1.1.1.1.1. Dân chủ: Dân chủ là khái niệm xuất hiện từ thời cổ đại. Theo tiếng Hy Lạp cổ, dân chủ là do 2 từ hợp thành Demos (dân chúng) và Cratos (quyền lực hay cai trị). Như vậy, với nguyên nghĩa của từ, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, quyền lực của nhân dân, dân chủ là sự cai trị của nhân dân. Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: "Dân chủ, hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế chínn trị nhất định" Từ điển Bách khoa Việt Nam, 1995, +.I, trang 653. Dân chủ có nghĩa là quyền lực của nhân dân là một trong những hình thức tổ chức chính trị Nhà nước của xã hội mà đặc trưng là việc tuyên bố chính thức nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số, thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là cội nguồn của quyền lực. Dân chủ XHCN là một hình thức dân chủ do nhân dân lao động chủ động thiết lập trong tiến trình đấu tranh cách mạng, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thông qua đội chính trị tiên phong của nó, là Đảng cộng sản. Trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" C.Mác và Ph. Ăng - ghen đã cho rằng: "Trước hết giai cấp công nhân phải tự mình tổ chức thành giai cấp thống trị và giành lấy dân chủ với ý nghĩa trực tiếp của nó là giành lấy quyền lực Nhà nước". Như vậy dân chủ XHCN có mục đích tự thân, giành lấy dân chủ là để tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội vì mục tiêu đem lại hạnh phúc, ấm no, tự do, bình đẳng cho mọi người lao động. C.Mác đã dự báo điều đó rằng: "Thay cho xã hội tư bản cũ với những giai cấp và đối kháng, giai cấp của nó sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" Mác - Ph. Ăng ghen toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 1995, tập 4, trang 628. . Sau này, Lênin tiếp tục phát triển tư tưởng ấy trong điều kiện mới. Theo Lênin thì dân chủ gắn bó hữu cơ, mật thiết với CNXH. Người viết: "Không có chế độ dân chủ thì CNXH không thể thực hiện được theo hai nghĩa sau đâ:1. Giai cấp vô sản không thể hoàn thành được cuộc cách mạng XHCN nếu họ không chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho dân chủ. 2. Chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của mình và sẽ không dần được nhân loại đi đến thủ tiêu Nhà nước, nếu không thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ" 1 Nghiên cứu lý thuyết về dân chủ có nhiệm vụ làm sáng tỏ bản chất, những đặc điểm hình thành, những trình độ phát triển cùng những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của dân chủ trong mỗi thời kỳ nhất định và cuối cùng là phải vạch ra những điều kiện để thực hiện dân chủ trong xã hội gắn liền với những quy định tất yếu, khách quan của cơ sở kinh tế và chính trị xã hội của xã hội đó. Để làm được điều đó phải xác định hướng tiếp cận về dân chủ như sau: Thứ nhất: Dân chủ là một hiện tượng lịch sử - xã hội, xuất hiện và phát triển với tư cách là sản phẩm, là kết quả trực tiếp của đời sống chính trị, của sự vận động chính trị của các giai cấp trong cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết vấn đề quyền lực thuộc về giai cấp nào trong xã hội. Chế độ dân chủ của một xã hội thường tìm thấy phương thức biểu hiện phổ biến của nó ở chế độ nhà nước. Nhà nước như là một thiết chế chính trị để thực hiện dân chủ tuy không phải bất cứ chế độ nhà nước nào cũng là chế độ dân chủ. Lịch sử đã từng biết tới các hình thức nhà nước chuyên chế, quân chủ (dưới các triều đại và chế độ phong kiến) cũng như nhà nước phát xít, các khuynh hướng độc tài và phát xít hoá nhà nước trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Đó là những chế độ nhà nước phản dân chủ, xung đột gay gắt với quyền dân chủ của công dân và xã hội nói chung. Sự trùng hợp giữa dân chủ với nhà nước đòi hỏi tổ chức và bộ máy Nhà nước được xây dựng nên cùng với công cụ của nó là pháp luật phải ít nhiều mang tính chất tiến bộ, đáp ứng được những mức độ nào đó của lợi ích nhân dân và nhu cầu xã hội. Do vậy các cuộc đấu tranh cho dân chủ diễn ra trong lịch sử bao giờ cũng phản ánh và gắn liền với các cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh xã hội. Nó đụng chạm trực tiếp tới những cải cách hoặc phá bỏ chế độ Nhà nước này hay chế độ Nhà nước khác. Quyền thống trị của giai cấp này hay giai cấp khác. Xét trên bình diện xã hội và quản lý xã hội, giải quyết vấn đề dân chủ có nội dung căn bản của nó ở chỗ giải quyết vấn đề Nhà nước. Lênin viết: "…Dân chủ là sự thống trị của đa số. Chừng nào mà ý chí của đa số vẫn còn mờ tối, chừng nào mà người ta vẫn có thể, dù chỉ là hơi giống như thế thôi, cho ý chí đó là còn mờ tối, thì chừng đó người ta vẫn còn đưa ra cho nhân dân một Chính phủ của bọn tư sản phản cách mạng dưới chiêu bài Chính phủ "dân chủ". Nhưng tình trạng đó không thể kéo dài được. Trong vài tháng đã trôi qua kể từ ngày 27/2 trở đi, ý chí của đa số công nhân và nông dân, tức là tuyệt đại đa số dân cư trong nước, đã thể hiện ra rõ rệt. nhưng không phải chỉ dưới một hình thức chung mà thôi. ý chí đó đã biểu hiện rõ trong các tổ chức có tính chất quần chúng - các Xô - Viết đại biểu công nhân, binh sĩ và nông dân. Vậy làm sao người ta lại có thể phản đối việc chuyển toàn bộ chính quyền Nhà nước về tay các Xô - Viết ấy được? Như thế không có nghĩa khác hơn là từ bỏ dân chủ" V.I Lênin toàn tập tập 32, trang 515,516, NXB Sự thật Hà Nội. Xét từ góc độ lợi ích trong xã hội đã phân chia thành giai cấp và hình thành Nhà nước thì không thể có dân chủ thuần tuý, dân chủ tuyệt đối và dân chủ chung cho tất cả mọi người không phân biệt giai cấp. Tính chất giai cấp của dân chủ đã và sẽ còn tồn tại chừng nào xã hội còn tồn tại giai cấp và Nhà nước. Dân chủ chủ nô trong chế độ chiến hữu nô lệ, dân chủ tư sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa và dân chủ XHCN trong CNXH là những hình thức và trình độ khác nhau của sự phát triển dân chủ trong lịch sử. Dân chủ của ai, quyền lực thuộc về giai cấp hay lực lượng xã hội nào, giải quyết vấn đề lợi ích và quyền lực trên lập trường giai cấp nào trong những điều kiện lịch sử - cụ thể của một chế độ xã hội… Tính xác định có trong những câu hỏi đó cho thấy không thể có câu trả lời trừu tượng, phi lịch sử, thoát ly khỏi những giới hạn và ràng buộc giai cấp trong vấn đề dân chủ. Điều này chứng tỏ rằng, mọi nghiên cứu về dân chủ nếu không tựa vững chắc trên cơ sở kinh tế - xã hội và có sự nhất quán về quan điểm chính trị, tính thống nhất và sự chi phối lẫn nhau giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị của một giai cấp xác định thì không thể chỉ ra bản chất của dân chủ. Lý luận về tính giai cấp của dân chủ, vì lẽ đó là yếu tố quan trọng nhất, là điểm xuất phát dẫn tới các vấn đề khác có trong lý thuyết và tư tưởng về dân chủ. Thứ hai: Dân chủ không chỉ là một hiện tượng lịch sử xã hội, một sản phẩm của sự vận động chính trị bị chế ước bởi trình độ và trạng thái hiện thực của kinh tế xã hội mà dân chủ còn là thành tựu của nền văn hoá nhân loại, là thước đo về trình độ giải phóng con người và xã hội mà loài người đã đạt được trong mỗi thời đại lịch sử. Mỗi bước tiến của dân chủ và mỗi trình độ phát triển của dân chủ là những nấc thang khác nhau của tiến bộ xã hội. Phản ánh những kết quả khác nhau theo xu hướng ngày càng cao hơn và hoàn thiện hơn của tổ chức xã hội, của quản lý Nhà nước và quản lý xã hội nói chung. Sự phát triển của dân chủ đồng thời là nhân tố kích thích và cũng là kết quả sự mở rộng và nâng cao tính tích cực chính trị của quần chúng. Việc quần chúng nhận được nhiều hay ít những khả năng và điều kiện để tham gia vào các hoạt động của Nhà nước, các công việc quản lý xã hội, các hoạt động chính trị, điều đó phụ thuộc vào mức độ phát triển thực tế của dân chủ xã hội. Của pháp luật dân chủ và tiến bộ xã hội. Với dân chủ, con người chuyển từ thế bị động, lệ thuộc bởi giai cấp bóc lột, thống trị tới chỗ xác lập vai trò chủ thể, tích cực trong xã hội mà mình trở thành người chủ. Việc nhân dân lao động giành lấy dân chủ thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội để thay thế chế độ xã hội cũ bằng chế độ xã hội mới tiên tiến hơn, dân chủ hơn có ý nghĩa tích cực về chính trị và văn hoá. Để có quan niệm đúng đắn và toàn diện về bản chất của dân chủ XHCN cần phải khắc phục tính chất phiến diện trước đây thường dẫn tới đồng nhất giản đơn giữa dân chủ với Nhà nước, với chế độ Nhà nước và từ đó quan niệm rằng sự tiêu vong của Nhà nước (đến một lúc nào đó trong tiến trình phát triển của lịch sử) cũng đồng thời là sự tiêu vong của dân chủ. Điều đó đem lại cảm giác rằng, dường như dân chủ là một vấn đề tạm thời, vấn đề quyền lực của giai cấp thống trị gắn liền với tổ chức và bộ máy Nhà nước. Cũng do đó, trong quan niệm truyền thống dân chủ chỉ được xem như một phạm trù lịch sử. Phương pháp tiếp cận hệ thống khắc phục tình trạng ấy bằng cách xác định một tập hợp các yếu tố nổi bật và quan trọng nhất dưới đây: 1. Dân chủ được xét với tư cách là hình thức tổ chức xã hội, là phương thức quản lý và điều hành xã hội được xây dựng thành các thiết chế, Quy chế, chế độ được bảo đảm về mặt pháp lý và được biểu hiện thành trật tự của tổ chức, bộ máy Nhà nước. Dân chủ trở thành một hình thức tổ chức Nhà nước, thông qua tổ chức và quản lý để thực hiện quyền lực đối với xã hội. Lẽ đương nhiên, chủ thể trực tiếp của quyền lực đó trước hết thuộc về một giai cấp hoặc lực lượng xã hội nào nắm quyền điều khiển, chi phối xã hội. Trong mối tương quan với quyền lực Nhà nước và chế độ nhà nước, dân chủ ở đây được hiểu là chế độ dân chủ, là nền dân chủ. Với ý nghĩa này và trong mối quan hệ giữa chế độ dân chủ với chế độ nhà nước thì dân chủ mới là một phạm trù lịch sử. Nói cách khác dân chủ chỉ là phạm trù lịch sử và chỉ tiêu vong với nghĩa dân chủ được xây dựng thành chế độ quyền lực và được tổ chức thành chế độ nhà nước. Sự tiêu vong của nhà nước chỉ làm mất đi các hình thái biểu hiện quyền lực bằng Nhà nước của dân chủ chứ không làm mất đi nhu cầu xã hội của dân chủ mà thực chất của nhu cầu này là nhân dân trở thành người chủ xã hội, toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân tự quản lý, tự quyết định mọi vấn đề của chính bản thân họ. Nó cũng không làm mất đi các giá trị của dân chủ mà trung tâm của các giá trị này là tự do, là thành quả đấu tranh xã hội để giành lấy tự do cho con người, con người trở thành tự do, làm chủ và sáng tạo. Nền dân chủ, chế độ dân chủ từng xuất hiện từ thời cổ đại và sẽ còn tồn tại lâu dài trong lịch sử. Theo dự kiến của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, chỉ đến khi chủ nghĩa Cộng sản thắng lợi hoàn toàn, khi ấy Nhà nước trở nên thừa, nó sẽ tự tiêu vong, lúc ấy mới có thể đi tới sự tiêu vong của chế độ dân chủ. Trong tác phẩm "Nhà nước và cách mạng", Lênin đã nhấn mạnh rằng: "Trong những nhận định thông thường về Nhà nước, người ta luôn luôn phạm một sai lầm mà Ăng ghen đã căn dặn phải đề phòng ở đây… Sai lầm ấy là: Người ta luôn quên rằng thủ tiêu nhà nước cũng là thủ tiêu chế độ dân chủ và Nhà nước tiêu vong cũng là chế độ dân chủ tiêu vong… và chế độ dân chủ là một hình thức Nhà nước, một trong những hình thái của Nhà nước…. chế độ dân chủ càng hoàn bị bao nhiêu thì nó càng gần đến lúc trở thành thừa bấy nhiêu" V.I. Lênin toàn tập, Tiếng việt, NXB Tiến bộ, Mat - Xcơ - Va, 1976, T33, trang 101. 2. Dân chủ còn được hiểu là một giá trị xã hội. Dân chủ với tư cách quyền lực của nhân dân được coi như một giá trị đứng ngang hàng với các giá trị cơ bản khác của con người, như tự do, bình đẳng, tôn trọng phẩm giá con người. Giá trị xã hội đích thực của dân chủ là ở chỗ giành về cho đại đa số nhân dân lao động những quyền lực của chính họ thông qua đấu tranh cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới của chính bản thân quần chúng nhân dân. Sự kết hợp tất yếu và tự nhiên giữa dân chủ và CNXH là ở đó. CNXH tìm thấy dân chủ một thuộc tính bản chất, một trong những động lực phát triển nội tại của mình. Dân chủ trên con đường tiến hoá và phát triển tìm thấy ở hình thức tổ chức xã hội XHCN những khả năng và điều kiện tốt nhất để bộc lộ đầy đủ tiềm lực, sức mạnh bản chất, chân giá trị của mình. 1.1.1.1.2. Quyền dân chủ: Nếu hiểu dân chủ là việc nhân dân giành lấy quyền lực Nhà nước, làm chủ xã hội và tham gia vào việc quản lý xã hội ấy là khách quan, thì Quyền dân chủ là tất cả những quyền năng được luật pháp ghi nhận. Theo chúng tôi Quyền dân chủ là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định quyền của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nó bao gồm các quyền về dân sự, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Như vậy khi nói tới quyền dân chủ hay các giá trị dân chủ được thể chế hoá trước hết phải xác định nguồn gốc của nó là do pháp luật thừa nhận và quy định phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị của xã hội trong từng thời kỳ. Sau đó Nhà nước bảo đảm cho các giá trị đó được thực hiện trên thực tế. Quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước XHCN ban hành và bảo đảm thực hiện quy định các quyền của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… bảo đảm cho nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước. Theo chúng tôi quyền dân chủ XHCN hiện nay của nhân dân ta được phân thành các nhóm sau: 1. Quyền chính trị: Đây là nhóm quyền quan trọng và trước hết đối với nhân dân ở mỗi quốc gia nó xác định tư cách hay địa vị của công dân trong xã hội. ở Việt Nam, nhân dân là chủ thể chân chính và duy nhất của quyền lực xã hội; Nhà nước, pháp luật và các thiết chế công quyền chỉ là đại diện thừa hành, hay công cụ tiện dụng của nhân dân, nhằm thực hiện quyền lực ấy một cách có tổ chức và hiệu quả. Quyền chính trị là các quyền xác định khả năng của công dân vào việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội nó bao gồm: Quyền có quốc tịch, là quyền được sống trong một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; các quyền bầu cử là quyền được lựa chọn hay bãi nhiệm những đại biểu đại diện cho mình để thiết lập nên các cơ quan đại diện (cơ quan quyền lực Nhà nước), hay tự mình ứng cử để tham gia vào các cơ quan quyền lực Nhà nước. Quyền khiếu nại, tố cáo đối với các hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, xâm phạm đến lợi ích công cộng, quyền và lợi ích chính đáng của công dân; các quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, lập hội, hội họp, biểu tình. 2. Quyền dân sự: Quyền dân sự là các quyền tự nhiên, gắn liền với mỗi con người đượck pháp luật ghi nhận và bảo vệ bao gồm: Các quyền nhân thân (quyền đối với họ, tên, hình ảnh, quyền đối với quốc tịch, nơi cư trú, quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, bí mật đầu tư, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đi lại…); các quyền sở hữu, thừa kế và các quyền khác đối với tài sản; quyền tham gia quan hệ pháp luật dân sự… Quyền dân sự cho phép con người bảo vệ được cá tính là chính mình trong quan hệ với Nhà nước và người khác. Các quyền dân sự là tiền đề để xây dựng một chế độ Nhà nước dân chủ. 3. Quyền kinh tế: Với mục tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức. Tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Các quyền kinh tế gắn liền v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van.doc
Tài liệu liên quan